LỤC ĐẠO
a/ ĐỊA NGỤC (Naraka ) Đây là cảnh giới có mức độ chấp hữu lớn nhất. Nghiệp
lực dồn thần thức tới mức độ bị nghiệp lực sai khiến hoàn toàn. Từ trong cảm giác không của chân tâm bất hoại,
thần thức khởi lên ý niệm căm ghét. Sự căm ghét làm thần thức muốn gây khổ cho
ai đó, nhưng không có ai là đối tượng, nên thần thức quay lại làm khổ chính
mình. Vừa khởi tâm muốn đánh đập ai đó thì hành động đánh đập quay lại hành hạ
chính thân mình. Đó là cơ sở của địa ngục.
Trong tác phẩm “
Niềm vui và giải thoát ”. ngài Gampopa đã mô tả một cách sinh động cõi địa ngục
và nổi đau khổ mà thật ra thì không có ai đứng ra trừng phạt ta trong cõi địa
ngục cả, chính cái năng lực căm thù hiện ra thành một thế giới đầy lửa mà ta
thường gọi là hỏa ngục.
Còn một dạng khác
của cảnh giới địa ngục hoàn toàn ngược lại, khắp nơi ngự trị một thế giới băng
giá lạnh lùng. Đó cũng là một dạng của sự căm ghét, làm ta không muốn liên hệ
với bất cứ ai. Sự căm ghét này phần lớn phát xuất từ sự kiêu ngạo, ngã mạng,
làm hiện ra một thế giới lạnh lẽo chung quanh, trong đó thần thức tự cho rằng
chỉ có mình là nắm được lẽ phải.
b/ NGẠ QUỶ (Preta ) Cảnh giới thứ ha của lục đạo là Ngạ quỷ hay quỷ đói.
Từ trong chân tâm thanh tịnh thần thức không khởi lên sự căm thù như trong cảnh
giới địa ngục mà khởi lên sự thèm khát và ganh tỵ. Đều đáng nói là thần thức
vừa có cảm giác đầy đủ sung mãn, không thiếu thứ gì, lại vừa thấy vô cùng thiếu
thốn, luôn luôn thèm khát muốn được nhiều hơn nữa. Trong cảnh giới này sự thỏa
mãn của thần thức không phải là cái có được, mà chính là sự săn đuỗi. Có thể so
sánh với người đi câu cá không phải để ăn con cá, mà là để tìm cái khoái cảm
lúc bắt được con cá. Hãy tưởng tượng có người đã quá no nê không thể ăn được gì
nữa, nhưng vẫn thèm ăn, vì cái khoái cảm khi được ăn. Người này nảy sanh sự
thèm khát và ganh tỵ với những ai thực sự đói và có thể ăn được.
Biểu tượng của loài
quỷ đói ( ngạ quỷ ) là một chúng sanh có bụng to như cái trống nhưng cổ họng
thì như ống kim nhỏ xíu. Tùy theo nghiệp lực, quỷ đói cảm nhận khác nhau về các
loại thức ăn. Có loài vừa cầm thức ăn trên tay, thức ăn đã biến mất hay không
ăn được. Có loài đưa vào miệng nhưng không nuốt được. Có khi thức ăn biến thành
lửa, không tiêu hóa được. Thật ra, trong đời sống thông thường. chúng ta vẫn
thường xuyên chứng kiến những trạng thái như thế.
( Thức ăn ở đây không
chỉ là thực phẩm mà là tất cả gì thần thức mong muốn chiếm hữu như tiền bạc,
danh vọng, địa vị,trình độ, sắc đẹp v.v
c/ SÚC SANH
( PASU) Đặc
điểm của cảnh giới súc sanh là sự thiếu vắng của cảm giác hỷ lạc, tâm thức hoan
hỷ. Biểu tượng của cõi này là thế giới thú vật. Chúng có cảm giác hạnh phúc hay
đau khổ, nhưng không hề biết cười. Trong đời sống thông thường, ta sẽ đi vào
cõi này một khi chỉ nhắm mắt đi theo một quan điểm cực đoan nào đó, hoặc một
khuôn khổ lý thuyết nhất định, rồi tuyệt đối tin tưởng vào đó một cách cố chấp
không suy xét, không thay đổi. Một con người như thế có thể rất siêng năng cần
mẫn và hài lòng với cuộc sống. Như một bác nông phu với cái cày và cách thức
canh tác của mình. Như một thương gia, như một người cha trong gia đình, chỉ
mong muốn không có gì bất ngờ xảy ra, tránh mọi bất trắc. Tất cả đều theo những
tiêu chuẩn luật lệ đã định sẳn, tất cả đều phải được tính toán từ trước.
Trong cảnh giới
súc sanh, mỗi một điều lạ, mỗi một bất ngờ đều là thứ tai họa và sẽ là nguyên
nhân gây sợ hãi, hổn loạn dữ dội. Đó cũng chính là nét tiêu biểu của thế giới
thú vaatjmaf chúng ta đều biết.
d/ NGƯỜI
( Nara )
Nếu cảnh giới chúng
sanh chỉ mong được sống sót và an lành thì cảnh giới con người khác hơn một
bước. Đặc trưng của thế giới loài người là sự khao khát tìm tòi, khám phá và
thụ hưởng. Đây là thế giới của những nhà nghiên cứu, tìm tòi, luôn muốn làm
giàu thêm tri thức và kinh nghiệm. Cõi người có một vài dấu vết của của loài
quỷ đói, là luôn luôn muốn có được nhiều hơn, đồng thời cũng có yếu tố của loài
súc sanh, là cố gắng giữ cho mọi thứ ổn định. Nhưng cõi người có một đặc trưng
mà hai cõi kia không có, đó là sự khôn ngoan, thường xuyên suy xét và tìm tòi
không ngừng nghĩ. Vì vậy tâm thức của loài người đã đạt đến những thành quả lớn
lao, rồi trên những thành quả đó nảy sinh thêm những thành quả khác, kể cả
những âm mưu quỷ quyệt, những khao khát vô cùng.
e/ A TU LA (Asura ): Cảnh
giới của A Tu la có thể xem là cao hơn loài người một bậc. Đặc trưng cõi này là
mối liên hệ với nhau rất cao, đặt trên trình độ tri thức phát triển. Vừa rời
chân tâm trống rổng vắng lặng đi vào cõi A Tu la, thần thức có cảm giác rơi vào
một nơi hoang địa và khôn ngoan quan sát rình rập mọi thứ. Trong thần thức nảy
sanh một mối nghi ngờ với tất cả và luôn tìm cách thắng cuộc. Khác với cảnh
giới người và súc sanh. A Tu la là cảnh giới của những âm mưu quỷ quyệt, của
những sự khôn ngoan gian hùng, những toan tính lớn lao, liên quan đến toàn xã
hội.
f/ TRỜI ( Deva ). Từ trong chân tâm thanh tịnh, thần thức bổng khởi lên
niềm hỷ lạc và muốn lưu giữ niềm vui đó. Thay vì lưu trú trong thức vô ngã,
thần thức cảm giác về một tự ngã và muốn giữ gìn tự ngã đó trong một trạng thái
đại định. Đó là ý muốn duy trì đời sống trong trạng thái thiền định sâu lắng,
an lạc. Thần thức ngần ngại không muốn lưu trú trong cảnh giới vô ngã, chỉ muốn
an trú vào một nơi nào đó muốn được cái gì đó.
& &
&
Sáu cảnh giới vừa nói trên là đối
tượng của toàn thể sự sống trong cõi luân hồi, đồng thời cũng là sáu cửa ngỏ để
trở về với chân tâm không sanh không diệt. Sự hiểu biết về sáu cảnh giới này sẽ
giúp chúng ta hiểu được những cảnh tượng mà thân trung ấm nhìn thấy. Sáu cõi
này cũng chính là sự thay đổi tâm lý của con người trong những tình huống khác
nhau. Nếu hiểu cái tôi là thể chất bằng
xương bằng thịt thì sáu cõi đó có tính cách khách quan, còn nếu hiểu được cái tôi bao gồm cả tâm thức phân biệt,
thì sáu cõi đó không gì khác hơn chính là các cảnh giới được dẫn dắt bởi nghiệp
lực của mỗi người./.
---------—]–---------
0 nhận xét:
Đăng nhận xét