1/
Có nhân mà không có duyên : Người tu tập mà lúc lâm chung không có sự hộ niệm.
Người lúc còn mạnh khoẻ có tu tập niệm Phật, nhưng sự tu tập không chín chắn,
không thiết tha, tu tập lơ là. Đến lúc lâm chung thiếu hộ niệm, thì không đủ
sức vãng sanh. Do thiếu tự lực,và tha lực lúc tâm chung tâm không chánh niệm để
niệm Phật dễ rơi vào con đường xấu ác, do đó không được vãng sanh.
2/
Có duyên mà không có nhân: Người lúc chết may mắn có sự hộ niệm, nhưng lúc sinh
thời không tu tập, không phát nguyện cầu vãng sanh, lúc gần chết cũng không
chịu quay đầu, thì dù có hộ niệm cũng chưa chắc vãng sanh.
3/ Có nhân lại có duyên :
Là người có tu tập lại được hộ niệm lúc lâm chung, cũng có thể không vãng sanh
. Vì sao vậy ? Nếu người có tu tập mà không cầu vãng sanh, thì dù lúc chết có
hộ niệm cũng không được vãng sanh. Thứ đến người có tu tập nhưng tâm không quyết
liệt, lúc lâm chung tâm chi phối bởi tham luyến, sận hận và mê mờ thì không
được dự phần vãng sanh.
Ba trạng thái lúc lâm chung không vãng sanh:
a/Trạng thái lưu luyến ( tham ái ). 1-Tham ái, hoặc lưu luyến : Hoặc
vợ hoặc chồng, con, cháu. 2- Tham tiếc tài sản 3- Luyến tiếc danh vị quyền chức
mình đang có . 4- Luyến tiếc thân mạng và nhan sắc của mình.
b/ Trạng thái sân giận: Người sắp lâm chung mà có sắc thái thù hèn, oán ghét, tức giận lo buồn, chán
nản, bực bội .
c/ Trạng thái si cuồng: Người lúc chết trong trạng thái mê mờ. Như
chết vì say rượu, say bia, ma tuý, vì tiêm hoặc uống thuốc mê. Người này chết
trong trạng thái này gọi là si cuồng không khởi niệm cầu sanh Tây phương hoặc
khởi tâm niệm Phật được, hoặc có người hộ niệm cũng không hay không biết nên
khó đạt dự phần vãng sanh.
Ngài Mục Kiền Liên thấy tội
nhân ở địa ngục tự lấy nước đồng sôi đỗ vào miệng mình, chết đi sống lại, vẫn
tiếp tục làm như cũ. Địa ngục này gọi là địa ngục tự hành hạ mình.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét