CÁCH TÂN GIÁO LUẬT PHẬT GIÁO
I/
HỆ PHÁI KHẤT SĨ:
Hệ phái khất sĩ ra đời 1944 tại miền nam
VN do tổ sư Minh Đăng Quang khai sáng. Ngài hoằng hóa đúng 10 năm thì vắng
bóng. Trong thời gian ấy ngài vừa giảng thuyết và biên soạn một số sách gồm có
69 bài. Lấy tên là chân lý làm nền tảng tu học và hành đạo cho hệ phái khất sĩ.
Từ đó đến nay (1944-2008) là 64 năm hệ phái này không ngừng trưởng thành và
phát triển đã đóng góp rất nhiều vào việc hoằng dương chánh pháp. Do đó về Phật
giáo VN không thể không đề cập đến hệ phái khất sĩ.
Khi thành lập giáo hội khất sĩ ngài Minh
Đăng Quang mới có 22 tuổi với cái tuổi còn non trẻ mà đã khởi xướng và phát
động tạo nên hệ phái riêng và thành công rực rỡ, có thể nói đây là một điều kỳ
đặc.
Hệ phái khất sĩ dung hòa cả hai truyền
thống PG Nam truyền và PG Bắc truyền. Về PG Nam truyền giữ hình thức y bát và
khất thực. Về Bắc truyền thì ăn chay hành trì giới luật Bắc tông và kinh luận
đại thừa. Về phần giới luật hệ phái khất sĩ một số theo giới luật Bắc tông, còn
một số chế tác thêm cho phù hợp với căn cơ thời đại. Về kinh tụng cũng được chế
tác theo nghĩa Việt và thơ vần cho nên
dễ đọc và dễ nhớ. Do cách thức hành đạo và thực thi giáo pháp có khác tất yếu
phải có những nét riêng. Kinh luật của hệ phái khất sĩ đều được biên soạn ngắn
gọn, có ưu điễm dễ đọc và dễ nhớ.
Việc biên soạn kết hợp hai truyền thống PG
Nam truyền và Bắc truyền để thành lập hệ phái là một sáng kiến rất độc đáo của
tổ sư Minh Đăng Quang. Khi hệ phái vừa ra đời được Phật tử và dân chúng đón
nhận một cách nồng nhiệt, bằng chứng hùng hồn nhất là tốc độ phát triển đến nay
vẫn không ngừng lớn mạnh. Tôn chỉ và mục đích hành đạo ban đầu là chuyên tu để
chứng ngộ, không chấp nhận hình thức “học Phật mà hành nho”, dần dần chểnh mãng
và theo thời, cũng như việc hành đạo và thực thi giới luật đã không còn giữ nếp
sống thanh bần giải thoát mà tôn sư đã đề xướng mà tiếp tục bị xói mòn. Ngài
Minh Đăng Quang lúc 22 tuổi mà sáng lập một hệ phái kết hợp giữa những ưu điểm
của hai truyền thống Phật giáo để tổ chức được một giáo hội vững mạnh, trong đó
có tính khế cơ khế thời, khế lý là một hiện tượng rất kỳ đặc đáng trân trọng
thay.
Bên hệ phái khất sĩ, lễ thuyết giới, Bố
Tác được khởi hành 4 ngày trong tháng vào buổi sáng, ngày rằm và 30, Tỳ Kheo,
Tỳ Kheo Ni, tụng giới bổn của mình. Ngày 8 và ngày 23 tụng giới Bồ tát. Trong 4
ngày này người cư sĩ cũng tập hợp về tịnh xá để trưởng tịnh (Bố Tác) Tu Bác
Quan Trai, cúng dường vật thực cho chúng tăng, và nghe thuyết pháp. Trong 4
ngày này chư tăng không đi khất thực mà sinh hoạt với Phật tử ở tại tịnh xá.
Được gọi là ngày cúng hội (Phật tử hội tụ về tịnh xá tu học và cúng dường Tam
Bảo) trong những ngày ấy sadi, thức xoa, sadi ni cũng đọc tụng giới luật của
mình đã thọ.
II/
THIỀN SƯ NHẤT HẠNH
TS Nhất Hạnh là bậc đại sư có nhiều đóng góp cho việc
truyền bá Phật giáo ở VN và các nước phương Tây. Là một thiền sư có tinh thần
cách tân Phật giáo rất mạnh, trên lãnh vực giới luật và luật sư xưa của Trung
Quốc còn e ngại không có ý kiến “cách tân” thế mà ngài mạnh dạng dựa vào luật
cổ truyền biện soạn những phần giới luật thành bộ phận như “bước tới thảnh
thơi”, “giới tiếp hiện” qua những tác phẩm này chúng ta thấy chúng hình thành
từ trong kinh nghiệm thực tập và hành trì giới luật và dựa vào sinh hoạt thực
tiển của tăng đoàn, của xã hội. Về nội dung các giới điều được làm mới dựa vào
căn bản của các giới luật cũ, nên mục đích và tinh thần hộ trì giới pháp, thực
tập chánh niệm vẫn nhất trí, có khác chăng là thêm vào những giới điều, những
tiết mục để đáp ứng nhu cầu, những sinh hoạt hằng ngày mà trong giới bổn cổ
truyền chưa phát sinh. Vì vậy, giới bản tân tu mang tính khế lý, khế cơ và khế
thời, nên có khả năng đáp ứng những nhu yếu tu học của tăng sĩ ngày nay.
Tác phẩm luật tiểu cổ truyền được tân tu
gọi là “bước tới thảnh thơi” nội dung ý nghĩa hoàn toàn giống nhau, chỉ có khác
về hình thức, số giới điều cách giải thích, và nhất là văn từ thi kệ rất hiện
đại, rất văn chương dễ áp dụng. Đây là ưu điểm nổi bậc của tác phẩm luật nghi
tân tu.
THI KỆ THỰC TẬP CHÁNH NIỆM.
Cách đây 330 năm luật sư Độc Thể Trung Quốc
(1501-1679) đã biên soạn tác phẩm Tỳ ny nhật dụng thiết yếu làm sách sơ cấp môn
học luật cho sadi và sadi ni. Một người mới xuất gia phải học thuộc lòng quyển
luật này để thực tập chánh niệm trong đời sống hằng ngày. Ngay cả những vị đã
thọ đại giới cũng phải thực tập những oai nghi trong sách này. Đây là phương
pháp thực hành rất cơ bản để giữ gìn tâm ý thanh tịnh khi tiếp duyên xúc cảnh,
luôn tỉnh thức trong 4 oai nghi, cũng như làm việc và nghĩ ngơi. Ngài Nhất Hạnh
khi còn làm điệu cũng đã thực tập và đã nhận ra nó quá cũ kỷ so với thời đại ngày
nay, cho nên xem 45 bài kệ của Tỳ ni nhật dụng là những bài kệ mẫu
0 nhận xét:
Đăng nhận xét