Pháp
môn tịnh độ là nhất thừa liễu nghĩa, vạn thiện đồng quy, thích ứng với khắp ba
căn, thâu trọn phàm thánh, thoát khỏi ba cõi theo chiều ngang ( hoành siêu tam
giới) nhanh chóng bước lên 4 cõi tịnh độ, cực viên, cực đốn, là pháp môn vi
diệu chẳng thể nghỉ bàn.
Pháp môn tịnh độ rất khó tin
mà dễ hành. Trong những kế sách bình trị từ cội gốc không chi hay hơn nổi kinh
nầy. Trong những yếu quyết cứu đời cũng không chi vượt nổi kinh nầy (Kinh Vô
Lượng Thọ ).
Điểm mầu nhiệm của Tịnh độ
tông là “ chẳng lìa Phật pháp mà hành thế pháp, chẳng bỏ thế pháp mà chứng Phật
pháp ”.
Thánh giáo như chiên đàn, miếng
nào cũng thơm, pháp nào cũng viên đốn, vốn chẳng cao hạ, chỉ vì chúng sanh cấu
nặng chướng sâu, tâm thô trí thiển, đói gặp cổ vua mà chẳng dám ăn. Chỉ một
pháp trì danh trong kinh này mới là đạo dễ hành, ai cũng tu được.
“ Tịnh niệm tương tục ” tự được tâm khai,
chính là tâm phàm phu khai tri kiến Phật. Phật dạy: nếu có chúng sanh niệm A Di
Đà Phật nguyện vãng sanh, Đức Phật kia liền sai 25 vị Bồ Tát ủng hộ hành giả,
dù đi hay ngồi, dù đứng hay nằm, dù ngày hay đêm trong hết thảy thời, hết thảy
chổ chẳng cho ác quỷ ác thần có cơ hội làm hại.
Nguyện thứ 18 : “ Nếu ai nghe danh hiệu ta chí tâm tin ưa, bao
nhiêu thiện căn, tâm tâm hồi hướng nguyện sanh cõi ta, nhẫn đến 10 niệm, nếu
chẳng sanh về, ta không thủ ngôi chánh giác. Chỉ trừ kẻ ngũ nghịch, phỉ báng
chánh pháp. ”
Nguyện thứ 19: “ Nếu có ai
nghe danh hiệu ta, phát Bồ đề tâm, tu các công đức, phụng hành sáu Ba la mật
kiến cố chẳng thối. Lại đem thiện căn hồi hướng nguyện sanh cõi Ta, nhất tâm
niệm ta ngày đêm chẳng dứt. Lúc lâm chung Ta cùng các Bồ Tát hiện đến đón trước
mặt, trong khoảnh khắc liền sanh cõi Ta, làm Bồ Tát bất thối.”
Nguyện thứ 18 nhấn mạnh “ chí tâm tin ưa, nhất
hướng chuyên niệm”. Nguyện thứ 19 chú trọng phát Bồ đề tâm, một lòng niệm Phật.
Như vậy phát Bồ đề tâm và nhất hướng chuyên niệm là tông yếu của tịnh độ tông
là chánh nhân để vãng sanh, là thuyền từ phương tiện độ sanh.
Ở cõi Ta bà, cõi phàm thánh đồng cư của thế gian
kém thua Cực Lạc 4 điểm:
1/- Tạm đồng : Ba quả vị tiểu thừa chứng A La
Hán xong liền nhập diệt. Cơ độ sanh của Đại quyền Bồ Tát đã hết thì liền chẳng
thị hiện nữa. Chỉ là tạm thời đồng cư chẳng phải rốt ráo. Còn đồng cư ở tịnh độ
cùng ở chung một chổ cho đến khi thành Phật.
2/- Khó gặp : Thánh giả hiện
sống trong cõi này những chẳng dễ gặp, thân cận. Còn ở Cực Lạc đều như thầy,
bạn sáng chiều cùng ở.
3/- Hiếm hoi : Thánh giả như của quý, như điềm lành, hy hữu
khó gặp. Còn ở Cực lạc thì rất nhiều không thể dùng con số mà tính đếm được.
4/- Việc làm chẳng đồng :
Trong cõi này, thánh giả đều ở cảnh thánh, còn chúng sanh luân hồi sáu nẽo,
thăng trầm vô định. Phàm thánh tuy cùng ở cõi này mà việc làm và thành tựu khác
nhau. Ở Cực Lạc cùng hết vô minh, cùng lên Diệu giác nên biết là đồng cư tịnh
độ vượt xa đồng cư cõi này vô lượng vô biên.
d Y c
Cực Lạc hơn hẳn 10 phương,
trước hết là do phàm phu đới nghiệp. Sanh cõi kia rồi liền đắc quả vị bất thối.
Bất thối có ba nghĩa:
-Vị bất thối : Là nhập vào
dòng thánh chẳng đoạ địa vị phàm phu.
- Hạnh bất thối :Trừ kiến tư
hoặc, dẹp sạch trần sa, luôn độ chúng sanh, chẳng đoạ tiểu thừa.
- Niệm bất thối : Phá vô
minh, hiển Phật tánh, niệm niệm lưu nhập Như Lai quả hải.
Cõi nước Cực lạc chỉ có một
Phật thừa nên chẳng đoạ tiểu thừa, đó là hạnh bất thối.
Hiểu như vậy mới có thể tin
sâu nguyện lực của Phật A Di Đà. Tin Phật lực rồi mới có thể tin công đức của
danh hiệu. Tin trì danh rồi mới có thể tin sâu tâm tánh của chúng ta vốn là
chẳng thể nghỉ bàn.
Nhân duyên bất thối nơi cõi Cực Lạc gồm 5 điều :
1- Được Di Đà đại từ nguyện lực nhiếp
trì nên chẳng thối.
2- Phật quang thường chiếu, Bồ đề tâm
tăng tấn nên không thối .
3- Nước, chim, cây cỏ đều diển diệu
pháp, tăng thêm chánh niệm nên chẳng thối.
4- Thuần các Bồ Tát làm bạn thù thắng, ngoài
không tà ma, trong không phiền não, nên chẳng thối.
5- Thọ mạng vĩnh kiếp ngang cùng với
Phật nên chẳng thối .
Ôi thánh đức khó lường, ơn Phật
khó báo, Di Đà bi tâm cùng cực, thánh trí khó tày, từ đấy hiện ra cõi Đồng cư
tịnh độ dễ sanh về cho phàm phu. Hành nhân chẳng cần đoạn hoặc tiêu nghiệp, chỉ
cốt tín nguyện trì danh chỉ ít 10 niệm đều được vãng sanh, vượt ngang tam giới,
mãi lìa các khổ, chứng địa vị bất thối, nhất sanh bổ xứ, một đời thành Phật,
siêu tình ly kiến chẳng thể nghỉ bàn. Mười phương thế giới thật không đâu bằng
được như vậy, nên Cực lạc được ngàn kinh muôn luận cùng khen ngợi.
d Y c
Kinh Quán Tam Phật muội viết
: Phật bảo phụ vương : Chư Phật xuất thế
có ba điều lợi ích.
a/ Một là miệng nói 12 bộ kinh
là pháp thí lợi ích, trừ được vô minh ám cấu của chúng sanh, mở mắt trí tuệ,
sanh trước chư Phật, chóng đắc Vô thượng Bồ đề.
b/ Hai là chư Phật Như Lai có
thân tướng quang minh tốt đẹp vô lượng. Nếu có chúng sanh xưng niệm, quán sát
dù là tổng tướng hay biệt tướng, chẳng luận là thân của Phật hiện tại hay quá
khứ đều trừ diệt được tứ trọng, ngũ nghịch của chúng sanh, vĩnh viển thoát khỏi
tam đồ, tuỳ lòng ưa thích thường sanh tịnh độ cho đến khi thành Phật.
c/ Ba là khuyên phụ vương hành
niệm Phật Tam muội. Phụ vương bạch Phật : Vì sao chẳng dạy đệ tử thực hành quả
đức của Phật địa, Thật tướng Chơn Như, Đệ Nhất Nghĩa Không ?
Phật bảo phụ vương : Quả đức
của chư Phật có vô lượng cảnh giới thâm diệu, thần thông giải thoát, chẳng phải
là cảnh giới phàm phu thực hành nổi. Vì vậy, ta khuyên phụ vương hành niệm Phật
Tam muội .
Phật lại bảo phụ vương : Tâm
niệm Phật của hết thảy chúng sanh trong sanh tử cũng giống như vậy, chỉ cột hệ
niệm chẳng ngơi, quyết định sanh ở trước Phật. Một khi được vãng sanh liền có
thể cải biến hết thảy các điều ác thành đại từ bi.
Theo lời đấng Thích Tôn đại từ
chí hiếu khuyên phụ vương trên đây, Phật chỉ khuyên niệm Phật, đủ thấy các hạnh
môn khác không phải là không thù thắng, nhưng bọn phàm phu chẳng thể tu nổi,
chỉ có pháp môn niệm Phật thích ứng căn cơ nhất. Chỉ nên tuân lời dạy niệm Phật
thì quyết định vãng sanh. Một phen vãng sanh rồi liền chuyển đổi ác nghiệp
thành thiện. Diệu dụng của phương tiện niệm Phật đã được hiển thị không còn
sót.
d Y c
Các môn tu khác gọi là vượt tam giới theo chiều dọc như trùng sanh trong
ống tre : Đục dọc thân tre khó thoát ra, nên là đạo khó hành. Còn pháp niệm
Phật như trùng đục ngang ống tre thời dễ thoát ra, là vượt tam giới theo chiều
ngang, gọi là đạo dễ hành, pháp này ví như đường tắt, vì phương tiện thẳng
chóng, thành công nhanh chóng.
Trong bốn pháp niệm Phật, trì
danh niệm Phật là dễ hành nhất. Quán tượng niệm Phật, chú mục ngắm nhìn tượng
Phật, hiềm rằng có tượng mới quán, rời khỏi tượng thời không quán. Tịnh nhân dễ
mất, giữ cho liên tục càng khó. Vì vậy cổ đức bảo : “ tượng đi rồi lại không,
cho nên trở thành gián đoạn ”.
Còn pháp quán tưởng niệm phật,
là dùng con mắt trong tâm ta, tưởng Đức Như Lai
kia . Khổ nổi tâm phàm phu tạp loạn, phù động, hiếm có lúc định, khó
nhập pháp quán vi diệu. Vì vậy, mới nói: “ Cảnh tế tâm thô, diệu quán khó thành
”.
Còn
pháp Thật tướng niệm Phật, là xa lìa các tướng sanh diệt, có không, năng sở,
ngôn thuyết, danh tự, tâm duyên.... chuyện niệm tự tánh vốn sẳn đức Phật thiên
chơn. Khốn nổi, chúng sanh chưa thoát luân hồi tâm sanh diệt niệm niệm tiếp nối
như kinh Viên Giác dạy : “ Chưa thoát luân hồi mà bàn đến Viên Giác thì tánh
Viên giác ấy cũng bị xoay chuyển. Đã như vậy mà mong thoát được luân hồi thì
quyết chẳng thể được”.
Ví như loài trùng rất nhỏ
chỏ nào cũng bu được, nhưng chẳng thể đậu trên lửa. Ví như tâm chúng sanh,
duyên chổ nào cũng được chỉ chẳng duyên nổi Bát Nhã. Bởi thế, ông Phật của thật
tướng, tánh Viên giác tuy chúng sanh sẳn đủ, nhưng bởi vọng niệm sanh diệt nên
chẳng quán nổi. Vì vậy trong kinh Quán Phật Tam muội, Phật bảo phụ vương, Bốn
đức của chư Phật, chơn như thật tướng v.v.. chẳng phải là cảnh giới phàm phu
hành nổi nên Phật khuyên phụ vương niệm Phật.
Do những điều trên, thấy
được rằng trong các pháp môn niệm Phật được xem là đường tắt, trong bốn pháp
niệm Phật. Trì danh niệm Phật là phương tiện rốt ráo nhất nên được gọi là đường
tắt trong các đường tắt.
“ Nương theo kinh nầy
phát Bồ đề tâm, nhất hướng chuyên niệm mới được nhất tâm bất loạn. Chẳng thể
chuyên niệm thì khó nhất tâm ”
Tổng hợp các ý trên, thấy
rằng kinh nầy lấy phát Bồ đề tâm, nhất hướng chuyên niệm làm tông, hiển lộ trọn
vẹn bổn tâm của bậc đạo sư hai cõi và thập phương Như Lai. Nguyện thù thắng vô
tận của Đức DiĐà, phương tiện đại từ tột bực, lực dụng của quả đức khó lường
thâu trọn phàm thánh, độ khắp lợi độn. Dưới đến thập ác ngũ nghịch, ngạ quỷ súc
sanh, chỉ cần phát tâm chuyện niệm ắt được độ thoát. Rộng độ hết thảy hàm linh,
khắp ban cái lợi chơn thật.
Đại ân đại đức, đại
nguyện, đại lực, đại dụng độ sanh vi diệu khó suy nghỉ nổi. Có như thế mới xứng
bổn hoài của Như Lai, mới là phương tiện rốt ráo.
d Y c
Căn khí của chúng sanh có hai loại : Một là thị khí, hai là phi
khí. Thị khí là căn khí thích hợp, phi
khí là căn khí không thích hợp. Có ba loại phi khí : 1/ Kẻ không có lòng tin.
2/ Kẻ không nguyện. 3/ Kẻ không hạnh.
TIN: là tin rằng chúng sanh và Phật chẳng hai, tâm này là Phật, tâm này làm
Phật, chúng sanh niệm Phật nhất định vãng sanh rốt ráo thành Phật.
NGUYỆN: là chán nhàm Ta bà, ưa thích hâm mộ Cực Lạc, như con nhớ mẹ, quyết sẽ
vãng sanh.
HẠNH: là từ nguyện khởi hạnh nhất hướng chuyên niệm chẳng gián đoạn.
Ba điều trên gọi là tư
lương. Tư lương nếu khuyết khó bề tiến tới. Ba thứ Tín Hạnh Nguyện, thiếu một
thứ chẳng được, như đỉnh ba chân, thiếu một đỉnh phải đổ.
d Y c
0 nhận xét:
Đăng nhận xét