Khoá
tu Phật thất pháp môn Tịnh độ, bắt nguồn từ kinh A Di Đà Phật nói : “ niệm danh
hiệu của Phật A Di Đà từ một ngày đến 7 ngày, nhất tâm bất loạn, người ấy đến
lúc lâm chung, Phật A Di Đà cùng chư thánh chúng hiện ra trước mặt người ấy. Tu
Phật thất, tu thiền thất, vì sao dùng 7 ngày làm kỳ hạn, xuất xứ từ đâu ?.
Vấn đề này có quan hệ mật
thiết với bảy đại hành tinh trong thể của vũ trụ. Ở thời đại Đường Tống, từ
trong kinh điển Mật bộ Phạn văn dịch ra, có một vài loại dùng thất diệu, thất
tinh hoặc Bắc đẩu làm tên. Loại tín ngưỡng này tại Ấn Độ có rất sớm. Tương
truyền Đức Thích Ca ngồi dưới cội Bồ đề, tu thiền 7 lần 7 bốn mươi chín ngày,
liền được khai ngộ thành đạo. Rồi trong 7 ngày đầu sau khi thành đạo, một mặt
hưởng thụ niềm vui giải thoát, đồng thời cũng suy nghỉ nên dùng phương tiện
thiện xảo nào để tuyên thuyết Phật pháp cho chúng sanh.
Trong luật tạng, những tỳ kheo
trong ba tháng an cư, có công việc của Tăng cần phải ra ngoài giới trường an cư
thì có thể xin phép đại chúng được đi tối đa là 7 ngày, gọi là “ thọ thất nhựt
pháp”. Lại tỳ kheo không được cất chứa thức ăn qua đêm để ăn lại, nhưng vì có
tỳ kheo bệnh, vì làm thuốc chửa bệnh nên có thể để dành bơ, sanh tô, đường mật,
nhưng không quá 7 ngày gọi là “ thất nhật dược ”. Đủ chứng tỏ, cơ cấu thời gian
bảy ngày làm kỳ hạn, từ Đức Thích Ca về trước đã lưu hành tại Ấn Độ rồi. Cựu
Ước Sáng Thế Ký của Cơ Đốc Giáo nói
Thượng đế dùng ngày bảy sáng tạo hoàn thành vũ trụ và loài người, vạn
vật cũng phát nguồn từ lý do nêu trên.
Do đó, ở trong kinh Phật có
đề xướng phương pháp tu hành bảy ngày làm kỳ hạn. Như kinh Đại Phương Đẳng Đà
La Ni chép: “ nếu muốn thực hành, cần phải bảy ngày trường trai, mỗi ngày ba
lần tắm gội, mặc áo sạch sẽ, ngồi trước hình tượng Phật, làm lọng ngũ sắc, tụng
câu chú này, 120 biến, đi nhiểu 120 vòng. Trong kinh Pháp Hoa phẩm Phổ Hiền Bồ
Tát khuyến Phật nói : “ Muốn tu kinh Pháp Hoa nầy, trong ba lần bảy (21 ngày)
nên nhất tâm tinh tấn. Mãn 21 ngày rồi, ta sẽ cởi voi trắng sáu ngà. . hiện ra trước người ấy nói pháp ”.
Trong kinh Bát Chu Tam Muội thuộc pháp môn
tịnh độ Đức Phật A Di Đà có nói: “ có tỳ kheo , tỳ kheo ny, ưu bà tắc ưu bà di,
như pháp tu hành, trì giới đầy đủ, ở yên một chổ niệm Phật A Di Đà ở phương
Tây, hiện tại nhất tâm niệm Ngài, một ngày một đêm đến bảy ngày bảy đêm, qua
bảy ngày rồi, sẽ thấy Phật A Di Đà ”. Như kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn nguyện,
ngoài việc chủ trương siêu độ người mất trong vòng 7 ngày đầu là tốt nhất, và
còn cho rằng chậm nhất là 49 ngày. Nguyên nhân này có thể thấy trong Du Già Sư
Địa Luận: “ Thần thức người ta sau khi chết trở thành thân trung hữu ( còn gọi
là thân trung ấm) nếu chưa vãng sanh ngay về cõi trời hoặc cõi người, hoặc chưa
đủ nhân duyên đầu thai chuyển thế, thân trung hữu này, nội trong 7 ngày không
nhất định được chuyển sinh. Nếu trong 7 ngày mà chưa đủ duyên chuyển sinh chết
rồi sống lại, cứ lần lượt như vậy mà chưa được chuyển sinh thì đến 49 ngày, từ
đó về sau sẽ quyết định chuyển sinh. Đủ chứng tỏ rằng thân trung hữu còn gọi là
thân trung ấm, mỗi bảy ngày chết một lần, chỉ có 7 lần, sau đó tuỳ nghiệp mà
thọ sinh, do đó mới có hoạt động tu hành siêu độ 49 ngày làm kỳ hạn.
Chẳng qua tu Phật thất theo
pháp môn Tịnh độ là y cứ vào kinh A Di Đà mà thiết lập như trong kinh A Di Đà
nói: “ Nghe danh hiệu Phật A Di Đà, trì niệm danh hiệu của Ngài từ một ngày cho
đến bảy ngày, nhất tâm bất loạn, người ấy đến lúc lâm chung, Đức Phật A Di Đà,
cùng chư thánh chúng hiện ra trước mặt người đó, mà tiếp dẫn họ về Tây phương
”.
Có thể lấy bảy ngày tinh tấn niệm Phật gọi là
đả Phật thất, phương pháp tu hành này lấy bảy ngày làm kỳ hạn thủ chứng rất có
ý nghĩa, vã lại nó chỉ trong thời gian ngắn nên mọi người ai cũng có thể thực hiện
được, không khó lắm nên đáng được thi hành rộng rãi ra.
d c d c
Giác Minh Diệu Hạnh Bồ Tát nói : Pháp môn niệm Phật là tâm tông của chư Phật,
là con đường giải thoát tắt nhất của mọi loài.
Ngài có viết tập “ Khể thủ Tây phương An Lạc quốc ”, trong đó có 4 điều
kiện rất quan trọng và tha thiết có thể làm căn bản cho chúng ta tu pháp môn
tịnh độ :
Điều kiện thứ nhất : Trong lúc niệm Phật phải rành rẽ, rõ
ràng, không được lộn lạo,mù mờ.
Điều kiện thứ hai : Tiếng phải hiệp với tâm, tâm phải
duyên theo tiếng, tâm và tiếng hiệp khắn với nhau.
Điều kiện thứ ba : Phải chí thành tha thiết với Đức Từ Phụ A
Di Đà, lòng ta như con nhớ mẹ, với cõi Cực Lạc lòng ta như viễn khách nhớ cố hương.
Điều kiện thứ tư : Không xen lộn một mảy may tưởng niệm thế
sự, phải luôn luôn nhiếp tâm trụ nơi tiếng niệm Phật, không xao lãng. Nếu lỡ
xao lãng phải liền nhiếp tâm lại. Ngài cũng có bài kệ :
Ít nói một câu chuyện
Nhiều niệm một câu Phật
Đánh chết được vọng niệm
Pháp thân người hiển lộ
Ngài dạy: Vọng niệm diệt dứt, đó là chân tâm
thường trụ của chư Phật, vọng niệm mà còn, đó là nghiệp tâm sinh tử của chúng
sinh.
Đức Phật nói : “ Như có người nào niệm Phật, nên biết kẻ ấy chính là hoa
Phân đà Lợi ( Hoa sen trắng ) trong loài người. Bồ Tát Quán Thế Âm và Đại Thế
Chí sẽ là thắng hữu của người ấy. Kẻ ấy
sẽ ngồi nơi đạo tràng, sinh vào nhà chư Phật.
Này A Nan ! Ông nên ghi nhớ lời này, thọ trì lời này, chính là thọ
trì danh hiệu Phật Vô Lượng Thọ. ”.
Đức Phật lại nói : Muốn sanh về Cực Lạc, phải tu ba thứ phước”
Một là hiếu dưỡng cha mẹ, phụng sự sư trưởng, tâm từ bi không giết hại. Hai là
thọ trì tam quy, giữ kỷ các giới không phạm oai nghi. Ba là : phát lòng Bồ đề,
tin lý nhân quả, đọc tụng kinh điển đại thừa, khuyên tấn người tu hành. Ba
phước này là chánh nhân tịnh nghiệp của chư Phật quá khứ, hiện tại và vị lai .
Đây là nói về dùng phước lực để vãng sanh.
# # #
Ngẩu Ích Đại Sư là tổ thứ chín trong Liên tông, Ngài nói : Chỉ nên TÍN NGUYỆN,
niệm câu vạn đức trang nghiêm A Di Đà Phật thì chuyển được ngũ trược ác thế.
- Kiếp trược chuyển thành Thanh Tịnh Hải hội.
- Kiến trược chuyển thành Vô Lượng Quang.
-Phiền não trược chuyển thành Thường Tịch
Quang.
-Chúng sanh trược chuyển thành Liên Hoa Hoá
sanh.
- Mạng trược chuyển thành Vô Lượng Thọ.
Ngài lại nói: Người niệm Phật, buông bỏ cả
thân tâm thế giới là đại bố thí. Không còn khởi tâm tham sân si là đại trì
giới. Không còn so đo phải quấy hơn thua là đại nhẫn nhục. Không gián đoạn xen
tạp là đại tinh tấn. Không để vọng tưởng buông lung là đại thiền định. Không bị
đường lối khác mê hoặc là đại trí huệ.
d c d c
Nghiệp lực đáng sợ ! nếu
không chuyên niệm, tất bị nghiệp chuyển, chúng ta bình tâm suy nghỉ lại coi,
trong đời sống hằng ngày, từ sáng đến tối, tháng này qua tháng nọ, từ đầu năm
đến cuối năm, thậm chí trong giấc ngủ chiêm bao, chúng ta khởi tâm động niệm
những gì ? Từ hành động cho đến lời nói tạo tác những thứ nghiệp nào ? Tạo
thiện nghiệp thì ở nơi ba đường thiện (trời, người, A tu la). Nếu tạo ác nghiệp
thì ở nơi ba đường ác (địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh).
Phàm phu sanh tử chúng ta
trong một đời người, đa số tạo thiện nghiệp thì ít, gây ác nghiệp lại nhiều.
Bởi vì ở ngoài thì ngũ dục, lục trần quyến rũ, bên trong thì tham sân si, dục
vọng nổi dậy. Trong kinh Duy Thức Đức Phật nói cho chúng ta biết, trong tâm
chúng ta có ác tâm sở và thiện tâm sở. Ác tâm sở có 26 loại, còn thiện tâm sở
có 11 loại. Chúng ta tính thử coi, ác tâm sở nhiều hơn thiện tâm sở hơn phân
nữa.
Vì thế ở nơi ngũ trược ác
thế, phiền não và ác duyên dẫy đầy như nhà lửa, nếu chúng ta không chuyên lòng
niệm phật, cầu sanh tịnh độ thì làm sao thoát khỏi luân hồi lục đạo, ra khỏi
tam giới. Mong cho tất cả chúng sanh đồng phát nguyện.
Cúi
lạy Tây phương cõi Cực lạc
Tiếp dẫn chúng sanh
Đại Đạo Sư
Chúng con phát
nguyện, nguyện vãng sanh.
Duy nguyện Từ Bi
thương nhiếp thọ.
d c d c
Cõi Diêm phù đề này vốn
lấy âm thanh làm thể. Do đó, tất cả chúng sanh có thể nương nơi âm thanh viên
mãn mà chứng viên thông. Như vậy, danh hiệu A Di Đà Phật chính là âm thanh tối
thắng, từ nơi nhĩ căn đưa chúng sanh thâm nhập trong Như Lai tạng. Vì thật
tướng của danh hiệu là vô tướng, luôn vắng lặng, chu biến khắp 10 phương, tuỳ
theo tín tâm công năng tu tập mà phát huy diệu dụng ./.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét