Ý NGHĨA CỦA SỰ HÒA BÌNH
Hòa bình vốn là nhu cầu chung cho nhân loại, khi đất nước bị
chiến tranh, chém giết lẫn nhau, thì nhu cầu hòa bình lại càng cấp thiết hơn.
Nhưng ở đây chúng ta cần phải có một vấn đề để thảo luận, từ cổ chí kim, nhân
loại luôn luôn khát vọng hòa bình, yêu cầu hòa bình, nhưng tại sao hòa bình
không đến với chúng ta. Từ xừ xưa đến nay toàn thể trên thế giới, không nước
nào là không có chiến tranh, chiến tranh luôn luôn tiếp diễn ở mọi nơi mọi lúc.
Có lẽ đó chính là lý do tại sao con người mong cầu sự hòa bình. Muốn có hòa
bình cần phải tìm hiểu điều kiện nào dẫn đến sự hòa bình, không thể có sự hòa
bình trong sự hận thù, chỉ có hòa bình trong sự thương yêu và hiểu biết và tôn
trọng lẫn nhau. Những tín đồ theo đạo Phật đối với việc hòa bình có nhu cầu lớn
hơn so với các tín đồ các tôn giáo khác. Là người Phật tử chúng ta nên hiểu rõ
lời giảng dạy của đức phật, để thấy được ý nghĩa chơn chính của sự hòa bình
chính là lòng từ bi của đạo Phật, xuất phát từ tinh thần đó, chúng ta mới có
thể nỗ lực thực hiện sự hòa bình trong cuộc sống.
Nhân loại có nhu cầu bình an và hạnh phúc, đó là ý muốn chung
của mọi người, do vậy chúng ta phải cùng nhau sống trong tinh thần hòa bình, nhưng
hòa bình không thể có, khi con người chỉ dựa vào một ý niệm suông. Hòa bình
không thể xây dựng trên sự thiếu hiểu biết mà phải được xây dựng trên lý trí.
Thông thường chúng ta có suy nghĩ về hòa bình chỉ là mong muốn chấm dứt chiến
tranh, đôi khi mang ý nghĩa không đúng. Ví như A và B đánh nhau, A thắng B thất
bại, B phải bồi thường hiến đất, thậm chí phải chịu sự chinh phục, hoặc phải bị
nô dịch v.v Đây không phải là sự hòa
bình mà đây là hành vi của kẻ mạnh ăn hiếp kẻ yếu, cưỡng bức đối phương phải
chấp nhận hòa bình, nếu không phải chịu hậu quả khốc liệt của chiến tranh. Vì
để đáp ứng nhu cầu và tư lợi của mình, bằng mọi cách làm cho đối phương không
còn ý chí chiến đấu, hoặc không còn khả năng chiến đấu, hoặc ngụy trang dưới
chiêu bài hòa bình, thông qua con đường ngoại giao thỏa hiệp, nhưng chính mình
lại bí mật dùng các thủ đoạn để được chiến thắng. Hình thức ngoại giao này có
phải chăng là điều kiện dẫn đến sự hòa bình hay là yếu tố dẫn đến chiến tranh ? Đây có thể gọi là sự lường gạt hòa bình, là
mầm mống của chiến tranh. Nếu chúng ta hoàn toàn tin vào những khẩu hiệu này,
có thể nói đó là sự nguy hiểm, là con đường tự chuốc lấy thất bại. Đây chẳng
phải là yếu tố của hòa bình mà là sự bi kịch của hòa bình. Ngược lại hoặc phát
xuất từ thái độ cục bộ và cực đoan, không có yếu tố của hòa bình làm cho cục
diện càng ngày càng nghiêm trọng hơn, bất cứ lý do gì cũng không chịu thương
thảo, quyết lấy chiến tranh, dẫn đến sự hy sinh tang tóc. Cho rằng làm như vậy,
để đổi lấy sự hòa bình hay duy trì hòa bình, ngược lại đó là ý thức nuôi dưỡng
chiến tranh không phải hòa bình.
Chúng ta là người học Phật đương nhiên mong chuộng cuộc sống
hòa bình. Là người Phật tử chân chính quyết không thể làm những gì mang tính
lường gạt, ngụy trang dưới hình thức hòa bình để trục lợi cá nhân mình. Là
người con Phật chúng ta không nên ca tụng chiến tranh đặc biệt là loại chiến
tranh phi nghĩa.
Mặt trái của hòa bình là không hài hòa không bình đẳng. Sự
bất hòa là nguồn gốc của ân oán, thù hận, xung đột, đấu tranh, không hợp tác.
Không bình đẳng là ỷ mạnh hiếp yếu, ỷ đông hiếp kẻ cô thế, như vậy là không
bình đẳng. Chân chánh của sự hòa bình chắc chắn không phải đến từ sự thù hận,
xung đột, đấu tranh, cũng không thể xây dựng trên tinh thần bất bình đẳng. Sự
hòa hợp và bình đẳng luôn luôn có mối quan hệ mật thiết, nếu thiếu một trong
hai yếu tố này thì ý nghĩa bình đẳng không còn. Là người Phật tử, chúng ta
không thể tán đồng sự ngụy trang hòa bình, chúng ta cũng không chấp nhận bất cứ
nhân tố bất bình đẳng nào tồn tại trong đời sống chúng ta.
II- NGUYÊN NHÂN CỦA SỰ BẤT HÒA
Mọi người đều mong muốn đời sống hòa
bình, nhưng hòa bình không thể thực hiện. Theo Phật pháp cho rằng, nguyên nhân
của nó chính là ở trong tâm của chúng ta không hòa, cho nên mới biểu hiện hình
thức bên ngoài, tâm và hình thức có mối liên quan mật thiết với nhau, vì có gió
mới có sóng, tạo thành yếu tố khó có thể đạt đến sự hòa bình.
Khái niệm “ bất hòa ”
trong kinh điển nhà phật gọi là “ trang giành
”. Thái độ “ tranh giành ” này được thể hiện trên ngôn ngữ và hành động,
nhưng thật ra động cơ sâu xa của nó vốn từ trong tâm của chúng ta. Có hai loại
cạnh tranh. 1- Kiến tranh. 2- Ái tranh. Nguồn gốc của hai loại cạnh tranh này
phát xuất từ nơi “ thọ ” và “tưởng ”,
cho nên gọi thọ và tưởng là hai nguồn gốc của sự tranh giành. Kiến là kiến
giải, nhưng kiến ở đây muốn nói đến những thái độ mang tính chủ quan của thành
kiến, biên kiến, điên đảo, tà kiến. Khi chúng ta tiếp xúc với đối tượng nào,
nhìn và hiểu sự vật thường mang tính chủ quan và phiến diện. Khi chúng ta tiếp
xúc với đối tượng, tìm hiểu và so sánh sự vật này với sự vật nọ, vay mượn khái
niệm để nhận thức về nó, tạo thành một chuỗi khái niệm quan điểm và tư tưởng
cũng được tạo thành từ đó. Đây là quá trình của sự nhận thức của chúng sanh.
Loại nhận thức này là sự nhận thức có giới hạn, mang tính phiến diện, là sự
tưởng tượng vay mượn của tâm thức, bóp méo sự thật, khiến cho sự nhận thức
không toàn diện, khó tránh khỏi sự nhận thức sai lầm và mâu thuẫn, Từ đó hình thành quan điểm tư tưởng
sai lầm, đúng cho là sai, sai cho là đúng. Trong “ kinh Kim Cang ” gọi sự nhận
thức này là điên đảo mộng tưởng. Do đó, thế gian hình thành sự tranh cải kiến
chấp. “ Kinh Chúng Nghĩa ” cho rằng “ Mỗi việc đều y nơi kiến giải của mình,
đây là sự cạnh tranh hơn thua vô cớ; Biết như vậy là chân trí, biết khác là tà
trí… Do vì căn cứ vào sự kiến giải sai lầm của mình, cho nên nó là nguyên nhân
sanh ra các loại hý luận, nếu được trí tuệ suy xét thì phiền não không sanh ”.
Thật đúng như vậy, ở trên đời này ai lại không cho kiến giải của mình là đúng,
ai lại không bảo vệ kiến giải của mình, phản bác ý kiến của người khác. Nếu như
lấy thành kiến, biên kiến cho là chánh trí chánh kiến, thì bất cứ ý kiến nào
cũng đều đúng là chân lý cả. Xuất phát từ loại nhận thức thiếu chánh kiến này,
cho nên khi nhận thức bất cứ việc gì sẽ không rõ ràng, cho nên dẫn đến hổn loạn
chánh pháp, việc đúng cho là sai, việc sai cho là đúng. Nếu là người xuất
gia thì kẻ ấy sống trong tăng chúng tạo
sự bất hòa, thường hay cùng mọi người tranh cãi; Nếu như là người tại gia thì
cũng lại như thế, hay cùng người tại gia tranh luận hơn thua. Đức Phật rất rõ
việc này và khuyên chúng ta không nên vấp phải sai lầm đó, bằng cách nhìn sự
vật bằng cặp mắt khách quan và như thật.
Ái là tham dục. Những
loại như quyền lực, danh dự, giàu sang là những thứ con người tham đắm; Con
người lấy việc ăn mặc ở và ngay cả vấn đề quan hệ tình dục của nam nữ làm đối
tượng sống. Khi chúng ta tiếp xúc đối tượng, trong tâm sanh khởi tâm niệm “
lãnh thọ ”. Tâm niệm “ lãnh thọ ” này luôn luôn lúc nào cũng đi kèm với tâm,
nếu không có tâm thì không có sự lãnh thọ. Đối tượng nếu là cái đẹp thích thú
thì tâm sanh “ lạc thọ ”, luyến ái đắm trước đối tượng, tâm tham sanh khởi,
muốn chiếm đoạt. Nếu đối tượng đó chưa có tâm luôn luôn truy cầu, nếu đã được
rồi thì tâm lại muốn nhiều hơn nữa tốt hơn nữa, lòng ham muốn vô hạn. Phàm cái
gì là sự vật thì cái ấy không thuộc quyền sở hữu vĩnh viễn của bất cứ ai, vì
bản chất của nó là vô thường, nhưng thói quen của lòng ái, lại muốn sự vật đó
thuộc về của mình, không chấp nhận sự biến đổi của luật vô thường, đây là ý
niệm vô cùng sai lầm. Lòng ái dục là bản chất của chúng sanh, nó đã thúc đẩy
tạo thành đời sống của con người luôn luôn có thái độ chiếm hữu, tôi mong cầu
cái này hay cái kia thuộc về của mình, nhưng trong xã hội này không những chỉ
có tôi mà còn nhiều người nữa, do vậy người khác cũng mong muốn cái này hay cái
kia cũng thuộc về mình, từ đó xuất hiện sự xung đột và cuối cùng là đấu tranh.
Liên quan đến vấn đề này, đức phật đã từng nói rõ. “ Con người lấy dục làm gốc
cho nên mẹ và con tranh cãi với nhau, cha con, anh em, chủng tộc…đấu tranh với
nhau, vì lấy lòng dục làm căn bản, cho nên vua với vua tranh giành với nhau,
dân với dân, nước với nước cùng nhau cạnh tranh, tương tàn tương sát, hoặc dùng
tay chân, gậy gộc, đất đá, gươm đao chém giết lẫn nhau ”. Từ xưa đến nay những
loại đấu tranh giữa gia đình với gia đình, giữa quốc gia với quốc gia không có
gì lạ, chẳng qua hình thức đấu tranh khác nhau mà thôi, ngày xưa thì dùng gươm
đao, gậy kiếm, bây giờ sử dụng vũ khí tối tân hơn, như là máy bay, hạm đội,
súng đạn, các loại như bom nhiệt, bom nguyên tử, hóa học, giết hại hàng loạt.
Nói tóm lại, mỗi người chúng ta đều có nhận thức riêng của
mình, chẳng qua không hoàn bị, không triệt để, trong đó không ngoài ý niệm muốn
người khác phục vụ làm theo ý kiến của mình, chúng ta có nhu cầu về vật chất,
người khác cũng chẳng khác, nhưng mình lại muốn chỉ có mình thành tựu, người
khác lại không, từ đó phát sanh mọi vấn đề. Tà kiến và ngã ái là hai loại nhu
cầu sinh hoạt về vật chất và tinh thần
của con người, là động cơ thúc đẩy sự xung đột, đấu tranh
của con người, hai loại này bắt nguồn từ thọ và tưởng. Trong năm uẩn,
thọ uẩn và tưởng uẩn là nguồn gốc của sự cạnh tranh về kiến và ái.
Những hoạt động của nội tâm không luận là loại cảm tình hay ý
chí, tri thức. Bất cứ một loại ý niệm gì xuất hiện không chính đáng đều là
nguyên nhân của sự đấu tranh, động cơ phát sanh phiền não. Do đó cho nên nói
rằng: “ Tất cả mọi phiền não đều từ cạnh tranh đấu tranh mà có ” nhất là khi
chúng ta quá vui, quá giận, quá mơ tưởng, quá thất vọng, quá khổ đau…Nội tâm
của chúng ta lúc ấy cũng giống như đám cháy ác liệt trong rừng, giống như sự
mạnh bạo tàn phá của trận cuồng phong, giống như sự hung dữ của sóng thần,
giống như sự cuồng nộ của sấm sét. Tất cả các loại phiền não này đều bắt nguồn
từ ái, kiến, mạn và vô minh. Ái bao gồm ái tự thân và ái cảnh giới. Kiến bao
gồm ngã kiến và ngã sở kiến ( thường kiến và đoạn kiến ). Mạn là ngã mạn, tính
tình này đặc biệt cao ngạo. Mỗi một sanh mạng của một chúng sanh là sự tương
tục, sự tồn tại của nó là nương tựa lẫn nhau, hình thành sự tồn tại của một hợp
thể, trong đó bao gồm nhiều đơn vị, nhiều yếu tố tồn tại, thậm chí sự tồn tại
của nó còn có liên quan đến thế giới chung quanh của nó. Thế nhưng, sự nhận
thức của con người lại rơi vào sự sai lầm, cho rằng sự tồn tại của mình là độc
lập, không liên hệ với những cái khác, từ đó hình thành khái niệm chấp ngã, nảy
sanh ý niệm đối lập, đấu tranh và phát sinh lòng tự tôn và cao ngạo, Một cách
tế nhị, nếu chúng ta phân tích lòng tự tôn và cao ngạo này, nó là nhân tố để
hình thành quan điểm quyền lực muốn khống chế người khác. Nhưng từ ý muốn đến
thực tế là hai vấn đề khác nhau, đôi khi lực bất tòng tâm, do vậy hình thành sự
sân hận, thù địch, nói xấu lẫn nhau, tàn sát lẫn nhau, thậm chí thấy sự thành
công của người khác, mặc dù việc đó cùng với mình không có quan hệ, nhưng cũng
sanh lòng ganh ghét, lo âu buồn rầu. Sự kiện này so với kiến chấp và vật dục
càng nghiêm trọng. Tà kiến từ sự phân biệt sai lầm mà có, ái từ tình cảm quá độ mà sanh,
cao ngạo từ ý chí cá nhân mà có.
Ba ý niệm này đều phát xuất từ những tâm lý không chính đáng, nó có liên
hệ với vô minh. Nói một cách khác, vì vô minh cho nên con người không nhận thức
được chân tướng của vạn pháp, đặc biệt là không nhận thức được tự thân của
chính mình là giả hợp. Vô minh hoặc còn gọi là ngu si, là sự nhận thức sai lầm
biểu hiện thành ba mặt tình cảm, ý chí và tri thức đều sai lầm. Do đó, nguyên
nhân sâu xa của lòng đấu tranh thù hận là vô minh. Đây là nguyên nhân tại sao
mọi người sống trong cùng một xã hội nhưng không bình đẳng, con người sống
chung với nhau không hòa bình, cũng là lý do tại sao con người không được giác
ngộ và giải thoát.
---------—]–---------
0 nhận xét:
Đăng nhận xét