Thứ Ba, 15 tháng 11, 2016

Ý NGHĨA CỦA SỰ VÃNG SANH


          Trong Phật giáo tuỳ theo pháp môn sự diễn đạt của việc thành tựu trong bước đường tu tập, mà đưa ra một từ để làm mục tiêu nhắm đến như : Niết Bàn, Phật tánh, chơn tâm, kiến tánh, chứng đạo, ngộ đạo, triệt ngộ v.v..Trong pháp môn Tịnh độ dùng từ “ vãng sanh ” để chỉ cho sự thành tựu của người tu theo pháp môn . Vãng sanh là cái đích, mục tiêu của người niệm Phật cầu sanh Tây phương. Vậy vãng sanh là gì ?
          Vãng có nghĩa là đến, là qua, là trở về cái chổ mà mình muốn đến.
           Sanh có nghĩa là sanh ra, xuất hiện. Sanh ở đây có nghĩa là vô sanh, sanh mà không sanh. Tức là chấm dứt con đường sanh tử, sống rồi chết, chết để tiếp tục sống.
          Về tục đế có nghĩa là sanh qua một thế giới khác. Về chơn đế, vãng sanh có nghĩa là vô sanh, sanh về thế giới hằng hữu bất sanh bất diệt.( hay là trở về với tự tánh )
          Vãng sanh có nghĩa đạt đến chổ không sanh trở lại trong con đường sanh tử khổ đau.
           Vãng sanh có hai ý : Lâm chung vãng sanh và hiện tiền vãng sanh. Lâm chung vãng sanh có ba loại : 1/ Vãng sanh Cực Lạc quốc, 2/ Vãng sanh 10 phương Tịnh độ. 3/ Vãng sanh Đâu Suất Đà Thiên.
          1/  Lâm chung vãng sanh : tức thân hoại mạng chung, muốn được vãng sanh phải thực hành bốn phương pháp căn bản để được vãng sanh: 1/ Niệm Phật Vãng sanh, 2/ Trợ hạnh vãng sanh, còn gọi vạn hạnh vãng sanh, nương nhờ các hạnh lành như hiếu dưỡng cha mẹ, từ tâm bất sát, tôn thờ sư trưởng, thọ tam quy ngũ giới, thập thiện, không trái phạm oai nghi v.v.. tu các hạnh lành này để trợ lực cho việc vãng sanh. 3/- Trợ niệm vãng sanh: Tu các pháp lành để trợ giúp cho pháp niệm Phật vãng sanh. 4/- Văn danh vãng sanh : Nghe danh hiệu Phật phát nguyện niệm Phật cầu vãng sanh.
           Vãng sanh Đâu Suất Đà Thiên, là nơi nội viện chổ ở của Đức Di Lặc, là vị Phật đương lai. Những vị tu hành phát nguyện lúc mạng chung sanh lên cõi trời Đâu Suất nội viện chổ ở của Đức Phật Di Lặc. Đức Thích Ca huyền ký đời sau 56 ức 7 ngàn vạn năm nữa Đức Phật Di Lặc sẽ hạ sanh thành Phật cõi Ta bà này. Hiện nay Ngài đang ngự tại nội viện Đâu Suất Đà thiên.
   Có ba vị Vô Trước, Thế Thân và Sư Tử Giác hứa hẹn với nhau, nếu ai chết trước sẽ về báo mộng cho nhau biết chổ của mình vãng sanh về cõi tịnh độ Đâu Suất Đà Thiên. Trước hết vị Sư Tử Giác tịch, nhưng không thấy về báo tin, ba năm sau Thế Thân tịch sanh về nội viện Đâu Suất, Vô Trước chờ mãi cũng không thấy, đúng ba năm sau Thế Thân mới trở về báo mộng với Vô Trước, Ngài Vô Trước trách Thế Thân, sao không về báo sớm. Thế Thân trả lời tôi vừa diện kiến Phật Di Lặc đi nhiểu ba vòng xong trở lại liền mà ở nhân gian đã ba năm tròn .
 2/ Hiện tiền vãng sanh : Có ba ý nghĩa : a/ Chuyển hoá vãng sanh b/ Thức tỉnh vãng sanh . c/ Buông xả vãng sanh.
          a/-Chuyển hoá vãng sanh tức chuyển hoá vô minh thành quang minh, chuyển hoá tham sân si thành giới định huệ, chuyển hoá tạp niệm thành chánh niệm, chuyển hoá phàm tâm thành thánh tâm, chuyển hoá bất tịnh thành thanh tịnh . . .Khi một niệm vô minh bất giác khởi lên làm cho mình khổ, mọi người khổ, sống không an lạc, thì địa ngục hiện tiền. Khi khởi tâm niệm Phật gọi là khởi chánh niệm, ba nghiệp thân khẩu ý trở nên thanh tịnh, tức chuyển từ thế giới đau khổ qua thế giới an lành.
    Chuyển thức tâm là tâm phân biệt phải trái, hơn thua thành thánh trí.
   Chuyển Viên tâm là tâm dao động, trạo cử  thành định tâm.
   Chuyển cấu tâm, nhiểm tâm là tâm đắm nhiểm thành tịnh tâm.
   Chuyển tâm ngu si mê muội thành huệ tâm
    Như vậy chuyển : thức thành trí, chuyển mê thành ngộ, chuyển loạn thành định, chuyển nhiểm thành tịnh.   .
    Ta vẫn là ta, lợi danh hư vọng có chi màng
    Nhứt niệm quay về nơi tự tánh,
    Chơn như bình đẳng thể hằng an.
           b/-Thức tỉnh tức vãng sanh: là không còn mê lầm đối với ngũ trần, ngũ dục là những thứ ăn ngon, mặc đẹp, địa vị, của cải tiền bạc, ngủ nghỉ ( Tài ,sắc, danh, thực, thùy ) là 5 dục lạc của thế gian. Xem phú quý như phù vân, coi công danh như bột nổi, cho nên vô cầu vô dục, an phận giữ đạo.
          c/Buông xả vãng sanh : Tức là không chấp trước, không thủ chấp, không buộc chặt. Đã thức tỉnh và chuyển hoá rồi thì đã có sự buông xả. Đã vô cầu vô dục thì đã có sự buông xả, nhờ có sự thức tỉnh và chuyển hoá nên vô cầu vô dục, đối với mọi sự mọi vật không đem tâm đắm nhiểm. Buông xả như hạnh của Ngài Di Lặc
    Bụng lớn năng dung, dung những điều khó dung trong thiên hạ. Lòng từ thường xả, xả những điều khó xả ở thế gian.
     Xả bậc thượng : chứng nhập chân như, sạch hết phiền nào không còn phân biệt.
     Xả bậc trung : Làm tất cả mà không mong cầu đền đáp, không kể công, không cần đền trả.
    Xả bậc hạ: Làm nhưng không còn dính mắc.
     Nguyên lai hai chữ vãng sanh
    Hành nhân nếu muốn tạo thành nguyện đây
    Vãng sanh hiện tại cõi nầy
         Phàm tâm chuyển hoá hiển bày thánh tâm
    Ngày đêm thức tỉnh chớ lầm
   Nương danh hiệu Phật diệt mầm vô minh
  Vãng sanh tạp tưởng vọng tình tiêu tang
  Về nơi cảnh tịnh tánh linh rạng ngời
  Vãng sanh ý nguyện tuyệt vời
  Chúc cho đại chúng hiện đời bình an
  Lâm chung cảnh tịnh huy hoàng
  Tây phương Cực Lạc hiện tiền vãng sanh.
       Có người niệm Phật mà không muốn cầu vãng sanh, vì họ quan niệm vãng sanh là chết. Ở đây vãng sanh không có nghĩa là chết mà là chuyển hoá của nội tâm là sự thức tỉnh của tâm là sự buông xả của tâm. Ai niệm Phật có được ba yếu tố trên, người đó là đại hạnh phúc, đại an lạc ở hiện tại và mai sau. Ước nguyện vãng sanh, cầu mong vãng sanh là cầu sự bình an, sự sung túc trong hiện tại và sự siêu thoát trong tương lai. Cầu vãng sanh không phải cầu chết mà nó hàm tàng ý nghĩa sống tốt đẹp trong hiện tại. Vì thế niệm Phật cầu vãng sanh tuy một mục đích mà có nhiều ý nghĩa hiện tại và tương lai, cho nên không nên e dè sợ sệt mà không mong cầu vãng sanh , không phát nguyện vãng sanh./.


Ý NGHĨA CỦA SỰ VÃNG SANH Rating: 4.5 Diposkan Oleh: CHÙA TAM BẢO TAM KỲ

0 nhận xét:

Đăng nhận xét