NHÂN QUẢ
(tóm lược một số ý về nhân quả).
1/ Định
nghĩa:
Nhân
quả là một nguyên lý tự nhiên trong vũ trụ không phải Phật đặt ra. Cũng không
phải thần linh hay thượng đế sáng chế. Nói cho dễ hiểu hơn là luật nhân quả, là
quy luật vận hành của vũ trụ vạn hữu. Trước đức Phật ra đời các tôn giáo cũng
có đề cập đến Nhân quả, nhưng sự nhận xét và ứng dụng của các tôn giáo chưa
toàn thiện chưa rốt ráo.
Học
và hiểu để ứng dụng nhân quả trong mọi lãnh vực đời và đạo con người sẽ có hạnh
phúc và an lạc. Các nhà khoa học xưa nay dựa trên triết lý nhân quả mà nghiên
cứu phát minh ra những sáng chế mới, những kỷ thuật mới làm cho đời sống con
người trong mọi lãnh vực có nhiều hiệu quả hơn, tiện dụng hơn…Cho nên nhân quả
là vấn đề không bao giờ xa lạ và lỗi thời với con người trong mọi thời đại. Là Phật
tử phải học hỏi để hiểu rõ và ứng dụng nhân quả vào cuộc sống đời và đạo.
Hiểu
nhân quả chúng ta thấy được thực tính của sự vật, gạt bỏ được đức tin chi phối
của thần linh, không có một thần linh nào có quyền thưởng phạt thiện ác, mà chỉ
có luật nhân quả là một nguyên lý chi phối con người và vũ trụ. Nói đến nhân
quả là người ta có ý niệm liên tưởng đến thiện và ác, hai phạm trù luôn đối tác
với nhau con người thường gặp phải trong cuộc sống, nhưng không mấy ai hiểu rõ
một cách tường tận về nhân quả. Tuy vậy ý niệm nhân quả đã ăn sâu vào tâm thức
đời sống con người đã lâu đời, họ thường hay nói:”ở ác gặp ác, ở hiền gặp lành”hay”gieo
gió gặt bảo”v.v Đó là những câu nói về nhân quả tự nhiên trong ý nghỉ mọi
người. Nhân quả luôn đi đôi với nhau như bóng với hình. Nói nhân quả nói cho đủ
là nói nhân duyên quả, vì từ nhân đến quả phải trải qua nhiều duyên thì quả mới
hình thành.
Không hiểu nhân quả người ta sẽ thắc
mắc nghi ngờ, tại sao ở đời có kẻ giàu người nghèo? kẻ ác người thiện. Người ác
lại giàu có sống lâu, người hiền lại nghèo khó chết yểu? Người lương thiện bị
hoạn nạn, người độc ác lại gặp may mắn v.v..Những thắc mắc trên sẽ giải đáp,
nếu tìm hiểu về luật nhân quả sẽ giải tỏa bao nổi khổ xưa nay trói buộc con
người, mà con người không có phương pháp nào tháo gở, nó nhót con người trong
ngục tù mê tín không đường thoát ra, nó khiến cho con người ỷ lại và trông chờ
nô lệ cho thần linh, cho số mệnh. Hiểu được nhân quả sẽ giúp con người thay đổi
được tâm tư thành người giác ngộ, yêu đời không những trong cuộc sống hiện tại
mà còn hướng đến những kiếp tương lai
lâu xa hơn. Thì ngay bây giờ trong cuộc sống này ta hãy gieo nhân lành để gặt
hái quả tốt trong tương lai.
2- Những đặc tính nhân quả:
a/ Nhân thế nào quả thế ấy: Tức nhân nào
quả ấy, gieo đậu gặt đậu gieo lúa gặt lúa..tức nhân quả đồng chủng loại.
b/ Nhân không cùng với quả, tức nhân quả
khác loại. Tại sao như vậy? Vì sự khác
biệt này tùy thuộc vào sự tác động của duyên (thuận hay nghịch) mà quả theo đó
được hình thành. Ví dụ dây bầu được ghép với ngọn ổ qua thì quả sau này sẽ
không giống như quả bầu nguyên gốc của nó.
c/ Nhân quả nghiệp báo là sự hiện hữu của
mối tương quan thiện ác chánh tà. Nó thuộc về pháp hữu vi sanh diệt vốn là hiện
thân của ý niệm phân biệt. Với tâm thanh tịnh và xả ly thì vấn đề nhân quả
nghiệp báo coi như không có tác dụng. Ví như nắm muối bỏ vào ly nước và nắm
muối bỏ vào dòng nước hai trạng thái khác nhau...
d/ Một nhân không thể sinh ra quả được.
Nhân cần phải có duyên thì quả mới hình thành.
đ/ Trong nhân có quả, trong quả có nhân.
Nhân hiện tại đã hàm chứa cái quả tương lai, cũng chính trong cái quả hiện tại đã có hình bóng của
cái nhân quá khứ. Mỗi vật có thể gọi vừa là nhân vừa là quả. Đối với quá khứ
thì nó là quả, với tương lai nó là nhân. Nhân quả nối tiếp nhau như những cái
vòng trong một sợi dây chuyền.
3- Sự phát triển nhanh hay
chậm từ nhân đến quả:
a/
Nhân quả đồng thời: ví như đánh trống, dùi trống vừa chạm mặt da trống liến có
tiếng vang lên.
b/
Nhân quả khác thời: Chia làm ba loại: Sanh báo, hiện báo, và hậu báo. Với lý do
mau chậm, từ nhân đến quả thời gian có lâu mau nhanh chậm, chúng ta không nên
kết luận rằng nhân quả không hoàn toàn đúng khi thấy những cái quả chưa phát
sinh ra …vì thế nhân quả theo thời gian chia làm ba loại:
Hiện báo: Đời nay gieo đời nay gặt.
Sinh báo: Đời nay gieo nhân qua
đời sau mới lãnh thọ.
Hậu báo: Đời nay gieo qua nhiều
đời sau mới nhận lãnh.
Ba
thời gian nhân quả nầy có một thời gian tương đối ổn định, có khoảng cách, chúng
được xếp vào loại định nghiệp. Có trường hợp do các duyên can thiệp vào làm cho
nghiệp quả thay đổi nên khó xác định về thời gian và chủng loại. Trường hợp này
gọi là bất định nghiệp. Hiểu được ba thời gian nhân quả nghiệp báo này thì giải
tỏa được những thắc mắc, những người làm lành mà bị tai nạn, người làm ác mà
được yên vui…
4/ Phân loại nhân quả theo vật
lý tâm lý:
a/
Nội tâm và ngoại giới. Nhân quả biểu hiện ở trong tâm lý gọi là nhân quả nội
tâm (hay nội giới) và ngược lại gọi là ngoại cảnh. Ví dụ như một người tu hành chân chính mà bị
vu oan bắt phải ở tù. Thân người ấy ở trong tù nhưng tâm họ vẫn an định, như
thế nghiệp chỉ biểu hiện ở thân chứ không biểu hiện ở tâm.
b/
Tâm lý vật lý: Sự biểu hiện khác nhau của nhân quả trên con người chia làm hai
phần, tâm lý và vật lý. Như một người lùn xấu xí không có tướng hảo, nhưng tâm
họ rất tốt biết thương người lại thông minh sáng suốt, hiền lành tiền của dư
thừa. Trái lại người có tướng hảo mà độc ác nham hiểm, keo kiệt dối trá v.v.
CÁC PHẠM TRÙ NHÂN QUẢ: Nhân quả là giáo lý
gắng liền với đời sống tu tập của người Phật tử, gắng liền với vấn đề luân lý
đạo đức của con người, vì nhân quả nghiêm túc đặt ra vấn đề trách nhiệm của con
người đối với chính tự thân cũng như xã hội. Bởi lẽ Phật dạy rằng”Con người là
chủ nhân của nghiệp, thừa tự của nghiệp”Từ đó nhân quả được coi là phạm trù cơ
bản của đời sống con người.
a/
Nhân quả vấn đề luân lý đạo đức: Giáo lý nhân quả dạy con người thức tỉnh trong
các hành động tạo tác của mình để tránh các điều ác và nổ lực làm các việc
lành, nhằm đem lại sự an lạc cho cuộc sống. Giáo lý nhân quả khác với các quy
ước luật pháp của xã hội. Đối với pháp luật con người có thể chạy trốn nhưng
nhân quả thì không thể trốn tránh được. Vì thế nhân quả đứng trên phương diện
giáo dục, giáo lý nhân quả là một phương pháp giáo dục vô cùng lành mạnh. Vì
con người hoàn toàn chịu trách nhiệm về những tư duy và hành động của chính
mình. Hạnh phúc hay đau khổ do mình tự tạo cho mình, ở đây không có sự trừng phạt
nào hay sự ban thưởng, cũng không có một giáo điều nào hay một lý tín nào có
thể thiết lập trên cơ sở nhân quả của Phật giáo. Nhân quả là một nền luân lý
nhân bản, tích cực, trí tuệ và đầy tình người, nếu được áp dụng nhân quả vào
mỗi con người, gia đình, xã hội, học đường v.v ắt hẳn sẽ đưa đến một cuộc sống
an lạc hạnh phúc vô biên.
Hiểu
và ứng dụng nhân quả vào cuộc sống và sự tu tập là khởi điểm của tiến trình
tiến đến giải thoát giác ngộ. Ứng dụng nhân quả thì con người sẽ vượt lên được
ý niệm phân biệt, mọi ngã tưởng điên đảo đạt đến thế giới của sự thanh tịnh xả
ly, vô niệm. Tại đây thần chết sanh tử của nhân quả không còn nữa, vì rằng ngã
tưởng được buông bỏ thì tham ái và chấp thủ sẽ bị tiêu tan. Khi ngã tưởng tham
ái và chấp thủ bị đoạn diệt thì trụ cột của thế giới tương quan nhân quả của
nghiệp báo thiện ác đã bị sụp đỗ, và đây ý nghĩa của Niết bàn tối thượng có
mặt.
Nhân
quả đứng một vị trí quan trọng trong vấn đề cứu giúp con người ra khỏi khổ, là
nền tảng đạo đức luân lý nhân bản và tích cực. Giáo lý nhân quả khai phóng con
người lối đi năng động tích cực vượt qua mọi trở ngại của nghiệp quả và có thể
chấm dứt dòng sanh tử khổ đau ngay tại cuộc sống này.
Hiếu
và ứng dụng luật nhân quả sẽ giúp con người tránh mọi mê tín dị đoan, thoát
khỏi vào sự tin tưởng sai lầm vào các đấng thần quyền. Đem lại lòng tự tin vào
chính con người, giúp con người không chán nản, không ỷ lại, không trách móc,
không thối lui, không nghi ngờ v.v…
—˜]™–
0 nhận xét:
Đăng nhận xét