Thứ Ba, 15 tháng 11, 2016

HẠNH


Có tín chân nguyện thiết, nhưng nếu không thực hành tu tập, thì cũng như người bệnh tuy muốn uống linh đơn diệu dược để trị bệnh, hòng thân thể khoẻ mạnh, kéo dài mạng sống, nhưng lại không uống theo đơn trị liệu, thì linh đơn diệu dược này cũng chẳng ích gì, không thể có hiệu quả đây cũng như vậy. Cho nên tín đã lập, nguyện đã đủ, cần phải có thêm hạnh trợ giúp, Đại khái hạnh có ba thứ :
 A / Thông hạnh : Một là hiếu dưỡng cha mẹ, kính thờ sư trưởng, cứu giúp sinh linh. Hai là, đầy đủ tướng quy y phật pháp tăng, trì giới tu các pháp lành. Ba là, có tâm tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn, tin sâu nhân quả., khuyến hoá người tu học.  Ba hạnh này là hạnh thông thường của người tin Phật, và kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật lấy hạnh này làm trọng yếu trên bước đường vãng sanh Cực Lạc.
           B/ Chánh hạnh : Chánh hạnh tức là niệm danh hiệu Phật A Di Đà, vì cầu vãng sanh Cực Lạc, chỉ chuyên nhất niệm một danh hiệu A Di Đà Phật. Niệm Phật A Di Đà có giác tánh niệm, Quán tướng niệm, trì danh niệm. Theo như hiền triết cổ kim chứng nghiệm bản thân nói, thì đơn giản nhất, diệu dụng nhất là trì danh niệm Phật, pháp trì danh niệm Phật lại có ba loại:
     1/ Niệm định công khoá mỗi ngày : Lại có hai :
a/ Là mỗi buổi sáng thức dậy, sau khi súc miệng rửa mặt xong, đến trước tượng phật, hoặc kinh Phật, thân trang nghiêm hướng về tượng phật, xướng quy y phật lạy một lạy, quy y Pháp lạy một lạy, quy y Tăng lạy một lạy. Xướng Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật lạy một lạy, Nam mô Tây Phương Thế Giới Đại Từ Đại Bi A Di Đà Phật ba lần ba lạy. Nam mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát, Nam mô Đại Thế Chí Bồ Tát, Nam mô Phổ Hiền, Bồ Tát, mỗi vị một lạy. Rồi sau đó hoặc quỳ hoặc ngồi, hoặc đứng tuỳ ý. Khởi niệm phát nguyện :


               Quy mạng lễ A Di Đà Phật,
              Ở phương Tây thế giới an lành,
              Con nay xin phát nguyện,
              Nguyện vãng sanh
              Cuối xin Đức Từ bi nhiếp thọ
              Nam mô Tây Phương Cực Lạc Thế giới Đại từ Đại Bi A Di Đà Phật
 hoặc niệm ra tiếng, hoặc niệm thầm, sáu chữ hồng danh Nam mô A Di Đà Phật, Nam mô A Di Đà Phật . . . .tuỳ hơi thở dài ngắn, mỗi hơi 10 tiếng, hoặc 5 tuỳ, niệm 10, 30, 108 v.v khi nào không niệm nữa, niệm qua Quan Thế Âm, Đại Thế Chí và Liên Trì Hải Hội lạy một lạy rồi tụng bài kệ phát nguyện hồi hướng vãng sanh.
            Nguyện đem công đức niệm Phật
  Trang nghiêm cõi Phật tịnh độ
  Trên đền bốn ân nặng
  Dưới cứu khổ ba đường
  Nếu có kẻ thấy nghe
            Đều phát lòng Bồ Đề
  Khi hết báo thân này
  Đồng sanh qua cõi Cực lạc
  Rồi tiếp đọc bài :
 Nguyện sanh Tây Phương Tịnh độ trung
           Cửu phẩm liên hoa vi phụ mẫu
           Hoa khai kiến Phật ngộ vô sanh,
           Bất thối Bồ Tát vi bạn lữ.
           ( Nguyện sanh Cực Lạc cảnh phương Tây- Chín phẩm hoa sen làm cha mẹ- Hoa nở thấy Phật ngộ vô sanh -Bồ Tát bất thối làm bè bạn )
          Nguyện đem công đức nầy, hồi hướng khắp tất cả đệ tử và chúng sanh, đều trọn thành Phật đạo.  Nếu y như đây ngày ngày hành trì không gián đoạn ( một lần hoặc hai lần trước khi đi ngủ sau khi thức dậy trong mỗi ngày), đến khi mạng chung chắc chắn vãng sanh nước Phật. Nếu như những người vì nhiều công việc, hoặc không có nơi thờ Phật trang nghiêm, thì không cần phải đối trước tượng Phật, mà chỉ niệm danh hiệu Phật A Di Đà và tụng bài kệ hồi hướng cũng đủ công đức vậy.
          b/ Định công khoá mỗi ngày mấy lần, niệm bao nhiêu giờ, lần chuổi niệm Phật. Mỗi ngày định khoá niệm mấy trăm ngàn mấy vạn tuỳ ý, nhưng phải tăng dần không để giảm sút. Mỗi thời đều lễ bái xướng tụng như trên, theo đó mỗi ngày hành trì không gián đoạn, lâm chung quyết định vãng sanh.
  2/ Hằng thời tuỳ duyên niệm :  Trong tất cả thời.tất cả chổ, tuỳ tất cả duyên, làm tất cả việc, đi đứng nằm ngồi, nói nín động tịnh, thấy nghe hiểu biết, sắc thanh vị xúc, tâm suy nghỉ, ý quán sát, tức nhiếp sáu căn bằng danh hiệu Nam mô A Di Đà Phật. Nếu thấy con vật bị giết mà không thể cứu, nên niệm Nam mô A Di Đà Phật, độ thần thức nó vãng sanh tịnh độ. Nếu gặp người bệnh mà không thể cứu, nên niệm Nam mô A Di Đà Phật. quên đi đau đớn mà vãng sanh an lạc, đồng thời nên thuyết cho họ nghe về niềm vui ở cõi Cực lạc và nguyện lực của Phật A Di Đà, khuyên họ chuyên niệm Phật cầu sanh Tây phương. Nếu gặp những kẻ nhàn hạ, nên niệm Nam mô A Di Đà Phật, mong họ tỉnh lặng không móng khởi tạp loạn. Nếu gặp người lao động vất vã, nên niệm Nam mô A Di Đà Phật, mong họ siêng năng, mùa màng bội thu, khiến được yên nghỉ. Nói tóm lại, chỉ là một câu Nam mô A Di Đà Phật tịnh niệm tương tục mà thôi. Nhưng hạnh này thật không dễ hành, tốt nhất nên kiêm tu niệm định công khoá mỗi ngày nữa, ngoài công khoá đã định mỗi ngày, chính là tu hằng thời tuỳ duyên niệm này. Như vậy thật là trăm ngàn ổn thoả.
          3/ Kỳ hạn thủ chứng niệm Phật :  Sau khi thôi nghỉ việc đời, bỏ hết gia duyên, hoặc một mình, hoặc cùng thiện hữu trí thức, hoặc ở chùa hoặc ở tịnh thất, hoặc kỳ hạn một ngày cho đến 7 ngày, 7 ngày cho đến 49 ngày, một năm ba tháng, cho đến một năm, một vài năm cho đến trọn đời, lễ kính Phật pháp, Sám hối tội chướng, Tụng kinh tịnh độ vãng sanh, và các kinh Đại thừa, lòng lúc nào cũng phát nguyện cầu sanh Cực lạc, ngày đêm sáu thời đi đứng nằm ngồi, không rời câu A Di Đà Phật, kỳ hạn cho mình Phải niệm thành nhất tâm bất loạn, thân chứng niệm phật Tam muội, hiền tiền tức được thấy rõ ràng tịnh độ Tây phương an lạc và chư Phật chư đại Bồ Tát câu hội nhứt xứ, vậy thì tuy chưa xả báo thân ở cõi Ta bà, nhưng đã chứng được quả Cực Lạc rồi vậy. Cho nên những người tu theo hai cách trên, mỗi năm nên tổ chức niệm phật bảy lần là tốt nhất.
          C/ Trợ hạnh :
 Tuỳ tài tuỳ sức tu hành bố thí tài, như là ấn tống kinh điển, xây chùa tạo tượng, trai tăng phóng sanh, xây dựng cầu cống, uỷ lạo giúp đỡ người nghèo khó, nuôi dưỡng trẻ mồ côi, người già cô độc. Tuỳ hỷ tuỳ sức tu hành bố thí pháp, như là hiếu dưỡng cha mẹ, dạy người hiếu dưỡng với cha mẹ, giúp đỡ nước nhà, dạy người giúp đỡ nước nhà, thọ Tam quy, dạy người thọ Tam quy, hành trì năm giới, dạy người hành trì năm giới, tự niệm Phật A Di Đà dạy người niệm Phật A Di Đà, mình tụng kinh điển Đại thừa dạy người tụng đọc kinh điển đại thừa, cho đến mở pháp hội lớn, xây dựng đại pháp tràng... Nói tóm lại, phàm làm những điều lành, không điều gì là không tự nêu gương, và nhất nhất đều hồi hướng vãng Tây phương Cực Lạc, không cầu phước báo trời người thì vạn thiện đồng quy, đồng quy tịnh độ.

     Là người tu pháp môn tịnh độ, như bỏ hết chỉ nắm lấy một vật. Tín như con mắt, cần phải nhìn thấy cho rõ ràng, đích xác vật ấy, chính xác là vật đáng lấy, chính xác là vật ta có khả năng lấy, sau đó mới lấy nó. Hành như đôi chân, cho dù từ xa mắt đã thấy mà chân không bước thì không thể lấy, rồi chân bước mà không giương tay ra nắm lấy thì cũng không thể được. Như vậy phải vận hành cả mắt tay chân mới lấy được vật. Cho nên không chỉ có Tín mà phải có cả Hạnh và có cả Nguyện, thiếu một rong ba thứ Tín Hạnh Nguyện thì không thành, Phật thừa diệu giác gọi là TÍN, NGUYỆN, HẠNH. Đích thật có đủ ba yếu tố ấy, thì niệm Phật A Di Đà nguyện vãng sanh Tịnh độ nắm chắc có phần không sai lạc vậy Tín Hạnh Nguyện , còn gọi  Tín hạnh, Tín nguyện,./.

HẠNH Rating: 4.5 Diposkan Oleh: CHÙA TAM BẢO TAM KỲ

0 nhận xét:

Đăng nhận xét