PHẬT THUYẾT ĐẠI THỪA,VÔ LƯỢNG THỌ TRANG
NGHIÊM THANH TỊNH BÌNH ĐẲNG GIÁC KINH.
Phật gọi tắt chữ Phạn “ Phật Đà ” nghĩa là “ Người giác
ngộ ”. Giác là đối với mê mà nói. Mê là chúng sanh. Ba điều giác ngộ trọn vẹn
gọi là Phật. Ba điều là tự giác, giác tha và giác mãn. Ba giác viên mãn gọi là
Phật đà. Vì vậy Phật là chúng sanh viên mãn cả ba giác, chúng sanh là Phật chưa
giác ngộ.
Thuyết là duyệt ( vui vẻ ),
đẹp lòng mong mỏi, vui lòng người nghe “Phật thuyết ” chỉ rỏ kinh này được
chính kim khẩu của Phật nói, chẳng phải do kẻ khác nói.
“ Đại thừa ” là dụ, thừa có nghĩa là chuyên
chở, được kẻ lớn sử dụng, hoặc pháp được
sử dụng là lớn lao thì gọi là Đại thừa, khác hẳn với Thanh văn, Duyên giác. Đại
thừa chỉ có chư Phật , Bồ Tát mới có thể thực hiện ( thừa ) nổi, nên nói : “
Được kẻ lớn sử dụng ”. Hơn nữa, đạo được vận dụng là sở hạnh của chư Phật Như
Lai nên pháp được sử dụng là lớn lao. Vì vậy, gọi là Đại thừa.
Hơn nữa, cái “ Đại ” này
ngay do thể thành tên, Đại có nghĩa là thường trọn khắp.
Thể không bờ bến, dứt bặt các
đối đãi, ngang thì khắp trùm 10 phương, dọc thì thông suốt ba đời. Quá khứ vô
thỉ, vị lai vô chung, chẳng có pháp nào trước, chỉ có cái này có trước hết thảy
các pháp, nên cưỡng gọi là Đại.
“ Vô lượng Thọ ” tiếng Phạn
gọi là A Mi Ta, là A Di Đà , tức thánh hiệu của đấng giáo chủ thế giới Cực Lạc
được nói trong kinh này. Ba chữ A Di Đà là mật ngữ hàm chứa vô biên mật nghĩa.
Nếu dịch thánh hiệu ấy từ Phạn ngữ sang Hán ngữ để tỏ rỏ yếu chỉ bí mật bằng
ngôn từ thông thường, ta có thể dịch tên Ngài thành vô biên đức hiệu. Kinh này
dịch tên Ngài thành Vô Lượng Thọ là chỉ trích lấy một nghĩa trọng yếu nhất mà
thôi.
Mười hai thánh hiệu như Vô
Lượng Quang, Vô Biên Quang . . . nói trong kinh cũng chính là đức hiệu của Phật
A Di Đà. Bản dịch tên Ngài thành Vô Lượng Thanh Tịnh Phật, Vô Lượng Giác, Vô
Lượng Thanh Tịnh Bình Đẳng giác ( chữ Giác ở đây đồng nghĩa với chữ Phật).
Ba thánh hiệu vừa nêu đều có
chữ vô lượng, là chỉ cho công đức, trí tuệ, thần thông, đạo lực của Phật, sự
trang nghiêm của y báo, chánh báo, thuyết pháp, hoá độ , mỗi thứ đều vô lượng.
Do Đức Thế Tôn diệu đức vô lượng nên đức hiệu của Ngài cũng vô lượng. Trong mỗi
danh hiệu lại hàm chứa vô lượng đức, nên trì danh Ngài sẽ chiêu cảm được vô
lượng đức.
Ba chữ đầu tiên trong danh
hiệu bản kinh này là Vô Lượng Thọ, dùng ba chữ ấy để thống nhiếp những điều
được giảng trong kinh. Vì Vô Lượng Thọ là thể của Pháp thân thường trụ.
Thọ là thể của trí Như Như.
Quang là tướng của trí Như Như. Vì vậy, dẫu tên kinh chỉ nói về thọ đức, nhưng
cũng ám chỉ quang đức.
Hết thảy ba thứ trang nghiêm
của Cực Lạc Tịnh độ ( Phật, Bồ Tát, quốc độ trang nghiêm ) đều quy về thọ mạng.
Lại nói ba thứ trang nghiêm của y báo chánh báo nơi cõi Cực Lạc nằm gọn trong
một pháp cú Vô lượng thọ vậy.
Vì vậy, đức hiệu Vô Lượng Thọ
được nêu trong tựa đề kinh này gồm cả nguyện hạnh của Ngài Pháp Tạng khi còn tu
nhân lẫn quả địa Phật đức. Y chánh, chủ bạn của Cực Lạc, yếu chỉ của kinh không
một điều nào chẳng được thâu tóm trọn vẹn trong tựa đề bản kinh này.
Kinh có bốn nghĩa : Xuyên suốt, thâu tóm, thường hằng, Pháp.
Xuyên suốt là lý xuyên suốt tất cả những điều được nói. Thâu tóm là thâu giữ
chúng sanh được hoá độ. Thường là xưa nay chẳng đổi. Pháp là xa, gần cũng tuân
theo. Dùng cả bốn chữ vừa nêu trên đây mới nói hết được ý nghĩa chữ kinh.
Tên bản kinh này, đủ ba loại:
Là nhân, pháp và dụ. Cộng chung thành 7 loại : 1/Đơn nhân : Kinh A Di Đà 2/ Đơn
Pháp : Đại Bát Nhã. 3/ Đơn dụ : Phạm võng kinh. 4/ Nhân pháp : Văn Thù Vấn Bát
Nhã kinh. 5/ Pháp dụ : Diệu Pháp Liên Hoa kinh. 6/ Nhân dụ : Bồ Tát Anh Lạc
kinh. 7/ Nhân Pháp dụ : Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm kinh: Phật là nhân,
Đại phương quảng là pháp. Hoa nghiêm là dụ .
Tựa đề bản kinh Vô Lượng Thọ
đầy đủ nhân pháp dụ. Vô Lượng Thọ là người đắc quả. Bảy chữ trang nghiêm Thanh
tịnh, Bình Đẳng Giác là pháp. Hai chữ Đại thừa là dụ. Kinh nầy có thể chuyên chở Vô Lượng chúng
sanh cùng đến chổ có của báu, giống như xe trâu trắng lớn trong kinh Pháp Hoa
nên dùng Đại Thừa làm dụ.
Các kinh đều đủ : giáo-hạnh-lý. Xét về kinh này “ Phật thuyết
Đại thừa ” là giáo, “ Trang nghiêm thanh Tịnh Bình đẳng giác ” là hạnh. “ Vô
Lượng Thọ ” là lý.
Vô Lượng Thọ hàm ý ba đời
nhất như, bổn thể pháp thân thường trụ Niết bàn, cũng chính là Phật tánh sẳn đủ
của chúng sanh, là bổn tâm “ Tâm này là Phật ”. Vì vậy, phán định Vô Lượng Thọ thuộc về lý vì nó chính
là Thật tế lý thể .
“ Phật thuyết Đại thừa ”. là
giáo, nghĩa là nương theo lý thể “ Vô Lượng Thọ ” để trực chỉ Đại thừa.
Vô Lượng Thọ là dụ, vì Phật
tuyên thuyết Đại kinh để nói về cái chúng sanh vốn sẳn có đủ. Lý do phán định
chữ “ Phật thuyết Đại thừa ” là giáo đã rõ.
Lại từ giáo khởi hạnh nên “
Trang nghiêm Thanh tịnh Bình Đẳng Giác ” chính là diệu hạnh được đức Phật giảng
dạy. Một câu Di Đà dùng trang nghiêm tự tâm, thanh tịnh tự tâm, thì chính là “
y giáo tu hành ”, chẳng nhọc phương tiện, tự được tâm khai, hiển lộ trọn vẹn
bình đẳng giác sẳn có. Ấy là dùng hạnh hiển lý.
Hơn nữa, được vãng sanh thì ngộ
vô sanh nhẫn, từ thể khởi dụng, lại dùng diệu pháp bình đẳng này bình đẳng phổ
độ hết thảy chúng sanh vãng sanh tịnh độ, cùng chứng Đại giác. Đấy cũng chính
là từ các hạnh hiển lý vậy./.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét