THỜ PHẬT CÚNG PHẬT
Bất cứ tôn giáo nào họ cũng có chủ thuyết
và phương thức thực hành của tôn giáo đó, và bất kỳ tín đồ nào của đạo giáo họ
cũng đều tôn thờ vị giáo chủ và vị khai sáng ra đạo mà họ tôn sùng. Phật giáo
cũng vậy - tín đồ Phật giáo luôn xem Đức Phật là đối tượng để tôn thờ.
Một người Phật tử sau khi quy y Tam
Bảo rồi, việc đầu tiên của họ là thỉnh Phật về thờ, và thờ như thế nào cho có ý
nghĩa để lòng tin của mình không biến thành lòng tin của ngoại đạo. Và vô ý để
trở thành tín đồ của chủ nghĩa thần học, xem Phật như thần linh cứu rồi, cho
nên người Phật tử cần phải hiểu rõ ý nghĩa việc thờ cúng Phật. muốn trở thành
người Phật tử chân chính ta cần phải hiểu rõ ý nghĩa thờ Phật cúng Phật.
Phật là ai? Tiếng Phạn gọi là Buddha,
Trung Hoa dịch giác giả, là người giác ngộ, giác trên ba phương diện là tự
giác, giác tha, giác hạnh viên mãn. Tự giác là tự mình giác ngộ, đem sự giác ngộ
ấy truyền đạt lại cho người khác, cho mọi người, giúp cho mọi người có sự giác
ngộ như mình gọi là giác tha. Việc tự giác và giác tha ấy một cách viên mãn gọi
là giác hạnh viên mãn, gọi là giác mãn. Công hạnh tự giác giác tha tròn đủ gọi
là giác mãn, hay gọi là giác hạnh viên mãn.
Khi nói đến Phật là nói đến vị đã giác
ngộ, là người đã thấu rõ chân tướng của vũ trụ vạn hữu. Phật ở đây là Phật
Thích Ca Mâu Ni, thị hiện giáng sanh trong hoàng cung vua Tịnh Phạn và hoàng
hậu Ma Da -19 tuổi xuất gia 30 tuổi thành đạo, trãi qua 5 năm tầm đạo, 6 năm
khổ hạnh, 49 ngày tham thiền nhập định dưới gốc cây Tất Bát La. Ngài đã chứng
đạo quả, mở ra cho nhân loại chúng sanh con đường sáng. Cho nên gọi ngài là Phật
Đà, là người đã giải mê, khai ngộ cho chúng sanh.
Nguyên
nhân từ đâu mà có hình tượng của Phật, phát xuất từ đâu? Lúc còn tại thế nhân lúc Phật nhận lời
thỉnh mời của trời Đế Thích thỉnh Phật lên cung trời Đao Lợi thuyết pháp trong
ba tháng. Bấy giờ ở thế gian, mọi người trông nhớ Phật, vua Ưu Điền là đệ tử
thuần thành của Phật cũng trông nhớ Phật, bèn sai mời những thợ điêu khắc giỏi
đến hoàng cung để tạc một pho tượng Phật bằng cây gỗ chiên đàn. Đó là pho tượng
Phật đầu tiên được tạc - Kế đến là vua ba Tư Nặc tạc tượng Phật bằng vàng ròng
để chiêm ngưỡng và kính Phật để vơi đi sự trông nhớ.
Vì
sao chúng ta thờ Phật cúng Phật?
Chúng ta thờ Phật vì để tỏ lòng tôn
kính Phật, vì để tri ân Phật, hướng đến Phật như một bậc khai đạo, bậc thuyết
đạo, nguyện noi theo gương sáng của Ngài, để soi sáng cho đời mình, nguyện noi
gương Ngài để xây dựng cho mình một đời sống giác ngộ như Phật. Nhìn vào hình
tượng Phật, chúng ta noi gương những đức tính cao đẹp của Ngài.
Khi thờ Phật chúng ta thờ Phật ở giữa,
Bồ Tát ở hai bên - Phật tượng trưng cho tánh đức, đức tánh từ bi, hỷ xả trí huệ,
thanh tịnh, sáng suốt. những đức tính này ở mỗi chúng sanh ai cũng có đủ. Mỗi
khi đứng trước tượng Phật chúng ta chấp tay thường niệm Nam Mô Bổn Sư Thích Ca
Mâu Ni Phật - Nam Mô có nghĩa là quy y, quy mạng, cung kính lễ bái, cứu ngã, độ
ngã. Tiếng Phạn gọi là Nẵng Mồ. Quy có sáu nghĩa như thế.
Bồ Tát biểu trưng cho việc tu đức. Muốn cho những đức
tính đó hiển lộ ra ta cần phải tu đức -
Tánh đức của Bồ tát biểu trưng cho sự tu tập.
Thích Ca: Trung hoa dịch là Năng Nhơn, là năng lực của nội
tâm. Nhơn là nhơn từ, lòng từ bi, Mâu Ni là Tịch mặc, vắng lặng - Thích Ca Mâu
Ni là biểu hiện ba đức tánh Bi Trí Dũng.
Bồ Tát Văn Thù biểu trưng cho trí tuệ,
tức giải môn. Bồ tát Phổ Hiền biểu trưng cho hạnh môn. Là sự thực hành, tức tri
hành hợp nhất, hay hạnh giải tương ưng.
Có người không hiểu thắc mắc, tại sao
các người tin Phật, lại cúi lạy một cách cung kính trước tượng xi măng, tượng
giấy như thế. Lại có người hỏi, tại sao mọi người phải cúi đầu nghiêng mình
trước lá cờ tổ Quốc bằng vải như thế - Người ta trả lời lá cờ là biểu trưng cho
hồn thiêng Tổ Quốc. Như vậy quỳ lạy hay nghiêng mình cúi đầu trước tượng Phật
Bồ Tát hay lá cờ Tổ Quốc cũng thế. Mỗi thứ biểu trưng cho mỗi ý chí cao đẹp mà
con người phải tôn kính vâng thờ là vậy. Không có gì là mê muội cả.
Khi Phật còn tại thế, mỗi lần vua Ba
Tư Nặc gặp Phật ông đều cúi đầu sát đất, quỳ dưới chân Phật, Phật mới hỏi vua:
do đâu mà bệ hạ phải hạ mình cung kính dưới chân đức Như Lai như thế. Vua Ba Tư
Nặc trả lời: Do bốn pháp truyền thống của Như Lai mà con cung kính ngưỡng mộ.
- Pháp truyền thống thứ nhất, Phật là
người đã giác ngộ, người đã giải thoát cho con người ra khỏi bàn tay nô lệ của
thần linh, ra khỏi sự nô lệ của thần thánh.
- Pháp truyền thống thứ hai, giáo pháp
của Như Lai lúc đầu, lúc giữa, lúc cuối đều thuần thiện - Giáo pháp của các đạo
khác thì đầu thiện, trung thiện mà hậu không thiện. Nếu cứ tu tập theo giáo
pháp của Như Lai thì người đó có công năng chuyển hóa con người ấy, từ con
người mê lầm thành con người giác ngộ, từ con người đầy tội lỗi thành con người
thuần lương, đạo đức nhân hậu, chuyển phàm thành thánh. Giáo pháp do Như Lai
nói ra khiến cho chúng sanh ly khổ đắc lạc. Bởi vì giáo pháp Như Lai nói ra quá
vi diệu và thâm sâu.
- Pháp truyền thống thứ ba, là tăng
đoàn của Như Lai có 4 đôi 8 vị - Có những vị đã chứng Tu đà hoàn, Tư Đà hoàn, có
những vị đã chứng A Na Hàm, có những vị đã chứng quả vị A La Hán và có những vị
sẽ chứng Tu đà hoàn, Tư đà hoàn, A Na Hàm, A La Hán. Những vị đã chứng thì gọi
là Tu đà hoàn quả, A La Hán quả - Còn những vị đang tiến đến quả vị Tư đà
hoàn..A La Hán thì gọi là Tư đà hoàn hướng, A La Hán hướng.
- Pháp truyền thống thứ 4 là Tăng đoàn
đệ tử của Phật sống một cuộc đời kiểu mẫu, mô phạm trong cuộc đời làm gương cho
Trời, người. Phật Đà đã xây dựng một Tăng đoàn thanh tịnh kiểu mẫu đạo đức.
Tăng đoàn của Phật sống hòa hợp thanh
tịnh theo tinh thần lục hòa- Trong khi ấy ở thế gian thì gia chủ tranh đấu với
gia chủ, tôi tớ tranh đấu với tôi tớ, Bà La môn tranh luận với Bà La Môn, vua
quan tranh luận với vua quan v.v.. họ chống trái nhau, họ làm cho nhau đau khổ.
Trong khi đệ tử của Phật thì sống hòa hợp, thanh tịnh, đó là pháp truyền thống
khiến con cung kính, hạ mình trước Thế Tôn.
Có sáu phạm trù trong danh từ Phật:
Lý
tức Phật: Mọi người ai cũng có đủ chân tâm Phật tánh. Chúng sanh và chư
Phật đồng nhau một thể tánh sáng suốt.
Danh
tự tức Phật: Do nghe lời Phật dạy, từ kinh luận hay từ các pháp sư
giảng giải, mà hiểu biết về lời Phật dạy, đem lời Phật dạy mà áp dụng trong
cuộc sống của mình để có được đời sống thanh tịnh an lạc, xây dựng một đời sống
giác ngộ tỉnh thức - Mặc dù chưa thành Phật nhưng hình thức bên ngoài giúp cho
hành giả một đời sống an lạc, giải thoát.
Quán
hạnh tức Phật: Hằng ngày quán chiếu tư duy lời Phật dạy, để áp dụng lời
Phật dạy phù hợp với cuộc sống hằng ngày, từng bước đi trên con đường giác ngộ.
Tương
tự tức Phật: Từ đó đi lần đến đời sống xuất gia, có hình tướng như Phật,
oai nghi như Phật, tâm hạnh giống như Phật.
Phần
chứng tức Phật:Nhờ ứng dụng đời sống thanh tịnh, chúng ta đoạn trừ vô
minh, chứng từng phần Pháp thân thanh tịnh, đó gọi là phần chứng tức Phật.
Cứu
cánh tức Phật: Lần lần đạt đến chỗ rốt ráo thành Phật gọi là cứu cánh
tức Phật.
***
CÚNG PHẬT: 5 thứ: Hương hoa, quả, đèn
và nước. Gọi là đạo lý căn bản cúng Phật:
Hương: nói cho đủ ngũ phần hương: hương giới, hương định, hương huệ,
hương giải thoát và hương giải thoát tri kiến. Do tu tập giới định huệ nên
không bị ngũ dục ràng buộc câu thúc nên gọi là giải thoát hương. Do được giải
thoát mà không chấp thủ, chấp ngã đó gọi là giải thoát tri kiến. Hương cúng Phật:
Lư hương sạ nhiệt, pháp giới mông huân, Chư Phật hải hội tất giai văn, tùy xứ
kiết tường vân, chư Phật hiện toàn thân.
Lò hương vừa nhén lên, hương đó trùm
khắp pháp giới chư Phật mười phương nhiều như biển cả đều nghe hết- Chỉ cần tâm
thành ý của chúng ta thì chư Phật hiện toàn thân.
Hương này không phải sắc, không phải
phi không, không phải chơn, không phải giả nhưng nó rõ ràng, sáng chói hơn mặt
trời, mặt trăng v.v...
Hoa: Có 7 thứ hoa: 1. Giới tịnh hoa 2. Tâm tịnh hoa 3. Tri kiến tịnh hoa là sự thấy biết đúng
pháp, có khả năng đoạn nghi sánh tín. 4. Đoạn nghi tịnh hoa: đặc hết niềm tin vào Phật,
pháp, tăng- Tứ bất hoại tín 5. Pháp
tịnh hoa: nghe chánh pháp một cách chân thành tha thiết 6. Hành tịnh hoa là thực hành theo chánh pháp của chư Phật 7. Bồ
đề Niết Bàn tịnh hoa: tu tập đạt đến quả vị giác ngộ là mục đích cứu cánh Niết
Bàn.
Quả: Đại biểu cho quả tốt lành, nhắc nhở chúng ta tu nhân thiện để có
quả tốt.
Đèn: tượng trưng cho trí tuệ, hay tri kiến, dùng trí tuệ để soi sáng
đời sống của mình, nối tiếp ngọn đèn trí tuệ của Như Lai- Gọi là thắp đuốc mồi
đèn.
Nước: tiêu biểu cho tâm thanh tịnh,
trong sáng nhắc nhở chúng ta luôn giữ tâm thanh tịnh tươi sáng như nước.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét