BẢY PHÁP ĐOẠN TRỪ PHIẾN NÃO
Trong kinh Trung Bộ Đức Phật có dạy rằng
bảy hương pháp đoạn trừ phiền não.
Phiền não ví như cơn bịnh- Pháp môn ví như
thuốc.
1/ Do tri kiến mà đoạn trừ được phiền não.
2/ Do phòng hộ mà đoạn trừ phiền não.
3/ Do thọ dụng mà đoạn trừ được phiền não.
4/ Do kham nhẫn mà đoạn trừ được phiền não
5/ Do tránh né mà đoạn trừ được phiền não
6/ Do diệt trừ mà đoạn trừ được phiền não
7/ Do khéo tu tập mà đoạn trừ được phiền
não.
1/ Tri kiến là sự nhìn thấy
rõ nguyên nhân sự việc bắt nguồn từ đâu.
Do có tri kiến mà thấy được sự vật vô thường giả tạm không
thật- hữu hình hữu hoại, có hợp phải có tan- có sanh tất có tử. Thân do tứ đại
họp thành, nhìn thấu thấy được vô thường.
Bà Mạt Lợi phu nhân- đang sớt bát cúng dường chư Tăng, có tin
con bà chết, bà bình thản trong công việc sớt bát cúng dường không một chút lo
buồn, hoảng hốt khi người thân của mình xãy ra biến cố. Sau đó người ta hỏi bà
tại sao bà bình tỉnh trước sự biến cố của người thân mình như vậy, bà trả lời:
Con tôi không mời mà nó đến- Không đuổi mà nó đi- Đến như
thế nào đi như thế đó. Đến đi như gió hợp tan như mây- Gió mây đều vô thường-
Vấn vươn chi cho khổ.
Một khi thấy biết đúng đắn ta hóa giải được phiền não, hóa
giải được đau khổ.
Nếu ta bị mất của, thì nghĩ ngay đến của năm nhà, là cái
ngoài thân.
Hoặc nghĩ đến mối tương quan nhân quả, hoặc ta là nợ của họ
hoặc họ là nợ của mình. Đó là phương pháp hóa giải được phiền não.
2/ Do phòng hộ mà đoạn trừ
phiền não:
Phòng hộ là ngăn ngừa, bảo vệ- giống như bờ đê, rào dậu, cửa
đóng then cài, tủ khóa- nhà ta có của quý không tội gì ta luôn mở cửa- con
người có sáu cửa- mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý lúc nào cũng hướng ra bên ngoài
để kết hợp làm bạn với sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Nếu ta không phòng hộ
được thì: chưa đánh thì mặt đỏ như vang, đánh được rồi thì mặt vàng như nghệ.
Con rùa lúc nào cũng phòng hộ thân mình bằng cách thụt đầu,
rút chân, đuôi, khi gặp con dã can.
3/ Dùng thọ dụng để đoạn trừ
phiền não:
Như đói cần phải ăn, khát cần phải uống, buồn ngủ phải đi
nằm, đau phải điều trị.v.v..
4/ Kham nhẫn để đoạn trừ
phiền não.
Ông bà ta nói: một sự nhịn, chín sự lành hoặc bách nhẫn
thành kim, hoặc bách nhẫn chi vị thượng- Bách hạnh nhẫn chi vị thượng- Trăm
hạnh nhẫn là trên hết.
Đức Khổng Tử dạy Tử Trường về hạnh nhẫn







· (Thiên
Tử không nhẫn nước tiêu hư
· Chư hầu không nhẫn mất thân mạng
· Quan
lại không nhẫn bị hình phạt
· Vợ
chồng không nhẫn tình ý xa nhau
· Anh
em không nhẫn chia lìa nhau
· Tự
thân không nhẫn họa khó trừ.)
Tử Trường nói lành thay khó nhẫn, lành thay khó nhẫn, không
nhẫn không thành người, không phải người không nhẫn được.
Sách Minh Tâm chép:
Nhẫn
nhẫn nhứt thiết ác duyên tùng thử tận
Nhiêu
nhiêu thiên tai vạn họa nhất tề tiêu
Hưu
hưu cái thế công danh bất tự do.
Nhẫn nhục thì kiềm chế vọng tâm, dứt trừ được tham, sân,
si, mạn. Lại nhẫn là mềm mại. Nhu thắng cang, nhược thắng cường, mềm thắng
cứng, yếu thắng mạnh.
Thiệt nhu thường tồn, xỉ cang tắc chiết. (“Lưỡi mềm thường còn, răng cứng ắt gãy”)
Nhẫn nhẫn nhẫn
Nhẫn
là nguồn rộng bao la
Thế
hết mê lầm chấp có ta
Trời
sáng trong xanh đâu nổi sấm
Nước
thanh ngần suốt chẳng đào ba
Thánh
nhân điềm tỉnh thường an lạc
Tiểu
tử hung hăng lắm thiết tha
Của
quý ngàn vàng không chuộc nhẫn
Nhẫn,
thường tự tại chứng ma ha.
5/ Tránh né thì đoạn trừ được phiền não,Tránh né những nơi nguy hiểm.
Tránh né những người điên cuồng,Tránh né
thú dữ, những người hung bạo
Những người xấu ác - nơi vũ trường, nơi
quán rượu, nơi cờ bạc, người trộm cắp
a/
Tránh né những nơi không nên đến đừng đến
b/
Tránh những người không nên giao du
c/
Tránh những việc không nên làm đừng làm.
6/ Những phiền não phát sinh
ra liền đoạn diệt đừng kéo dài. Chấm dứt tâm trả thù, tâm giận dữ.
7/ Do khéo tu tập mà đoạn
trừ phiền não. Tùy theo căn cơ mà tu tập các pháp môn.
*
* *
0 nhận xét:
Đăng nhận xét