NGHIỆP LÀ GÌ ?
Có nhiều cách hiểu về nghiệp như :
Nghiệp: a/ Nghề nghiệp, như nghề nông, nghề buôn bán v. v...
Nghiệp: b/ Tài sản, sản nghiệp, cá
nhân hay tập thể , tổ chức.
Nghiệp: c/ Hậu quả phải gánh chịu,
những hậu quả phải trả cho hành vi tạo tác thiện háy ác từ kiếp trước lưu lại.
Nghiệp căn:
nguyên nhân cội rễ tạo nên nghiệp
Nghiệp báo: sự
nhận quả do nghiệp tạo nên, đồng nghĩa
với việc nghiệp quả, nghiệp báo
Ý nghiệp: ý
thức là yếu tố hàng đầu chủ đạo hành vi tạo nghiệp.
- Trong các pháp tâm làm chủ - Tâm
dẫn đầu tạo đủ mọi duyên
Tâm nhơ tạo nghiệp chẳng hiền- Như xe
lăn bánh khổ liền theo sau.
Nghiệp lực:
sức dẫn dắt của nghiệp, sức mạnh của nghiệp, dẫn thần thức đi thị báo, tái sanh
vv...
Theo thuyết Nhân quả và Luân hồi của Phật giáo, mỗi chúng sanh trong kiếp sống
hiện tại tạo tác các hạnh nghiệp thiện hay ác, được lưu trữ trong tạng thức,
tạo thành chủng tử, tại nên “ nghiệp” của mỗi cá thể chúng sanh. Đến khi thân
hoại mạng chung, phần thân xác tan rã theo đất bụi , phần tâm thức còn lưu lại,
tức tâm lực hay khí phách, được một lực vô hình tức nghiệp lực dẫn dắt để đầu
thai tái sanh vào một kiếp sống khác. Kiếp sống kế tiếp này sẽ diễn ra tốt hay
xấu, khổ đau hay an lạc là do nghiệp thiện hay ác, tức nghiệp báo tạo ra mà mỗi
người phải lãnh thọ.
Nghiệp có ba loại:
a/ Ý nghiệp: ý thức là yếu tố hàng đầu,
chủ đạo hành vi tạo nghiệp.
b/ Thân nghiệp: những hành vi của thân tạo
tác như: cướp bóc, giết người, dâm dục...
c/ Khẩu nghiệp: những nghiệp do lời nói
gây ra, như mắng chửi, thề thốt, nói lời độc ác, nói lời không chân thật, nói
lời hoa mỹ, nói lời phù phiếm v.v
Biệt nghiệp: do một người tự tạo, và chỉ một người đó thọ quả
báo.
Cộng nghiệp: do một người khởi tạo nhiều người cùng tham gia, thì
tất cả những người đó đều thọ quả báo.
Tuy là biệt nghiệp nhưng trong mối
tương quan tương duyên của cuộc sống nó ảnh hưởng đến gia đình, xã hội, đời này
đời sau nữa, trong biệt nghiệp ẩn chứa cộng nghiệp. Như một người uống rượu
say, không riêng bản thân người đó nguy hại mà ảnh hưởng đến cả gia đình và xã
hội nữa.
Tính chất của nghiệp:
Định nghiệp và
bất định nghiệp
Có một loại nghiệp
không thay đổi được gọi là định nghiệp
Có một loại nghiệp có thể thay đổi được gọi là bất định
nghiệp.
Định nghiệp không mang tính chất trung hòa. Kẻ gây nghiệp ác
thì tương lai quả báo ác, nếu họ có làm việc thiện cứu người thì vẫn phải trả
quả báo ác trước cho xong, thiện báo mới đến sau, chứ không hoán đổi được tức trung
hòa.
Các nghiệp nhẹ
không do ý thức tạo ra thì có thể sám hối, sám hối có thể giảm nhẹ.
Nghiệp báo không
phải là sự trả thù của quỷ thần, hay sự trừng phạt của trời phật mà là sự thọ
báo công bằng, sòng phẳng theo luật Nhân Quả.
Nghiệp của mỗi người không phải là
điều tiền định của sinh mạng do một thế lực
siêu nhân nào tạo ra và áp đặt cho ta phải tuân theo và hoàn toàn do
chính ta tự tạo nên do những hành vi tạo nên quả báo thiện ác từ đời nay hay đời trước.
Cuộc sống hiện tại dù sướng hay khổ, dù an lạc hay khổ đau.
Tất cả cũng đều chi phối bởi vô thường, vô ngã. Điều quan trọng là chúng ta nên
bình tâm thọ nhận nghiệp quả và để tâm chuyển hóa vào việc tu học kiên trì
không thối chuyển. Thực hiện Tứ vô lượng tâm Từ-Bi-Hỷ-Xả để tạo nghiệp thiện
cho kiếp tái sanh tương lai được cao hơn nữa là đạt “ giác ngộ giải thoát” .
Hiểu được nghiệp báo, nghiệp lực, nghiệp nhân, nghiệp quả,
giúp chúng ta sống tích cực hơn trên việc cải ác tu thiện, hướng tâm từ bi hỷ
xả. Dù hoàn cảnh có éo le không như ý xãy ra đến với ta trong cuộc sống hiện
tại giúp hành giả không bi quan, không khổ lụy sầu muộn, không van xin cầu cứu
một tha lực thần linh huyền bí nào, không than thân trách phận, không muốn chạy
trốn cuộc đời, không từ chối thân mạng.
Khi được hưởng quả hạnh phúc an lạc hay sung túc, người ta
cũng không vì thế mà si mê đắm chìm bám giữ, mà họ ra sức hành thiện tích công
bồi đức cho kiếp lai sanh.
Kinh văn có câu” Bồ Tát sợ nhân chúng sanh sợ quả”. Bồ Tát
ngăn chặn phòng ngừa việc ác từ đầu chưa phát sanh. Còn chúng sanh quả khổ trổ
ra rồi mới biết ăn năn hối cải
“Dục tri tiền thế nhân. Kim sanh thọ giả thị, yếu tri hậu thế
quả, kim sanh tác giả thị”
Muốn biết cái nhân kiếp trước ta đã tạo ra như thế nào, thì
trông ngay vào sự quả thọ hiện tại. Còn muốn biết quả nhận lãnh kiếp sau thì
trông ngay vào hành vi tạo nhân của ta hiện tại.
Nếu mọi người nhận thức được: nghiệp báo, nghiệp nhân, luân
hồi, nhân quả thì họ sẽ cải thiện được cuộc sống hiện tại và tương lai. Cao hơn
nữa giác ngộ và giải thoát, luân hồi sanh tử. Làm được nhiều điều lợi ích cho
nhiều người ở mọi nơi mọi lúc, biến cuộc sống khổ đau trần gian thành nhân gian
Tịnh độ.
Hai tư tưởng cực đoan :
Phần đông người đời có hai quan niệm về việc con người sau
khi chết :
Hạng thứ I : Tin rằng sau khi con người chết rồi thì cái linh hồn tồn tại mãi mãi. Người
chết sinh lại làm người, thú vật chết sinh lại làm thú vật. Lối kiến chấp này
dẫn đến tác hại họ không cần tu thân sửa tánh, không sợ tội ác, không làm việc
lành, không tin nhân quả tội báo. Lối chấp này gọi là “ Thường kiến ngoại đạo
”.
Hạng thứ II : Quan niệm rằng chết là hết, là mất hẳn, tắt thở
tim ngừng đập là không còn gì tồn tại nữa: “ Thổ lai hoàn thổ ” thế là xong. Họ
thường chạy theo dục vọng thô bạo của bản thân, mặc nhiên làm điều tội lỗi,
không tin nhân quả, đạo đức gì cả. Lại có kẻ khi chán nản cuộc đời họ nảy sinh
ra tâm lý tự tử để trốn tránh đau khổ, trốn sự thất bại, trốn nợ đời v.v lối
chấp này, rất nguy hiểm về đạo lý, trong kinh gọi là lối chấp “ Đoạn kiến ngoại
đạo ”.
˜—]–™
0 nhận xét:
Đăng nhận xét