TỊNH ĐỘ TÔNG
Dẫn nhập
Đức Phật ra đời với nhân duyên mở bày chân tánh, khiến cho chúng sanh thoát
vòng mê khổ, ngộ vào bản thể sáng suốt an vui. Bao nhiêu
pháp môn tất cả nghĩa lý mầu nhiệm trong suốt đồi giáo hóa của đức Bổn sư, đều không ngoài mục đích ấy. Nhưng tìm một lối thẳng tắt mau thoát đường sanh tử một pháp hợp lý hợp cơ cho chúng sanh thời buổi này chỉ có Pháp môn Tịnh Độ. Tại sao thế ? Vì trong đời mạc pháp, người tu hành bị nhiều chướng duyên, làm thối chuyển. Nhìn về người: Xác thân hay
đau yếu, mạng sống ngắn ngủi, phần tâm tánh thì nghiệp hoặc sâu dày, trí tuệ mờ tối, xét về cảnh phần đời thường xãy ra nạn nước tai trời, phần đạo lại ít bậc thiện tri thức dắt dẫn, nhiều kẻ dối tu, đầy dẫy những mối dị đoan tà đạo, cho nên trong kinh Đại Tập Đức Như Lai huyền ký rằng: “đời mạc pháp ức ức người tu hành song khó được một kẻ ngộ đạo, chỉ nương nơi pháp môn niệm Phật mà thoát khỏi luân hồi. Tịnh Độ tông là một pháp môn phổ biến đối với nhiều người trên các nước thuộc tư tưởng đại thừa. Là pháp môn chú trọng tha lực, một đường lối tu đáp ứng nhu cầu tâm linh về một đời sống vĩnh cửu hoàn toàn giải thoát mọi khổ đau của con người.
NỘI DUNG:
I/LỊCH SỬ VÀ SỰ TRUYỀN THỪA TỊNH ĐỘ TÔNG
Ở Ấn Độ không thiết lập thành tông phái, không có sự truyền
thừa từ người trước cho kẻ sau như các tông phái khác, mà chỉ căn cứ vào sự
đóng góp nhiều ít công cuộc xiễn dương giáo lý Tịnh Độ. Sang Trung Hoa, giáo lý
Tịnh Độ trở thành một tông phái rõ rệt. Tại Trung Hoa, ngài Huệ Viễn(333-416)
được coi là người sáng lập pháp môn, rồi kế tiếp các ngài như Đàm Loan(476-542)
Đạo Xước (562-645) Thiện Đạo (613-681) Từ Mẫn (680-748)Vân Thê, Liên Trì, Trí
Húc, Tĩnh An, Thật Hiền...Ấn Quang đề xướng pháp môn Tịnh Độ ở Trung Hoa được
các bậc cao đức xiễn dương không những ảnh hưởng sâu rộng trong quần chúng khắp
nước Trung Hoa mà sau đó còn truyền qua các nước Tây Tạng, Nhật Bản, Triều
Tiên, Việt Nam v.v...được tiếp nhận
nhanh chóng và mạnh mẽ.
Trong hệ thống giáo lý đại thừa nhiều kinh luận ca ngợi tư
tưởng Tịnh Độ, làm cho Tịnh độ tông trở nên phổ biến và nổi bật trong tư tưởng Phật
học Trung Hoa.
II/ GIÁO NGHĨA TỊNH ĐỘ TÔNG
Tịnh độ tông lấy ba bộ kinh VÔ LƯỢNG THỌ nói về tiền thân
của Phật A Di Đà khi còn là Pháp Tạng Tỳ Kheo đã phát ra 48 lời nguyện để cứu
độ chúng sanh. Kinh Quán Tưởng Vô Lượng Thọ nói rõ pháp quán tưởng niệm Phật.
Kinh A Di Đà miêu tả thế giới Cực Lạc đẹp đẽ trang nghiêm.
Giáo lý Tịnh độ đã được đức Phật Thích Ca thuyết cho hoàng hậu nước Kosala là Vi Đề hi.
Bà bị chính con trai bà giam lỏng và chán nãn trước cảnh thế thái nhân tình. Bà
cầu mong Đức Phật cứu giúp vượt qua nỗi khốn khổ này. Đức Phật đã xuất hiện và
giới thiệu các quốc độ chỉ có an lạc, không có khổ đau, bà chọn cõi Phật A Di
Đà. Đức Phật dạy bà phương pháp niệm danh hiệu Phật A Di Đà để được vãng sanh
về cõi ấy.
Cực Lạc thế giới, Hán dịch từ tiếng Phạn Sukhànatì, là nơi
có hạnh phúc mà không có khổ đau. Cõi giới này do Đức Phật A Di Đà giáo hóa. Có
thể nói thế giới Cực Lạc là một khái niệm khác của Niết Bàn, vì Niết Bàn
(Nirvana) có nghĩa là dập tắt mọi phiền não khổ đau.
Một thế giới hiện thực ở Tây Phương khác với thế giới Ta bà
đầy khổ đau với 5 trược.
Ưu điểm của thế giới Cực Lạc là: không ô nhiễm không phiền
não, thọ mạng lâu dài, ăn uống tự có, mọi ước muốn đều như ý, có thần thông
diệu dụng...Đất nước tốt đẹp cấu tạo bằng bảy báu...Có nhạc trời, âm thanh hòa
nhã, có Phật thuyết pháp...là một thế giới lý tưởng, một môi trường tốt cho sự
tu hành và đạt hạnh phúc tối thượng.
Đức Phật A Di Đà là vị giáo chủ thế giới cực
lạc. A Di Đà là danh từ dịch âm của Amitàbha, dịch nghĩa là Vô Lượng Quang, còn
Amitàyus là Vô Lượng Thọ. Vô Lượng Quang chỉ ánh sáng vô lượng, biểu tượng cho
trí tuệ viên mãn hay cho pháp thân. Vô Lượng Thọ chỉ cho đời sống vĩnh cửu,
biểu tượng của đại định hay còn gọi là giải thoát thân- Với ý nghĩa danh hiệu
như vậy. Đức Phật A Di Đà tượng trưng cho sự sống vĩnh cửu và giải thoát hoàn
toàn khổ đau, đó là mục đích cao cả và hấp dẫn đối với con người ở mọi thời
đại.
Theo kinh Vô Lượng Thọ thì Đức Phật A Di Đà từng là một nhà
vua. Sau khi ngộ đạo ngài phát tâm xuất gia và trở thành vị Tỳ Kheo tên là Pháp
Tạng. Ngài quyết tâm tu hành thành Phật và phát nguyện độ hết chúng sanh trong
cõi Cực lạc của mình. Ngài lập bốn tám lời nguyện giúp chúng sanh giải thoát.
Những nguyện quan trọng là:
- Nguyện thứ mười tám: “Ví con được thành Phật, mười
phương chúng sanh muốn sanh về cõi nước con mà chí tâm tin mến niệm từ một niệm
cho đến mười niệm, nếu không được sanh thì con không thành bậc chánh giác- chỉ
trừ những kẻ tạo tội ngũ nghịch, hủy báng chánh pháp”.
- Nguyện thứ mười chín “Ví con được thành Phật, mười
phương chúng sanh phát bồ đề tâm, tu các công đức, dốc lòng phát nguyện muốn
sanh về cõi nước con, đến lúc mạng chung, ví con chẳng cùng đại chúng vây quanh
hiện thân trước người đó thì con không thành bậc chánh giác”.
- Nguyện thứ hai mươi “Ví con được thành Phật, mười phương chúng
sanh nghe danh hiệu con, nhớ nghĩ quốc độ con, vun trồng các công đức rồi dốc
lòng hồi hướng muốn sanh về cõi nước con, nếu không được toại nguyện thì con
không thành bậc chánh giác”.
Qua nội dung 48 lời nguyện cho thấy con đường tu tập Tịnh
độ dựa vào nguyện lực của Phật A Di Đà và nhất tâm niệm Phật là con đường dễ tu
nhất, đó là lý do tại sao Tịnh độ tông được truyền bá rộng rãi nhất.
Con đường tu tập của pháp
môn Tịnh độ dựa trên ba nguyên tắc:
1/ Niềm tin (tín)
Đây là điều kiện tiên quyết, không có niềm tin hoặc niềm tin không đủ mạnh thì
không thể tu Tịnh độ được. Sự tin tưởng là nền tảng khởi lên ước muốn và hướng
tâm về thế giới Cực Lạc. Như tất cả các pháp môn khác niềm tin là mẹ của các
thiện pháp và phát sinh công đức.
Niềm tin của hành giả Tịnh Độ rất rõ, tin rằng Đức Phật A
Di Đà và thế giới Cực Lạc là có thực, Đức Phật A Di Đà và thánh chúng sẵn sàng
tiếp độ chúng ta, chỉ cần chuyên tâm tin tưởng và niệm Phật quyết chí vãng sanh
thì chắc chắn được vãng sanh. Vì vậy, các kinh sách Tịnh độ và hành giả Tịnh độ
thường nói xác quyết chứ không có thái độ lưỡng lự phân hai.
2/ Nguyện lực hay
tâm mong muốn (nguyện)
Niềm tin ổn định sẽ đưa đến ước muốn vãng sanh gọi là ước nguyện.
Mọi hoạt động tâm lý đều hướng về Tịnh độ, mọi ước muốn đều đều được kích thích
bằng sự nhàm chán đối với đời sống uế trược và bất an này. Nếu ta còn ham muốn
vật chất, tình cảm tư tưởng của cuộc đời này thì ước muốn vãng sanh không mạnh.
Nghiệp liên kết với đời sống này không giảm thì Tịnh độ không hấp dẫn ta được
nên có chán Ta bà mới có ước mong mãnh liệt về Tịnh độ được. Đó cũng là lý do
vì sao người lớn tuổi ưa tu Tịnh độ hơn là giới trẻ.
Biểu hiện của ước nguyện về Tịnh độ là mọi hành vi lời nói
và tâm ý đều phải thể hiện ước nguyện đó. Với lời nguyện mạnh mẽ từ bỏ uế độ
vãng sanh Tịnh độ, mong có khả năng cứu độ chúng sanh- Tâm nguyện như vậy mới
tương ứng với tâm nguyện của Tịnh độ, mới có cảm ứng với Phật và thánh chúng ở
Cực lạc.
3/ Hành trì (Hạnh) khi
tâm nguyện hướng về tịnh độ thì mọi hành động, ngôn ngữ đều được tu tập liên
tục, nghĩa là thực hành phương pháp niệm Phật, quán tưởng...đều đưa đến hợp
nhất thân khẩu ý, không để cho các đối tượng của trần gian lôi kéo làm tâm bị
tán loạn. Mọi công đức, thiện pháp ta có đều hồi hướng về Tịnh độ, thường thì
hành giả thiết lập cho mình một thời khóa tu niệm, ví dụ như trong một ngày một
đêm chia thành sáu thời khóa để tu niệm, tạo cho mình tiêu chuẩn niệm bao nhiêu
lần, nhờ hành trì mà hành giả có thể đắc định, thấy Phật và thánh chúng ở cõi
cực lạc.
III/ PHƯƠNG PHÁP NIỆM PHẬT:
Mục đích của pháp môn niệm Phật A Di Đà là đưa đến nhất
tâm, chế ngự mọi vọng tưởng của tâm. Niệm Phật là thực hành chánh niệm, như vậy
về mặt bản chất, pháp môn niệm Phật không khác biệt với thiền quán, là cốt lõi
của các pháp môn.
Phương pháp niệm Phật có bốn cách:
1/ Trì danh niệm Phật: niệm danh hiệu Phật
A Di Đà, hoặc niệm thầm hoặc phát âm thanh.
2/ Quán tượng niệm Phật: niệm Phật và
chăm chú nhìn vào tượng Phật, thấy rõ tướng tốt của Phật hoặc tướng tốt của Bồ
Tát và thánh chúng.
3/ Quán tưởng niệm Phật: quán tưởng
hình ảnh của đức Phật A Di Đà cho đến khi thấy được linh ảnh của đức Phật. Pháp
quán này khác với quán tượng là không dùng hình ảnh bên ngoài. Trong kinh Vô
Lượng Thọ đề cập đến 16 pháp quán.
4/ Thật tướng niệm Phật: niệm Phật
đạt đến chỗ vô niệm, không còn chủ thể và đối tượng. Pháp quán này mang sắc
thái thiền hơn là Tịnh độ cho nên không phổ biến được.
Phương pháp tu Tịnh độ được nhiều người chấp nhận và hành
trì, nhất là trì danh niệm Phật, ai thực hành cũng được, có thể niệm lớn, niệm
thầm tùy theo trường hợp thích ứng khác nhau. Người xưa đưa ra bốn sắc thái
niệm Phật:
1/ Hòa hoãn niệm
là niệm từ từ không cần gấp, không nôn nóng, chỉ cần bền bỉ có thể vừa làm vừa
niệm Phật.
2/ Truy đảnh niệm là
đưa câu niệm Phật nằm trên đỉnh cao của dòng tâm thức, nghĩa là niệm Phật luôn
luôn hiện tiền, không bị chi phối bởi công việc, quyết chí cao, ấn định thời
gian và cần có kết quả rõ.
3/ Thiền định niệm tức
trụ tâm vào định rồi sử dụng tâm định ấy mà niệm Phật.
4/ Tham cứu niệm
là cách niệm Phật ảnh hưởng thiền công án, như câu hỏi niệm Phật là gì, sự nung
nấu nghi tình đến đỉnh cao sẽ bùng vỡ ý thức và giác ngộ- Sắc thái này mang dấu
ấn của thiền hơn là của Tịnh độ.
IV/ KẾT LUẬN
Tịnh độ tông chú trọng vào niềm tin của cá nhân và sự cứu
độ của đức Phật A Di Đà. Pháp tu chủ yếu là niệm danh hiệu Phật A Di Đà và quán
tưởng đến thế giới Cực Lạc. Đây là một tông phái được phổ biến rộng rãi nhất và
cũng được nhiều tông phái khác phổ biến và hành trì. Pháp môn niệm Phật là con
đường tu tập khá phù hợp với nhiều căn cơ khác nhau- Thực ra pháp môn niệm Phật
có từ thời Phật giáo nguyên thủy, đức Phật dạy các đối tượng quán niệm trong đó
niệm Phật là đứng đầu, vì đây là đối tượng dễ đưa tâm vào chánh niệm.
Pháp môn niệm Phật kết hợp cả tự lực và tha lực, ví như “một hòn
đá nhỏ cách mấy cũng chìm trong nước, nhưng một tảng đá vẫn nổi trên nước nếu
đặt trên thuyền”.
Con đường giải thoát của đạo Phật căn bản là ở tâm, tức là
nổ lực cá nhân, pháp môn Tịnh độ vẫn không ngoài đường lối ấy, hòn đá lớn nhờ
thuyền chở mà nổi trên nước, nhưng vận chuyển hòn đá ấy lên thuyền là công phu
tự thân, để có được mười niệm nhất tâm và sự cứu độ của Phật, hành giả phải có
công phu tích lũy lớn, nghĩa là có một quá trình tu tập.
Ngài Trần Thái Tông thiền sư Việt Nam đời Trần, chia niệm Phật
làm ba hạng người: “Người niệm Phật có ba bậc: bậc thượng trí thì tâm tức Phật
chẳng nhờ tu chứng, thân Phật là thân ta, không có 2 tướng, tánh tướng không
hai, tịch mà thường còn, còn mà chẳng biết. Đó là hoạt Phật- Bậc trung trí phải
nương vào niệm Phật, chú ý chuyên cần, niệm Phật không quên tự nhiên thuần
thiện, niệm thiện niệm ác liền tiêu- Niệm ác đã tiêu duy còn niệm thiện. Bởi
niệm ý niệm niệm niệm tất diệt. Khi niệm đã diệt, ắt về chánh đạo, tới khi mạng
chung được vui Niết Bàn- Bậc hạ trí thì miệng chuyên niệm lời Phật tâm muốn
thấy tướng Phật, thân nguyện sinh nước Phật, ngày đêm siêng năng không thoái
chuyển, sau khi mạng chung thì nhờ thiện niệm đó được sanh sang nước Phật chứng
đạo Bồ Đề.
Ngài kết luận ba hạng người trên đây sâu cạn khác nhau,
nhưng mục đích và kết quả là một. Tuy nhiên bậc thượng trí nói thì dễ làm thì
khó, bậc trung trí nếu chuyên cần nổ lực sẽ thành tựu trong đời này, nếu nghiệp
nặng chưa dứt thì khó thành tựu- bậc hạ trí lối tu lấy niệm Phật làm nấc thang
bước từng bước vững chắc được qua nước Phật rồi thì chí nguyện sẽ thành. Vậy
muốn thành tựu cái siêu việt phải bắt đầu từ cái đơn giản. Hơn nữa Phật pháp là
pháp hành, nghĩa là không thể nhận thức bằng lý luận suông mà phải thực hành./.
d & c
0 nhận xét:
Đăng nhận xét