TẤT CẢ CHÚNG SANH ĐỀU CÓ PHẬT TÁNH
Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh. Phật
tánh ấy là Thường Lạc Ngã Tịnh. Câu nói đó lặp đi lặp lại nhiều lần trong kinh
Đại Bát Niết Bàn, cũng là chủ đề Phật tánh của kinh.
Tất cả chúng sanh vì chẳng thấy Phật
tánh nên thường bị phiền não trói buộc mà phải lưu chuyển trong sanh tử. Chư Phật
thấy được Phật tánh nên phiền não kiết sử không thể trói buộc, do đây giải
thoát sanh tử, được Đại Niết bàn. Tại sao kinh nói Đại Niết Bàn mà không chỉ
nói Niết Bàn? Sở dĩ nói Đại Niết Bàn, vì Đại này bao trùm cả sanh tử lẫn Niết
Bàn, và là tánh (pháp tánh) của sanh tử và Niết bàn. Tánh sanh tử và Niết bàn nghĩa là tánh của dơ (sanh tử) và
sạch (Niết bàn), nghĩa là tánh ấy không dơ không sạch, theo nghĩa vượt khỏi dơ
và sạch. Tánh đó được gọi là Phật tánh. Tánh đó không tăng ở các bậc giác ngộ,
không giảm ở chúng sanh. Tánh đó vốn không sanh không diệt.
Này Thiện nam tử! Phật tánh không sanh
không diệt, không đến không đi, chẳng phải quá khứ vị lai, hiện tại, chẳng phải
do nhân làm ra cũng chẳng phải không nhân, chẳng phải tạo tác, chẳng phải tác
giả, chẳng phải tướng chẳng phải không tướng, chẳng phải có danh chẳng phải
không danh, chẳng phải danh sắc, chẳng phải dài ngắn, chẳng phải nắm giữ trong
ấm giới nhập. Vì thế Phật tánh gọi là thường.
Này Thiện nam tử! Phật tánh là Như
lai, Như Lai là Pháp, Pháp là thường. Này thiện nam tử! Thường là Như Lai, Như
Lai là Tăng, Tăng là thường.
Phật tánh chẳng phải quá khứ hiện tại
vị lai; Phật tánh chẳng phải ở trong sự chuyển dịch của thời gian, nên bất cứ
thời gian nào cũng có Phật tánh. Phật tánh không sanh không diệt, không đến
không đi, nên bất cứ không gian nào cũng có Phật tánh.
Phật tánh không tùy thuộc vào không
gian thời gian, mà lại thường trụ, cho nên Phật tánh ấy phải có mặt trong tất
cả không gian thời gian. Nghĩa là Phật tánh ấy phải có mặt tại đây và bây giờ.
Đó là ý nghĩa thường trụ của Phật tánh.
Kinh nói: “Dù Phật có ra đời hay không
ra đời, Phật tánh hay pháp giới vẫn thường trụ. Phật tánh có mặt ở đây và bây
giờ cho nên ta có thể thấy được Phật tánh. Chúng ta đang ở trong Phật tánh như
cá ở trong nước biển nhưng chúng ta chưa chứng nghiệm được điều đó. Như không
khí ở khắp mọi nơi, chúng ta đang sống trong không khí, nhưng chúng ta chưa
chứng nghiệm được không khí ở trong thân ta và ở khắp mọi nơi bên ngoài. Sở dĩ
chúng ta chưa chứng nghiệm được vì những phiền não chướng và sở tri chướng che
lấp khiến chúng ta còn chưa tin Phật tánh đang hiện diện ở đây và bây giờ. Thế
nên kinh nói: “Tất cả chúng sanh đều có Phật
tánh, nhưng cần phải tu tập theo Thánh đạo vô lậu mới thấy được”.
Tu hành có hai: a/ Dùng trí huệ phá tan
phiền não chướng và sở tri chướng để thấy Phật tánh. b/ Quan sát trực tiếp Phật
tánh để thấy Phật tánh.
Kinh nói: Phật tánh “Chẳng phải tức, chẳng
phải lìa”. Chẳng phải tức là các pháp. Vi Phật tánh siêu vượt các pháp. Chẳng
phải lìa các pháp, vì Phật tánh vẫn nội tại nơi các pháp.
Thấy
tất cả mọi sự vật, có sự sống hay không có sự sống, chung quanh và mọi cái bên
trong mình đều là Vô tướng, Vô tướng ấy là Một tướng, Một tướng là Phật tánh.
Thấy tất cả bóng đều là gương, thấy tất cả hình tướng đều nằm trong gương Phật
tánh và là gương Phật tánh. Thấy tất cả sóng đều là đại dương, đồng một tánh
nước. Thấy tất cả mọi sự đều đồng một tánh vàng.
Đó là quan sát trực tiếp Phật tánh. Sự
quan sát này càng ngày càng mạnh mẽ vì có cơ sở lòng tin vào nền tảng Phật tánh
của tất cả mọi sự..
“Tín tâm là nhân của Giác Ngộ vô
thượng. Dẫu Giác ngộ có vô lượng nhân, nhưng nói tín tâm thì đã nhiếp hết tất
cả.
Này thiện nam! Dù Như Lai nói vô lượng
các pháp, đó là Phật tánh, nhưng chẳng lài ấm giới nhập vậy (Phẩm Bồ Tát Ca
Diếp).
Trong Phật tánh, các pháp tu không còn
là phương tiện để đạt đến Phật tánh, mà chúng chính là cứu cánh Phật tánh.
“Sắc
thọ tưởng hành thức là Phật tánh....Phật tánh chẳng phải tức sáu pháp nhưng
cũng chẳng lìa sáu pháp. Vì thế ta nói Phật tánh của chúng sanh chẳng phải sắc
chẳng phải lìa sắc, cho đến chẳng phải ngã, chẳng phải lìa ngã...
Chúng ta đang sống trong tánh bình
đẳng, tánh không hai ấy của Phật tánh. Toàn bộ kinh Đại Bát Niết bàn là để cho
chúng ta có được sự Khai Thị Ngộ Nhập Phật tánh ấy. Đây là lòng tin đưa chúng
ta thể nhập”đại dương tịch diệt của chư Phật”. Đại dương ấy là Phật tánh.
Phật
tánh như hư không. Không chúng sanh nào có thể ở ngoài hư không. Và hư không
thì vô ngại, vốn tự giải thoát.
Phật
tánh hay Đại Niết bàn thì không ép bức, như hư không. Giải thoát cũng vậy. Hư
không kia ví dụ cho chân giải thoát. Chân giải thoát tức là Như Lai. (Phẩm Bốn
tướng).
Quán
sát thân tâm mình đang ở trong Phật tánh như hư không và thân tâm cũng như hư
không, trong và ngoài đồng như hư không, người ta bắt đầu đi vào Phật tánh vốn
không chướng ngại.
Phật
tánh là Đệ nhất nghĩa không.Bồ tát tu Phật tánh là tu tánh không.
“Đại
Bồ tát trụ bình đẳng không, thời chẳng thấy có cha mẹ, anh em,,chị em, họ hàng
quyến thuộc, người oán thù, người không thân không oán, cho đến chẳng thấy ấm,
giới, nhập, chúng sanh, thọ mạng. Đại Bồ tát thấy tất cả pháp cũng như vậy. Tâm
Bồ tát bình đẳng như hư không, vì Bồ tát khéo tu tập những pháp không.
“Không
ấy là Nội Không, Ngoại Không, Nội Ngoại Không, Hữu vi không, Vô vi không, Vô
thủy không. Tánh không, Vô Sở Hữu Không. Đệ Nhất Nghĩa Không, không không, Đại
không”(Phẩm Phạm Hạnh).
Chúng
ta trích một đoạn về Vô Thủy Không để tháy tánh không và Thường Lạc Ngã Tịnh
của Phật tánh liên hệ thế nào.
“Bồ
tát quán Vô Thủy không như thế nào?Đại Bồ tát thấy sanh tử không có chỗ khởi
đầu, hết thảy đều không tịch. Đó gọi là Không. Thường Lạc Ngã Tịnh đều không
tịch, không có biến đổi. Chúng sanh, thọ mạng, Tam Báo, Phật tánh và pháp vô vi
cũng như vậy. Đây gọi là Bồ tát quán Vô Thủy không (Phẩm Phạm hạnh).
Tánh
không và Phật tánh Thường Lạc Ngã Tịnh là một. Thế nên,kinh không chỉ nói Phật
tánh là tánh không, mà còn gọi là Thường trụ, cảnh giới chư Phật, Như lai
tạng,Bảo tạng, Thân Kim cương của Như Lai, Phật pháp, Trung đạo, Hoa sen vi
diệu, Bảo tạng Kim cương, Thường Lạc Ngã Tịnh...
Phẩm
Bồ tát Sư Tử Hống nói Phật tánh là Không mà Bất Không, hay Trung đạo. Nếu dùng
chữ Đại thừa thì Phật tánh là Chân Không Diệu Hữu. Điều cốt tử đối với chúng ta
là chúng ta đang sống trong Trung đạo Chân Không Diệu Hữu đó, dù có biết hay
không, có nhận thức được hay không.
Chúng ta đang sống trong Phật tánh. Và
trong Phật tánh, sanh tử tức là Niết bàn.
“Bồ
tát Văn Thù Sư Lợi bạch Phật: Bạch Thế Tôn, trong Đệ nhất nghĩa đế có thế đế
chăng? Trong thế đế có đệ nhất nghĩa đế chăng?”
“Đức
Phật trả lời, Này thiện nam tử! Thế đế
chính là đệ nhất nghĩa đế.... Này thiện nam tử! Năm ấm hòa hợp mà xưng là tôi.
Chúng sanh phàm phu tùy theo đó mà xưng, đây gọi là thế đế. Hiểu hết năm ấm
không có tên gọi người này người kia. Người xuất thế đúng như tánh tướng mà
hiểu biết thì gọi là đệ nhất nghĩa đế (Phẩm Thánh hạnh).
Chúng
ta đang sống trong “Thường Tịch Diệt Quang, tức là Đại Niết bàn của chư Phật”. (Phẩm
Ứng tận hoàn nguyên). Thường Tịch Diệt Quang này trùm khắp ba cõi và là nền
tảng vô sở trụ của ba cõi.
Chúng
ta đang sống trong Phật, vì Phật là “thường trụ” “thân kim cương của Như lai là
vô tận”(Phẩm văn tự), Phật là vô biên thân “Phẩm Bồ tát) cho nên dù có biết hay
không, dù có muốn hay không, chúng ta luôn luôn ở trong Phật.
Chúng
ta đang sống trong Phật. Tất cả sắc đều là sắc Phật, tất cả âm thanh đều là âm
thanh Phật, tất cả hương vị xúc pháp đều là hương vị xúc pháp Phật. Tất cả căn
trần thức đều là căn trần thức Phật. Chúng ta đang ở trong Mạn đà la vũ trụ Kim
cương giới của chư Phật.
Lại
nữa, thiện nam tử! Phàm chổ nào có kinh điển vi diệu Đại Niết bàn này truyền
bá, phải biết đất ấy là kim cương, những người ở đó cũng như kim cương. Nếu ai
có thể nghe được kinh này liền không thối chuyển với Vô Thượng Chánh đẳng giác,
đều được thành tựu những điều mong nguyện (Phẩm Bốn y).
Trích VHPG số 173-
15-03-2013 - Nguyễn Thế Đăng
—˜]™–
0 nhận xét:
Đăng nhận xét