Muốn niệm Phật vãng sanh
thì cần phải niệm Phật được nhất tâm bất loạn. Nhưng phần đông hành giả đời nay
mấy ai đi đến trình độ ấy ? Thế thì công phu trì niệm ấy một đời không lẽ trở
thành luống uổng hay sao ?
Thật
ra niệm Phật đến trình độ nhất tâm bất loạn chỉ là sự khuyến tấn hay là mức kỳ
vọng mà các hành giả có thể đạt đến. Nhưng phải luôn ghi nhớ rằng, pháp môn
niệm Phật có điểm đặc biệt là : Bậc thượng căn thì đạt đến mức một lòng không
loạn ngay trong đời sống, còn bậc hạ căn chỉ cần 10 niệm cũng được vãng sanh.
Cho nên vấn đề nhất tâm bất loạn được vãng sanh là nói ngay khi lâm chung,
không phải chỉ cho lúc hiện tiền.
Để được 10 niệm không
loạn lúc sắp mãn phần, thật ra không phải là chuyện dễ dàng. Vì sắp lâm chung
có một sức nghiệp do từ đời này hoặc từ kiếp trước khởi hiện gọi là cận tử
nghiệp. Nếu lúc bình thường không cố gắng niệm Phật cho thuần thục thì khi sắp
chết bị sức cận tử nghiệp lấn át, khiến chánh niệm không thể hiển lộ, do đó tâm
thức tuỳ theo nghiệp lực rối loạn, thế thì làm sao vãng sanh Cực Lạc ? Cho nên
người niệm Phật cần phải hành trì đúng theo Sự và Lý của pháp môn niệm Phật mới
thực chứng nhiều kinh nghiệm tâm linh.
Thế nào gọi là Sự và Lý ?
Lý là lẽ phải, là điều suy
luận, là cảnh giải ngộ, thuộc về phần tánh. Sự là phương tiện, là công hạnh là
hình thức thuộc về phần tướng.
Tuy nhiên, đi đến chổ cùng
cực thì Sự tức Lý, Tánh tức Tướng, đồng một thể như thật tròn sáng, dung thông.
Trên đường hành trì thì Lý và Sự hổ trợ cho nhau, phối hợp cùng nhau để thành
tựu Phật đạo.
Có Lý thì việc mới có căn cứ cương lãnh, có mục tiêu để sanh
khởi và tác dụng. Có Sự thì Lý mới thực hiện được điều suy luận, chứng minh
được chổ lý giải, đi đến mục tiêu và cuối cùng đạt đến kết quả.
Lý như đôi mắt để nhìn đường,
Sự như đôi chân để tiến bước, không có đôi chân thì dù cặp mắt có sáng tỏ bao
nhiêu đi nữa, cũng chẳng thể nào đi đến nơi đến chốn. Lại nữa, có Lý mà không
có Sự thì như người có hoạ đồ biết đường lối mà chẳng chịu bước đi. Còn có Sự
mà không có Lý thì như kẻ tuy bước đi nhưng thiếu hướng đạo cho nên lộ trình mê
mờ. Vừa có Lý có Sự thì như đã thông suốt đường lối, lại vừa chịu khó cất bước
hành trình, như vậy chân thực là một kẻ hành trì hoàn toàn, chắc chắn sẽ về
được nơi Bảo Sở.
Lý và Sự đã nương nhau như
thế, nên nếu thiếu một thì ắt chẳng có hy vọng thành công. Người niệm Phật dù
thiếu phần giải ngộ nhưng nếu chịu noi theo lộ trình của bậc tiên đức đã chỉ dạy
mà thực hành, thì sẽ thành công như cổ nhân không khác.
Kinh điển Phật để lại cũng
như các lợi khai thị của chư thiện tri thức chính là lộ trình cho chúng ta
nương theo đó mà tiến bước hành trì .
Có Sự nghĩa là có hành trì
mà thiếu phần Lý giải, thật ra chẳng đáng lo ngại, vì càng hành trì thì trí tuệ
càng khai thông để rồi đến chổ tỏ ngộ. Đàng thương thay cho những kẻ tuy hiểu
lý nhưng không chịu thực hành, chỉ ngồi nói suông và chỉ trích suông. Dù có đàm
huyền luận diệu thao thao bất tuyệt mà suốt đời vẫn chẳng tiến bộ nữa bước.
Người thiếu Sự cũng quyết
định không có Lý. Vì sao vậy ? Vì như kẻ đã biết nhà cháy mà không chịu chạy
thoát cứ vẫn mãi ngồi yên thì nào có khác chi kẻ không biết gì cả . Do vậy có
thể nghỉ rằng: “ Phật pháp có thể cứu độ hạng người mà thế gian cho là ngu dốt,
chẳng thông một chữ, nhưng không thể có cách thức để cứu độ những kẻ tự hào là
thế trí biện thông mà lại không chịu hành trì ”.
Dù kẻ làu thông Tam tạng
song chẳng thực hành, thì chắc chắn nghiệp hoặc từ vô thuỷ vẫn còn y nguyên,
cho nên sự tri giải ấy vẫn là vô dụng. Sao cho bằng một bà lão dốt nát nơi nhà
bếp, mặt mày lem lọ nhưng thường luôn chuyên cần niệm Phật thì ngày kia tâm yên
không loạn, ngồi ngự đài sen ? Do vậy, kẻ suốt đời chỉ cầu sự thông hiểu trên
danh tướng lý luận trở thành một vị bác học về Phật pháp mà không thiết thực tu
hành, tất phải lâm vào cảnh kể thức ăn ngon mà mình chịu đói, đếm tiền của kẻ
khác mà mình vẫn chịu nghèo nàn, kết cuộc vẫn hoàn toàn vô bổ. Nhà Phật ví
những kẻ ấy như người điếc khảy đàn cho đại chúng nghe, như là kẻ quảy gánh đi
khắp nơi rao bán đủ thứ thuốc hay, nhưng quên hẳn mình đang mang nhiều chứng
bịnh.
Thế nào gọi là Sự trì và Lý trì ?
Ngài Ngẫu Ích Đại Sư dạy rằng :
SỰ TRÌ là tin có cõi Cực Lạc và Phật A Di Đà mà chưa thông đạt TÂM NÀY
LÀM PHẬT, TÂM NÀY LÀ PHẬT, chỉ quyết định cầu sanh Cực Lạc tha thiết, ức niệm
như con nhớ mẹ không lúc nào tạm quên ”.
“ LÝ TRÌ là tin hiểu Phật A Di Đà ở Tây phương do tâm ta sẳn đủ, do tâm
ta tạo nên, đem câu hồng danh sẳn đủ và tạo nên của tâm mình làm cảnh buộc
niệm, chẳng giây phút nào xao lãng ”.
Đối với môn niệm phật thì duy
bậc thượng căn trí tuệ mới dung thông tánh tướng, hiểu đến chổ tận cùng. Bằng
không được thế thì thà chấp tướng mà tu hành, càng chấp lại càng mầu nhiệm. Bởi
vì càng chấp sự tướng thì chí nguyện cầu vãng sanh lại càng thiết tha và khi đã
về Tây phương thì lo gì mà không chứng ngộ thật tướng.
Vấn đề SỰ và LÝ , TÁNH và
TƯỚNG nói ra vẫn không cùng tận, nhưng nếu hiểu được MỘT thì sẽ hiểu TẤT CẢ.
Thế nào là SỰ NHẤT TÂM ?
Người niệm Phật phải thiết thực dụng công.
Trong thì tuyệt hẳn các tướng thị phi nhân ngã, không thấy có thân tâm, ngoài
thì dứt bặt hẳn các tướng sắc không, lục trần, chẳng còn thấy có cảnh giới, duy
chỉ có một câu Phật hiệu rành rọt hiện tiền mà thôi. Khi hành giả chỉ chuyên
tâm chú ý vào sáu chữ hồng danh thì lâu ngày tất cả các tạp niệm đều dứt bặt, trong tất cả cử động đi
đứng nằm ngồi duy chỉ có một câu Phật hiệu hiện tiền, đây gọi là cảnh giới SỰ
NHẤT TÂM. Nhất Biến thượng nhân khai thị như sau : “ Khi xưng niệm danh hiệu,
không Phật cũng không ta ” chỉ có “ Nam
mô A Di Đà Phật , Nam mô A Di Đà Phật ”. Đây là cảnh giới Định , Tuệ của người niệm
Phật tương tự với trạng thái nhập thiền của người hành thiền.
Thế nào là LÝ NHẤT TÂM ?
Vượt qua mức độ Sự nhất tâm, nếu tiến thêm một
bước, dụng công đến chổ chí cực thì ngày kia tâm địa rổng suốt, thoát hẳn căn
và trần ngộ vào thật tướng. Khi ấy, hiện tại tức là Tây phương mà chẳng ngại gì
riêng có cõi Cực Lạc. Khi ấy, tự tánh mình chính là A Di Đà mà cũng chẳng ngại
gì riêng có Đức Phật A Di Đà. Đây là cảnh giới LÝ NHẤT TÂM của người niệm Phật.
Địa vị này là Định, Tuệ nhất như, tương tự trình độ khai ngộ của người hành
thiền Quán.
Ngài Ngẫu Ích dạy : “ Không luận Sự trì hay Lý trì, nếu cứ niệm
phật, sao cho đến chổ hàng phục phiền não để kiến hoặc và tư hoặc không khởi
hiện, đó là cảnh giới SỰ NHẤT TÂM. Không luận Sự trì hay Lý trì, nếu cứ niệm
Phật đến chổ tâm khai và thấy rõ bản tánh Phật của mình, đó là cảnh giới LÝ
NHẤT TÂM.
Sự nhất tâm thì không bị Kiến
hoặc, Tư hoặc làm loạn, còn Lý nhất tâm thì không bị nhị biên làm loạn.
Chẳng nói chi đến Lý nhất
tâm, với trình độ Sự nhất tâm thì người đời nay phải thâm tín lời Phật dạy và
nổ lực hành trì mới mong thấu đạt được. Tuy nhiên, với công đức của câu niệm
Phật, cộng thêm tấm lòng cung kính chí thành, thì trong mỗi niệm sẽ diệt được
một phần vô minh, tăng thêm một phần phước huệ, lần lần đi tới cảnh giới thanh
thịnh, và cứ hành trì lâu ngày như thế, lo gì không tiến đến chổ mỗi niệm khai
ngộ, mỗi niệm thâm nhập cảnh giới Định, Tuệ nhiệm mầu .
Trong luận Đại Thừa Khởi Tín,
sau khi kết hợp tinh yếu của pháp Đại thừa và trình bày xong các đường lối tu
tập, Ngài Mã Minh Bốt Tát dạy rằng : “
Cõi Ta bà phiền não cang cường, nên chánh tín khó vững, lại không thường xuyên
gặp Phật nghe pháp, đường tu lại nhiều hiểm nạn chướng duyên. Nên biết rằng,
Đức Như Lai có phương tiện thù thắng dạy cầu sanh cõi Cực Lạc ở Tây phương, nếu
chuyên tâm niệm Phật A Di Đà rồi đem công đức hồi hướng, thì sẽ được Phật đón
rước về thế giới Cực Lạc, được luôn luôn gặp Phật nghe pháp và chẳng còn thối
chuyển. Nếu hành giả y theo đường lối này tu tập thì quyết định sẽ vào Chánh
Định Tụ. Như vậy, chuyên tâm niệm Phật là phương tiện nhiệm mầu để thoát khỏi
ma chướng và mau thành tựu Định, Tuệ ”.
Chỉ có SỰ chuyên tâm là cách
thức duy nhất để thực chứng pháp môn niệm phật bằng kinh nghiệm tâm linh của
bản thân. Vì sao vậy ? Vì đối với người khát khao giải thoát thì chỉ có kinh nghiệm tâm linh mới là đáng
quý nhất mà không có một thứ gì có thể đánh đổi được..
Đệ tử nhờ sự dẫn dắt của Đức Bổn Sư, nhờ sự
nhiếp thọ âm thầm của Đức Từ Phụ, nhờ sự hộ niệm của sáu phương chư Phật mà hôm
nay mới biết rõ rằng niệm Phật thì phải thực chứng bằng kinh nghiệm bản thân,
cho nên chúng con xin đem tất cả tấm lòng tri ân tha thiết chân thành quy y và
đảnh lễ.
Thiền tông tuy “ nhất siêu trực nhập ” ( vào
thẳng siêu xuất ) song không phải bậc thượng căn lợi trí thì khó thực hành. Chúng
sanh đời mạt pháp, chướng nhiều huệ ít, chỉ cần nương vào pháp môn niệm Phật
cũng có thể liễu sanh tử, vãng sanh về cõi Cực Lạc. Người sơ cơ thì thấy Tịnh
với Thiền là hai, nhưng tu hành rồi thì hai mà chẳng phải hai, vì niệm Phật bắt
buộc phải nhiếp tâm. Từng câu chân thật, niệm niệm tương ưng, lâu ngày thành
một phiến. Do sự nhất tâm nên lý cũng nhất tâm, năng sở đều quên, mình người
chẳng hai thì cùng với tham thiền đâu có gì sai biệt ? Bởi vậy kinh nói: “ Thiền tức là thiền của Tịnh độ, Tịnh độ là
quốc độ của Thiền. Những kẻ niệm Phật đầu môi, tham thiền nơi chót lưỡi thảy
đều là kẻ tự dối mình. Gặp cửa ải sanh tử làm sao thoát đây ?
0 nhận xét:
Đăng nhận xét