Thứ Hai, 31 tháng 10, 2016

PHI TÍCH CAO TĂNG

PHI TÍCH CAO TĂNG

          (Vị tăng có kỳ tích phi thường, đặc biệt khác với các vị tăng thông thường khác nơi trường đời thế tục danh lợi)
           Tâm nguyện và ý chí của vị tăng này suốt đời canh cánh chỉ có một việc được tóm lược trong bài bài thơ của ngài lưu lại như sau:
                   Đời ta chí gởi chốn liên trì,
                   Trần thế vinh hư sá kể chi
                   Bốn tám năm dài chuyên lễ niệm
                   Mừng nay được thấy đức A Di.
                                            Thích Thiền Tâm.
         Sau đây tóm lược đôi nét trong tiểu sử của ngài Hòa thượng Thích Thiền Tâm. Một vị chân tu thạc đức, có công xiển dương pháp môn tịnh độ và mật tông ở nước Việt Nam. Là người có công đóng góp vào công việc hoằng dương chánh pháp bằng thân giáo khẩu giáo, bằng sự tu chứng. Với ý chí cùng trí tuệ ngài đã dịch thuật và sáng tác giảng giải nhiều tác phẩm Phật học có giá trị lưu lại cho hậu tấn. Ngài đã đóng góp vào nền giáo dục Phật giáo cũng như nước nhà một số kinh sách thơ văn có giá trị trên mặt văn hóa nói chung trên mặt khuyến tu nói riêng không nhỏ. Tuy vậy như trong thơ Kiều có câu “Hồng nhan đa truân”. Đời ngài cũng vậy, đa tài lắm nổi gian truân trong cuộc sống tu hành. Ngài nói “Trâu cột ghét trâu ăn” qua những bài thơ:
                   Thùy nhơn hậu bối vô nhơn thuyết,
                   Na cá nhơn tiền bất thuyết nhơn…
          Tạm dịch:
                   Chớ nói ta không người chỉ trích
                   Âm thầm chi thiếu kẻ gièm pha
                   Trước mặt cúi đầu thưa dạ, bẩm,
                   Sau lưng kêu chửi mẹ cùng cha! ….
             Hoặc là:
                   Thôi thà đừng biết cho xong chuyện
                   Biết bao nhiêu lại đau lòng bấy nhiêu
           Và:
                   Chuyện đời thà khuất không nghe biết
                   Đóng cửa cài then chẳng muốn trông…
          Hay
                   Rắn rết gớm ai lòng kia độc!
                   Rồng mây phó mặc chuyện huyên thiên
          Thay vì giận tức hay phân bua phải trái thì:
                   Việc đời thà khuất đôi con mắt
                   Lòng đạo xin tròn một tấm gương.
          Trong hoàn cảnh và trường hợp như thế ngài dạy bảo rằng, nên thương xót cho những ai mê lầm gây tội lỗi mà mình bất lực không thể can ngăn, khuyên bảo cứu vãn được, chỉ còn biết tự mình, bền giữ đạo tâm, như gương tròn sáng. Ngài lại khuyên phải siêng tu. Siêng tu đây không phải chỉ tụng kinh niệm Phật, để khoe số cho nhiều, mà tụng niệm với tâm thanh tịnh an lành, với lòng chí thành trong sáng, mới được tội diệt phước sanh.
          Lại chẳng phải chỉ có tụng niệm suông, mà phải giữ tâm niệm, lời nói và hành động, theo điều giới thiện. Như thế mới xứng hợp là người tu Phật. Và tu như thế mới có ngày được lên bờ giải thoát.
          Trong các ý khuyên tu ngài tóm lại có ba điều là:
          1/ Phải nghĩ đến sự già, đau, chết, vô thường...
          2/ Phải biết thương mến đạo, biết nâng đỡ nhau, phải  nghĩ đến sự tồn vong đạo pháp.
          3/ Và phải biết siêng năng lo tu tập.
          Ngài là vị chơn tu có tu có chứng biết trước ngày giờ năm tháng mình sẽ vãng sanh, qua bài thơ lưu lại như sau:
                   Sáu tám năm qua, sắp đến ngày
                   Trời Tây con trẻ mộng hồn bay
                   Trong mơ kính lễ cha già hỏi:
                   Tin tức chừng nào mới đáo lai?
          Hay
                   Tam thử, Mão thời quy
                   Lai, khứ thiểu nhơn tri,
                   Lục bát trần duyên mãn
                   Thân xuất đáo Tây kỳ.
          Tức là:
                   Ba Chuột, giờ Mẹo về
                   Việc đến đi người thường ít ai biết
                   Sáu tám duyên đời hết
                   Bỏ thân trở về Tây.
          Như vậy ngài đã biết được ngày giờ “QUY KỲ”của mình là Giờ Mẹo (6g 15 phút sáng) Ngày giáp Tý (21) tháng Tý (tháng 11 AL) Kiến Nhâm Tý, năm Nhâm Thân (1992 dl) Thọ 68 tuổi đời, 48 tuổi đạo).
          Và ngài cũng cảm nhận bao nổi đắng cay nhọc nhằn trong việc tu tập và hành đạo của ngài qua bài thơ:
                   Sáu tám nhọc nhằn kể xiết chi.
                   Thăng trầm nhiều nổi chi không đi
                   Mài dũa cho thành ra ngọc quý
                   Mới hay châu nọ thiệt “Ma Ni”
                   Một niệm công thuần hai bốn chẳn
                   Cõi tạm khứ hồi mấy kẻ tri!
                   Khi đến, mèo kêu, ba chuột chạy
                   Trần duyên vĩnh dứt, đoạn sầu bi.
                              Vô Nhất Tăng- Thích Thiền Tâm
                       (Tự cảm – 21-10- âl Nhâm Thân)
                        Bài tự cảm sau cùng:
                   Sáu tám năm qua việc đáng kinh
                   Thăng trầm vùi dập, lắm tai tinh.
                   Chẳng qua một giấc mơ dài ấy,
                   Mà kiếp phù sinh tạm múa hình.
                   Hai bốn năm ròng chuyên NHỨT NIỆM
                   DI ĐÀ sáu chữ phóng quang minh.
                   Hôm qua tin tức trời TÂY báo,
                   Giờ Mẹo mai đây tạ thế tình.
                            Liên Du- Thích Thiền Tâm (20-11- al – 13-12-1992)
Sáu mươi tám năm qua sống trên cõi thế này, đời ngài đã lãnh chịu không biết bao nhiêu tai nạn và thăng trầm vùi dập… cả một kiếp đời trôi qua như thế, nghĩ lại giống như một giấc mơ dài mà thôi. Cái kiếp phù sinh như bào như ảnh cùng với xác thân tứ đại này đây, chẳng qua cũng giống như một cái hình nộm múa máy chân tay, đứt hết dây rồi, té nhào xuống thành một đống vô dụng. 24 năm ẩn tu, ngài chỉ ròng chuyên trì niệm A Di Đà Phật, nay công thành quả mãn. Đức A Di Đà Thế Tôn đã có đến báo tin rằng:  Giờ Mẹo ngày mốt 6g15 phút ngày 21 al năm Nhâm Thân là ngài sẽ vĩnh biệt cõi Ta Bà và trực chỉ về nơi An Dưỡng.
          Qua nội dung các bài thơ lưu lại ta thấy ngài thực tu thực chứng. Là người nói được làm được, thân khẩu ý hợp nhất là gương sáng cho những người tu theo sau này.
        Sự tu tập và hoằng pháp của ngài về pháp môn tịnh độ đã ảnh hưởng sâu rộng trong nước cũng như ngoài nước trong hai giới tu sĩ và cư sĩ từ xưa đến nay nhưng về phần tiểu sử của ngài không mấy ai biết. Vì thế nơi đây chúng ta cũng cần biết qua đôi nét của đời ngài để lấy đó làm tấm gương soi sáng cho mình và lấy đó làm dẫn lộ cho nhiều người tu tập theo. Sau đây khái quát một đôi nét về thân thế và sự nghiệp tu tập của ngài.
          Hòa Thượng tên đời là Nguyễn Nhựt Thăng (vì mẫu thân sinh ngài lúc gần mặt trời mọc). Pháp hiệu là Vô Nhất  Thích Thiền Tâm. Bút hiệu Liên Du. Còn có hiệu là Trí Hiền, Ngài sanh quán tại làng Bình Xuân, Quận Hòa Đồng, tỉnh Gò Công, nay là tỉnh Tiền giang thuộc miền Đông Nam Bộ.
          Thân phụ ngài là cụ ông Nguyễn Văn Hương là bậc túc nho có học vấn là một nông dân chân chất thật thà. Thân mẫu là cụ bà Giác Ân Trần Thị Dung một người nội trợ hiền đức đảm đang. Ngài là con thứ 10 trong 13 người con trong gia đình (4 trai 9 gái).
          Theo lời thân mẫu ngài kể lại, trong một đêm nọ, bà đang ngủ mơ màng, chợt thấy ngoài sân có ánh sáng chói rực, trong vía bà tưởng là có lẽ Tây thả trái sáng gần nhà, bà e rằng trái sáng rơi xuống sẽ làm cho nhà bị cháy nên bà lật đật chạy ra ngoài xem chừng, thì không thấy có lính tráng hay chuyện gì khác hết. Trong khi bà còn đang ngạc nhiên ngó qua lại để tìm kiếm thì bổng nghe có tiếng gọi rằng:
          Người nữ kia đến đây ta bảo:
          Giọng nói rất oai nghiêm vang ra từ phía trên đầu làm cho bà giựt mình, ngước mắt lên thì thấy giữa không trung có một bà lão đang từ từ giáng hạ xuống đất, chính cái ánh sáng mà bà tưởng là do trái châu của Tây bắn lúc nảy là từ nơi thân mình của bà lão này phát ra.
          Bà cụ tưởng đây là tiên hay Phật gì giáng hạ nên lật đật quỳ xuống lạy dài. Bà lão khen tốt bảo đứng dậy đoạn kêu bà tới gần và trao cho một hài nhi khoảng chừng 3,4 tháng mà nói rằng: “Ngươi hãy nhận lấy và nuôi dưỡng đứa bé này cho ta.”.
          Cụ bà ngần ngại không muốn lãnh, vì cụ bà trãi qua nhiều lần sinh nở dưỡng nuôi, sự đau đớn và cực khổ đã làm cho cụ bà ngán ngẫm nên chần chừ, do dự sự quyết định.
          Bà lão trợn mắt, ra oai mà bảo: Đây là La Hầu La quý tử chẳng phải người thường, bởi ta thấy ngươi là một người hiền đức nên mới trao cho, sao dám từ chối? Hãy nhận lấy mà nuôi, sau này sẽ được nhờ nó độ thoát cho về với Phật.
          Phần thấy bà trợn mắt, ra oai lớn giọng, phần nghe nói quý tử nên cụ bà cũng ham, đưa tay bồng lấy đứa bé, thấy nó trắng trẻo dễ thương nên bà cũng vừa ý đẹp lòng. Vừa bồng hài nhi vào lòng xong thì bà lão thăng bổng lên cao đi mất, ánh sáng cũng theo bà lão mà tắt luôn.
          Bà giật mình thức dậy thì ra là một giấc chiêm bao, trong lòng lấy làm lạ lắm, sáng ra cụ mới kể cho chồng nghe giấc mộng hồi khuya.
          Cụ ông bảo, chắc có lẽ trời Phật sẽ cho mình sanh con quý tử không chừng. Kể từ đó cụ bà mang thai và đặc biệt từ đó về sau, cụ bà không chịu được mùi cá thịt, nên ăn chay trường luôn, và cơ thể bà vẫn mạnh khỏe hơn so với lúc trước kia hay đau ốm rề rề.
          Ở gần đó trong làng có một ngôi chùa nhỏ, không có sư trụ trì chỉ có một ông từ già trông nôm thắp hương tụng kinh, ông cũng bận gia đình nên ít khi mở cửa chùa trừ khi các ngày 30,01, 14 và 15 mới đến chùa tụng niệm mà thôi, vì thế nên chùa thường là cảnh nhang tàn khói lạnh.
          Cụ bà thấy vậy nên mỗi ngày dành ít thời giờ đến chùa quét dọn đốt nhang, dộng chuông. Việc này từ trước đến nay cụ bà chưa bao giờ biết hay phát tâm làm cả, thế mà từ khi có mang đứa con này, đối với các việc chùa chiền, công quả cụ lại hăng hái và siêng năng hơn bao giờ hết, âu cũng là thiện căn nhiều đời lưu lại. Ngày mà cụ sanh ngài ra vào khoảng rạng đông, bổng dưng có một cơn mưa nhỏ, hài nhi chào đời nhẹ nhàng không làm cho cụ bà đau đớn như những đứa con trước.
          Cụ ông chiếu theo ngày giờ năm tháng và vài ba triệu chứng khi sinh ra, tra cứu trong sách toán mệnh học chữ nho ông bảo với cụ bà rằng:
          Đứa con ngày nguyên nó là căn tiên cốt Phật đầu thai chớ không phải là đứa con thường như mấy đứa trước kia đâu.
          Cụ ông đặt tên ngài là Nguyễn Nhựt Thăng khác với các người con kia là Nguyễn Văn Thông, Nguyễn Văn Nhã…đó là ý của ông muốn sau này đứa con trai này mỗi ngày mỗi thăng tiến. Trong số 13 anh chị em Ngài là người thông minh học giỏi và đặc biệt được cha mẹ chăm sóc và ưu ái hơn các đứa con kia.
          Mãi đến năm ngài 7 tuổi năm 1932, nhân mục kích một sự tử vong của một người thanh niên chòm xóm, thông thấu cảnh khóc than sầu khổ của gia đình ngài có vẻ suy tư bồn chồn lo lắng. Một hôm ngài hỏi cụ ông: Có phải ai rồi cũng phải chết không cha?.
          Cụ ông lấy làm lạ khi thấy con mình mới 7 tuổi mà biết hỏi chuyện người lớn như vậy, nhưng thân phụ ngài vẫn đáp:
          Phải, mọi người rồi ai cũng phải chết. Hoặc chết trẻ chết già, sớm hoặc muộn mà thôi. Như thằng Sáu mà các con thấy đám ma đó, nó chết mới có 16 tuổi đầu?
          Ngài hỏi tiếp: Như vậy có cách nào làm cho khỏi chết hay không?
          Thân phụ đáp: không có cách nào hết, đời vô thường mà, như con với cha đây rồi cũng phải chết như những người đi trước mà thôi. Khi nghe thân phụ trả lời như thế ngài làm thinh nhưng trên gương mặt ngài toát lên một nổi lo buồn, suy nghĩ. Đâu có ai biết trong lòng cậu bé này mới lên 7 tuổi đang lo nghĩ điều chi?
          Từ đó trở đi, gia đình thấy Ngài trầm lặng và có vẻ suy tư nhiều hơn dạo trước. Đối với các sinh hoạt thường ngày trong gia đình và giữa các anh chị em với nhau, ngài cũng ít còn hăng hái tham dự vào như những thường nhật đã qua.
          Vào một ngày khác ngài cũng đem câu hỏi trên mà hỏi nơi thân mẫu của mình: Cụ bà đáp rằng: Xưa nay đâu có người nào khỏi chết bao giờ?
          Ngài hỏi: Vậy thì làm sao được khỏi chết?
          Cũng như cụ ông, cụ bà rất lấy làm lạ lùng trước câu hỏi có vẻ người lớn của con mình. Tuy nhiên bà cũng vẫn đáp rằng: Má đâu có biết được, nếu như mầy muốn khỏi chết thì mầy nên NIỆM TRỜI, NIỆM PHẬT thì may khỏi chết mà thôi. (Đây là cụ bà trả lời chiếu lệ, lấy có để qua vấn đề mà thôi, chứ cụ đâu có ngờ rằng câu trả lời của cụ trở thành bất tử trong tương lai, và hiện tại đã gieo vào nơi tâm thức của con mình một sự phấn khởi, hy vọng cùng với một niềm tin vững chắc hơn về phương cách giải quyết việc sanh tử trong suốt cả cuộc đời nó).
          Ngài nghe thân mẫu nói như thế thì vui mừng lắm, bởi vì từ bây giờ trở đi, Ngài đã biết làm cách nào để khỏi bị chết rồi. Cho nên bắt đầu từ dạo đó, mỗi ngày đi đâu làm gì, cho đến lúc đi đứng nằm ngồi, ấu nhi 7 tuổi này có một đức TIN kiên quyết lúc nào cũng lâm râm trì niệm câu:
          NIỆM TRỜI – NIỆM PHẬT, cho con khỏi chết.
          Cậu bé niệm mãi như thế với lòng tin tuyệt đối là mình sẽ không bao giờ bị chết như những người khác. Và cứ như thế thời gian tôi qua, cho đến hai năm sau lúc đó ngài đã được 9 tuổi, thì có một điều phi thường lạ lùng xuất hiện.
          Trong một đêm khuya vắng nọ, lúc đó mọi người trong nhà đều yên giấc, chỉ có một mình cậu bé Nhựt Thăng còn đang thao thức, nằm trên bộ ván gõ kê gần bên hông nhà trên, miệng lâm râm đọc câu:
          NIỆM TRỜI – NIỆM PHẬT, cho con khỏi chết”.
          Trước khi thiếp vào giấc ngủ êm đềm của một đêm dài. Bổng nhiên cậu bé thấy ngoài sân, qua khung cửa sổ phát ra ánh sáng chói lòa, rực rỡ như ban ngày.
          Lấy làm lạ, Nhưt Thăng vội lồm cồm ngồi dậy và đi đến bên cửa sổ đứng nhìn ra tìm duyên cớ, thì cậu thấy bên ngoài, giữa không trung từ phía trên trời, có bốn người cao lớn, dung mạo hơi khác người thường, chung quanh mình có ánh sáng phát ra như trái châu lửa.
          Bốn người này khiêng bốn góc của một cái kiệu xưa rất đẹp đang từ từ giáng hạ xuống phía trước sân nhà. Ánh sáng chói lòa, rực rỡ mà cậu thấy ban nãy chính là ánh sáng từ nơi thân của bốn người này phát ra vậy.
        Trong khi cậu đang ngạc nhiên, sửng sốt và ngây người ra nhìn thấy bốn vị này để cái kiệu ngoài sân, bay xuyên qua cửa sổ đáp xuống bên cậu làm cho cậu giựt mình, thối lui ra sau, trong lòng có ý lo sợ, thì một vị nói:
          - Nhỏ kia, chớ có sợ. Chúng ta là người trên trời, hôm nay vì ngươi mà xuống đây. Bởi vì đã hai năm qua rồi, ngày nào ngươi cũng niệm TRỜI cầu cho khỏi chết, nên cảm động đến bề trên sai chúng ta xuống đây rước ngươi về trời để cho người được trường sanh bất lão. Vậy xin hãy yên tâm và theo chúng ta lên kiệu mà đi cho kịp thời giờ.
          Ngài nghe nói vậy thì trong lòng mừng lắm, liền bước chân theo bốn vị “thiên nhơn”kia ra sân.
          Lúc bốn vị ấy đưa tay ra định tiếp Ngài lên kiệu, bỗng nhiên Ngài sực nhớ lại mình chưa chào giã biệt cha mẹ và anh năm, nên ngài mới nói cùng với bốn vị “thiên nhơn” kia rằng:
          - Khoan đã, hãy chờ một chút vì tôi còn phải vào nhà từ biệt phụ mẫu cùng với huynh trưởng rồi mới đi theo quý vị lên trời được.
          Nói xong ngài quay người lại định bước vào nhà từ giã cha mẹ, bổng nhiên nghe bên tai có mấy tiếng chuông “boong boong” ngân lên rất thanh kèm theo mấy câu NIỆM PHẬT – NIỆM PHẬT, âm hưởng của giọng niệm Phật này cực kỳ thanh tao và êm diệu làm cho trong tâm ngài cảm thấy tự nhiên dâng lên một sự ấm áp và khỏe khoắn lạ thường.
          Vì bình nhật Ngài thường trì một câu niệm, mà trong đó có 2 chữ NIỆM PHẬT đã nhập tâm rồi, nên bây giờ nghe tiếng niệm Phật tuyệt vời kia khiến cho lòng ngài bổng dưng cảm động, vội vàng cất tiếng niệm Phật hòa theo và quay đầu ngó khắp nơi tìm kiếm. Thì Ngài thấy từ nơi hướng mặt trời lặn, phía trên không trung có một vị đại tăng vóc người cao lớn, mình mặc áo vàng, tay cầm chuỗi hột, dung mạo và thần thái cực kỳ thanh nhã, đang nhìn ngài mỉm cười và từ từ giáng hạ xuống đất, chung quanh mình của vị đại sư này, có một thứ ánh sáng màu vàng tỏa ra vô cùng tươi đẹp.
          Lúc ấy ngài bỗng cảm thấy thân tâm mình được cực kỳ an lạc, một sự an lạc phi thường, tuyệt diệu không sao kể xiết. Thoạt tiên, khi mới nhìn thấy vị đại sư đó, ngài đã có cảm tưởng là hình như mình đã được gặp một vài lần ở đâu rồi và ngài sực nhớ ra liền là mấy lúc trước đây khi theo chân mẫu đến chùa lạy Phật, thì ông Phật trên bàn thờ mà mình cùng với mẹ quỳ lạy đó chính là vị đại sư này chớ không phải ai khác.
          Ngài mừng lắm, liền bỏ bốn vị “thiên nhơn” kia, chạy đến bên “Phật Hòa Thượng” mà quỳ lạy và ôm lấy chân Ngài.
          Phật Hòa Thượng lấy tay vuốt đầu ngài và cất giọng thanh tao nói rằng:
          - Này con, nay con nên niệm PHẬT, đừng nên niệm TRỜI nữa vì NIỆM PHẬT mới sống hoài, chứ niệm TRỜI thì còn có ngày phải chết.
          Ngài nghe Phật Hòa Thượng bảo vậy, liền cất to giọng xướng câu NIỆM PHẬT- NIỆM PHẬT - NIỆM PHẬT.
          Phật Hòa Thượng lấy tay bồng ngài lên, nhìn vào mặt ngài và tươi cười nói:
          - Con rất ngoan ngoãn, biết nghe theo lời dạy của ta. Đoạn ngài đặt xuống, kế đó hòa thượng lấy trong mình của ngài ra một con dấu (Ấn) màu vàng chói rực, vuông góc bốn cạnh, in lên trán ngài một ẤN rồi nói:
          - Nay ta đóng cái “PHẬT ẤN” này lên trán con để làm chứng và thâu nhận con vào làm đệ tử ruột của ta. Với cái dấu ấn này đây, ngay sau khi con về nhà ta sẽ không có một ai dám ngăn cản cả.
          Vậy con hãy nhớ câu NIỆM PHẬT, NIỆM PHẬT- NIỆM PHẬT đừng quên, ta chờ con đó.
          Nói xong Phật Hòa Thượng dùng tay xoa đầu ngài niệm một lần nữa, kế đến nghe một tiếng chuông rất thanh ngân lên và Ngài từ từ thăng lên không hướng về phía trười Tây bay mất.
          Ngài cúi mọp đầu xuống đất, quỳ lạy tiễn đưa.
          Trong khi ngài đang bàng hoàng nuối tiếc, đứng ngần người ra nhìn theo hướng bay của Phật Hòa Thượng, chợt nghe có tiếng nói xì xào vang lên ở phía sau mình nên vội vã quay người ngó lại, thì thấy bốn vị “thiên nhơn” kia đứng đang xa, đang dụm đầu vào nhau bàn tán, một lát sau cả bốn người chạy đến và ngó vào mặt ngài một cách chăm chú.
          Có một vị “thiên nhơn”nói rằng:
- Nay trên trán của đồng tử này đã có dấu “PHẬT ẤN” đóng vào rồi thì nó là con của PHẬT, chúng ta làm sao dám mang nó đi. Vậy phải trở về trình lại.
Đoạn bốn “thiên nhơn” ấy quay mình trở lại khiên kiệu trống không, bay bổng lên cao đi mất.
          Nhựt Thăng đồng tử đứng ngơ ngát một hồi rồi đi trở vào nhà, kế đó giựt mình tỉnh giấc, trong lòng lấy làm lạ lắm. Sau này kể lại cho người anh thứ năm nghe câu chuyện này.
          Kể từ khi ngài chiêm bao thấy các sự việc như thế và được đóng “Phật Ấn” vào trán rồi thì mấy ngày hôm sau ngay chính giữa trán của ngài nổi lên một “cục thịt u” lớn như đồng xu ai nấy cũng đều trông thấy (mấy tháng sau mới lặn mất).
          Phụ mẫu của ngài và cùng với các huynh đệ trong gia đình và các người quen biết chung quanh thấy lạ nên hỏi duyên cớ, Ngài chỉ nói rằng vì sơ ý dụng vào cột nhà nên bị u đầu mà thôi.
          Từ đó trở đi, tự nhiên Ngài phát trí tuệ một cách lạ lùng mới có 9, 10 tuổi mà ngài có thể đọc và hiểu chữ Nho một cách rõ ràng như một người đã từng học Hán văn mười mấy năm dài... Các bộ sách Nho văn của thân phụ như là: Tứ thư, ngũ kinh v.v…ngài đều thông thuộc hết, chẳng những thế mà ngài còn hiểu được tường tận nghĩa lý như một nhà Nho chánh hiệu không khác.
          Những khi rảnh rổi ngài thường đem sách ra Nho ra đọc và giảng giải cho thân mẫu ngài nghe một chách mạch lạc và có phương pháp khiến cho phụ mẫu ngài cũng sửng sờ kinh ngạc. Vì thế trong số các con của gia đình thì ngài là người được phụ mẫu thương, quý nhiều nhất.
          Một hôm ngài hỏi anh năm của ngài: Anh còn nhớ giấc chiêm bao mà tôi kể anh nghe lúc trước không? Anh ngài nói, tôi nhớ rõ lắm, chú kể tôi nghe tôi còn ghi vào quyển vở nữa để sau làm kỷ niệm. Ngài cười và nói tôi có bài thơ trao cho anh để anh giữ cho trọn bộ. Trong lúc anh năm ngài còn đang ngạc nhiên không hiểu thơ gì sao mà em nhỏ của mình lại biết làm thơ? Thì Ngài trao cho anh tờ giấy tập, trong đó ghi một bài thơ:
          Niệm PHẬT niệm TRỜI công đức huân
          Mẫu từ lời dạy trẻ liền tuân
          Mưa nắng hai mùa chuyên gắng niệm
          Tứ thánh, kiệu vàng giáng hạ “khuân”
          Thương kẻ bị lầm, chơn PHẬT hiện
          Ấn vàng in trán khiến “Đình KHUÂN”
          Từ nay thôi niệm Trời con nhé.
          Niệm Phật sống hoài bất biến xuân.
          Bài thơ này không phải của riêng ngài mà là bài thơ khuyên chung cho các hàng thiện nam tín nữ đời sau này nên phát tâm niệm Phật cầu sanh Cực lạc chứ không phải bài thơ theo lối thông thường.
          Từ đó về sau người anh quan sát thấy rằng chú Thăng nó có vẻ gì hơi khác trước, đi đứng và nói chuyện giống như một “ông sư con chưa cạo tóc” không bằng. Làm cho người anh không dám coi thường chú em nữa.
          Mà quả thật vậy, một đồng nhi mới 9,10 tuổi mà đã có thể sáng tác được một bài thơ Đường đầy ý nghĩa như thế thì gọi là “Ông sư con” và không dám coi thường.
          Riêng về phần ngài, mặc dù còn nhỏ tuổi nhưng sự thông minh và hiểu biết của ngài không phải nhỏ. Mỗi lần ngồi trên ghế uống trà, nghe ngài đọc sách và giảng giải nghĩa lý cho cụ bà nghe, cụ ông cũng lắc đầu khâm phục.
          Cụ ông thường nói với cụ bà rằng: Trong một đám con của mình thằng Thăng nó cũng tựa như là long phụng.
          Còn cụ bà thì nhắc: Tôi nhớ trước kia trong chiêm bao, khi trao nó cho tôi bà tiên có nói rằng: Đây là La Hầu La quý tử Vậy La Hầu La là ai vậy?
          Cụ ông giải thích: La Hầu la là con của Phật lúc còn làm Thái tử ở vương cung. Sau này khi Thái tử xuất gia và tu hành thành Phật rồi thì ngài về độ cho La Hầu La theo ngài đi tu luôn.
          Cụ bà nghe như vậy thì trong lòng lấy làm lo lắm, bởi vì bà sợ rằng một ngày nào đó, đứa con yêu quý của bà sẽ bỏ nhà đi tu.
          Bà đem ý này bày tỏ cùng chồng. Cụ ông an ủi: Nó có phần của nó, bà đừng lo nghĩ nhiều thêm bệnh.
          Về tư cách cá nhân của ngài, tuy là con thơ ấu, nhưng tánh siêng năng, hiếu học, giỏi dắn và thông minh của ngài khiến cho mọi người trong xóm đều trầm trồ khen ngợi và thường đem ra làm gương để la rầy, dạy dỗ con cháu mình.
                                             &&
          Ngài là vị chơn tu có tu có chứng biết trước ngày giờ năm tháng mình sẽ vãng sanh, qua bài thơ lưu lại như sau:
                   Sáu tám năm qua, sắp đến ngày
                   Trời Tây con trẻ mộng hồn bay
                   Trong mơ kính lễ cha già hỏi:
                   Tin tức chừng nào mới đáo lai?
          Hay
                   Tam thử, Mão thời quy
                   Lai, khứ thiểu nhơn tri,
                   Lục bát trần duyên mãn
                   Thân xuất đáo Tây kỳ.
          Tức là:
                   Ba chuột, giờ Mẹo về
                   Việc đến đi người thường ít ai biết
                   Sau tám duyên đời hết
                   Bỏ thân trở về Tây.
          Như vậy ngài đã biết được ngày giờ “QUY KỲ”của mình là Giờ Mẹo (6g 15 phút sáng) Ngày giáp Tý (21) tháng Tý (tháng 11 al) Kiến Nhâm Tý, năm Nhâm Thân (1992 dl) Thọ 68 tuổi đời, 48 tuổi đạo).
          Và ngài cũng cảm nhận bao nổi đắng cay nhọc nhằn trong việc tu tập và hành đạo của ngài qua bài thơ:
                   Sáu tám nhọc nhằn kể xiết chi.
                   Thăng trầm nhiều nổi chi không đi
                   Mài dũa cho thành ra ngọc quý
                   Mới hay châu nọ thiệt”Ma Ni”
                   Một niệm công thuần hai bốn chẳn
                   Cõi tạm khứ hồi mấy kẻ tri!
                   Khi đến, mèo kêu, ba chuột chạy
                   Trần duyên vĩnh dứt, đoạn sầu bi.
                              Vô Nhất Tăng- Thích Thiền Tâm
                       (Tự cảm – 21-10- âl Nhâm Thân)
                        Bài tự cảm sau cùng:
                   Sáu tám năm qua việc đáng kinh
                   Thăng trầm vùi dập, lắm tai tinh.
                   Chẳng qua một giấc mơ dài ấy,
                   Mà kiếp phù sinh tạm múa hình.
                   Hai bốn năm ròng chuyên NHỨT NIỆM
                   DI ĐÀ sáu chữ phóng quang minh.
                   Hôm qua tin tức trời TÂY báo,
                   Giờ Mẹo mai đây tạ thế tình.
                            Liên Du- Thích Thiền Tâm
                            (20-11- al – 13-12-1992)
                Sáu mươi tám năm qua sống trên cõi thế này, đời ngài đã lãnh chịu không biết bao nhiêu tai nạn và thăng trầm vùi dập… cả một kiếp đời trôi qua như thế, nghĩ lại giống như một giấc mơ dài mà thôi. Cái kiếp phù sinh như bào như ảnh cùng với xác thân tứ đại này đây, chẳng qua cũng giống như một cái hình nộm múa máy chân tay, đứt hết dây rồi, té nhào xuống thành một đống vô dụng. 24 năm ẩn tu, ngài chỉ ròng chuyên trì niệm A Di Đà Phật, nay công thành quả mãn. Đức A Di Đà Thế Tôn đã có đến báo tin rằng:  Giờ Mẹo ngày mốt 6 g 15 phút ngày 21 al năm Nhâm thân là ngài sẽ vĩnh biệt cõi Ta Bà và trực chỉ về nơi An Dưỡng.

                                &&
          Niệm PHẬT niệm TRỜI công đức huân
          Mẫu từ lời dạy trẻ liền tuân
          Mưa nắng hai mùa chuyên gắng niệm
          Tứ thánh, kiệu vàng giáng hạ”khuân”
          Thương kẻ bị lầm. chơn PHẬT hiện
          Ấn vàng in trán khiến”Đình KHUÂN”
          Từ nay thôi niệm Trời con nhé.
          Niệm Phật sống hoài bất biến xuân.

˜]

PHI TÍCH CAO TĂNG Rating: 4.5 Diposkan Oleh: CHÙA TAM BẢO TAM KỲ

0 nhận xét:

Đăng nhận xét