Có tín chân nguyện thiết,
nhưng nếu không thực hành tu tập, thì cũng như người bệnh tuy muốn uống linh
đơn diệu dược để trị bệnh, hòng thân thể khoẻ mạnh, kéo dài mạng sống, nhưng
lại không uống theo đơn trị liệu, thì linh đơn diệu dược này cũng chẳng ích gì,
không thể có hiệu quả đây cũng như vậy. Cho nên tín đã lập, nguyện đã đủ, cần
phải có thêm hạnh trợ giúp, Đại khái hạnh có ba thứ :
A / Thông hạnh : Một là hiếu dưỡng cha mẹ, kính thờ
sư trưởng, cứu giúp sinh linh. Hai là, đầy đủ tướng quy y phật pháp tăng, trì
giới tu các pháp lành. Ba là, có tâm tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn, tin
sâu nhân quả., khuyến hoá người tu học.
Ba hạnh này là hạnh thông thường của người tin Phật, và kinh Quán Vô
Lượng Thọ Phật lấy hạnh này làm trọng yếu trên bước đường vãng sanh Cực Lạc.
B/
Chánh hạnh : Chánh hạnh tức là niệm danh hiệu Phật A Di Đà, vì cầu vãng
sanh Cực Lạc, chỉ chuyên nhất niệm một danh hiệu A Di Đà Phật. Niệm Phật A Di
Đà có giác tánh niệm, Quán tướng niệm, trì danh niệm. Theo như hiền triết cổ
kim chứng nghiệm bản thân nói, thì đơn giản nhất, diệu dụng nhất là trì danh
niệm Phật, pháp trì danh niệm Phật lại có ba loại:
1/ Niệm định công khoá mỗi
ngày : Lại có hai :
a/ Là mỗi buổi sáng thức
dậy, sau khi súc miệng rửa mặt xong, đến trước tượng phật, hoặc kinh Phật, thân
trang nghiêm hướng về tượng phật, xướng quy y phật lạy một lạy, quy y Pháp lạy
một lạy, quy y Tăng lạy một lạy. Xướng Nam
mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật lạy một lạy, Nam mô Tây Phương Thế Giới Đại Từ
Đại Bi A Di Đà Phật ba lần ba lạy. Nam mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát, Nam mô Đại
Thế Chí Bồ Tát, Nam mô Phổ Hiền, Bồ Tát, mỗi vị một lạy. Rồi sau đó hoặc quỳ
hoặc ngồi, hoặc đứng tuỳ ý. Khởi niệm phát nguyện :
Quy mạng lễ A Di Đà Phật,
Ở phương Tây thế giới an lành,
Con nay xin phát nguyện,
Nguyện vãng sanh
Cuối xin Đức Từ bi nhiếp thọ
hoặc niệm ra tiếng, hoặc niệm thầm, sáu chữ
hồng danh Nam mô A Di Đà Phật, Nam mô A Di Đà Phật . . . .tuỳ hơi thở dài ngắn,
mỗi hơi 10 tiếng, hoặc 5 tuỳ, niệm 10, 30, 108 v.v khi nào không niệm nữa, niệm
qua Quan Thế Âm, Đại Thế Chí và Liên Trì Hải Hội lạy một lạy rồi tụng bài kệ
phát nguyện hồi hướng vãng sanh.
Nguyện đem công đức niệm Phật
Trang nghiêm cõi Phật tịnh độ
Trên đền bốn ân nặng
Dưới cứu khổ ba đường
Nếu có kẻ thấy nghe
Đều
phát lòng Bồ Đề
Khi hết báo thân này
Đồng sanh qua cõi Cực lạc
Rồi tiếp đọc bài :
Nguyện sanh Tây Phương Tịnh độ trung
Cửu phẩm liên hoa vi phụ mẫu
Hoa khai kiến Phật ngộ vô sanh,
Bất thối Bồ Tát vi bạn lữ.
( Nguyện sanh Cực Lạc cảnh phương Tây- Chín
phẩm hoa sen làm cha mẹ- Hoa nở thấy Phật ngộ vô sanh -Bồ Tát bất thối làm bè
bạn )
Nguyện đem công đức nầy,
hồi hướng khắp tất cả đệ tử và chúng sanh, đều trọn thành Phật đạo. Nếu y như đây ngày ngày hành trì không gián
đoạn ( một lần hoặc hai lần trước khi đi ngủ sau khi thức dậy trong mỗi ngày),
đến khi mạng chung chắc chắn vãng sanh nước Phật. Nếu như những người vì nhiều
công việc, hoặc không có nơi thờ Phật trang nghiêm, thì không cần phải đối
trước tượng Phật, mà chỉ niệm danh hiệu Phật A Di Đà và tụng bài kệ hồi hướng
cũng đủ công đức vậy.
b/
Định công khoá mỗi ngày mấy lần, niệm bao nhiêu giờ, lần chuổi niệm Phật. Mỗi
ngày định khoá niệm mấy trăm ngàn mấy vạn tuỳ ý, nhưng phải tăng dần không để
giảm sút. Mỗi thời đều lễ bái xướng tụng như trên, theo đó mỗi ngày hành trì
không gián đoạn, lâm chung quyết định vãng sanh.
2/ Hằng
thời tuỳ duyên niệm : Trong tất
cả thời.tất cả chổ, tuỳ tất cả duyên, làm tất cả việc, đi đứng nằm ngồi, nói
nín động tịnh, thấy nghe hiểu biết, sắc thanh vị xúc, tâm suy nghỉ, ý quán sát,
tức nhiếp sáu căn bằng danh hiệu Nam mô A Di Đà Phật. Nếu thấy con vật bị giết
mà không thể cứu, nên niệm Nam mô A Di Đà Phật, độ thần thức nó vãng sanh tịnh
độ. Nếu gặp người bệnh mà không thể cứu, nên niệm Nam mô A Di Đà Phật. quên đi
đau đớn mà vãng sanh an lạc, đồng thời nên thuyết cho họ nghe về niềm vui ở cõi
Cực lạc và nguyện lực của Phật A Di Đà, khuyên họ chuyên niệm Phật cầu sanh Tây
phương. Nếu gặp những kẻ nhàn hạ, nên niệm Nam mô A Di Đà Phật, mong họ tỉnh
lặng không móng khởi tạp loạn. Nếu gặp người lao động vất vã, nên niệm Nam mô A Di Đà
Phật, mong họ siêng năng, mùa màng bội thu, khiến được yên nghỉ. Nói tóm lại,
chỉ là một câu Nam
mô A Di Đà Phật tịnh niệm tương tục mà thôi. Nhưng hạnh này thật không dễ hành,
tốt nhất nên kiêm tu niệm định công khoá mỗi ngày nữa, ngoài công khoá đã định
mỗi ngày, chính là tu hằng thời tuỳ duyên niệm này. Như vậy thật là trăm ngàn
ổn thoả.
3/ Kỳ hạn thủ chứng niệm Phật : Sau khi thôi nghỉ việc đời, bỏ hết gia duyên,
hoặc một mình, hoặc cùng thiện hữu trí thức, hoặc ở chùa hoặc ở tịnh thất, hoặc
kỳ hạn một ngày cho đến 7 ngày, 7 ngày cho đến 49 ngày, một năm ba tháng, cho
đến một năm, một vài năm cho đến trọn đời, lễ kính Phật pháp, Sám hối tội
chướng, Tụng kinh tịnh độ vãng sanh, và các kinh Đại thừa, lòng lúc nào cũng
phát nguyện cầu sanh Cực lạc, ngày đêm sáu thời đi đứng nằm ngồi, không rời câu
A Di Đà Phật, kỳ hạn cho mình Phải niệm thành nhất tâm bất loạn, thân chứng
niệm phật Tam muội, hiền tiền tức được thấy rõ ràng tịnh độ Tây phương an lạc
và chư Phật chư đại Bồ Tát câu hội nhứt xứ, vậy thì tuy chưa xả báo thân ở cõi
Ta bà, nhưng đã chứng được quả Cực Lạc rồi vậy. Cho nên những người tu theo hai
cách trên, mỗi năm nên tổ chức niệm phật bảy lần là tốt nhất.
C/ Trợ hạnh :
Tuỳ tài tuỳ sức tu hành bố thí tài, như là ấn
tống kinh điển, xây chùa tạo tượng, trai tăng phóng sanh, xây dựng cầu cống, uỷ
lạo giúp đỡ người nghèo khó, nuôi dưỡng trẻ mồ côi, người già cô độc. Tuỳ hỷ
tuỳ sức tu hành bố thí pháp, như là hiếu dưỡng cha mẹ, dạy người hiếu dưỡng với
cha mẹ, giúp đỡ nước nhà, dạy người giúp đỡ nước nhà, thọ Tam quy, dạy người thọ
Tam quy, hành trì năm giới, dạy người hành trì năm giới, tự niệm Phật A Di Đà
dạy người niệm Phật A Di Đà, mình tụng kinh điển Đại thừa dạy người tụng đọc
kinh điển đại thừa, cho đến mở pháp hội lớn, xây dựng đại pháp tràng... Nói tóm
lại, phàm làm những điều lành, không điều gì là không tự nêu gương, và nhất
nhất đều hồi hướng vãng Tây phương Cực Lạc, không cầu phước báo trời người thì
vạn thiện đồng quy, đồng quy tịnh độ.
Là người tu pháp môn tịnh độ,
như bỏ hết chỉ nắm lấy một vật. Tín như con mắt, cần phải nhìn thấy cho rõ
ràng, đích xác vật ấy, chính xác là vật đáng lấy, chính xác là vật ta có khả
năng lấy, sau đó mới lấy nó. Hành như đôi chân, cho dù từ xa mắt đã thấy mà
chân không bước thì không thể lấy, rồi chân bước mà không giương tay ra nắm lấy
thì cũng không thể được. Như vậy phải vận hành cả mắt tay chân mới lấy được
vật. Cho nên không chỉ có Tín mà phải có cả Hạnh và có cả Nguyện, thiếu một
rong ba thứ Tín Hạnh Nguyện thì không thành, Phật thừa diệu giác gọi là TÍN,
NGUYỆN, HẠNH. Đích thật có đủ ba yếu tố ấy, thì niệm Phật A Di Đà nguyện vãng
sanh Tịnh độ nắm chắc có phần không sai lạc vậy Tín Hạnh Nguyện , còn gọi Tín hạnh, Tín nguyện,./.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét