HÀNH THẬP THIỆN LÀ BƯỚC ĐẦU CHO HẠNH BỒ TÁT
Người tin và hiểu Phật
pháp là người lấy sự hành trì thập thiện làm điểm khởi đầu cho việc thực hành
hạnh Bồ tát. Không ít người không hiểu rõ ý nghĩa và công hạnh của Bồ tát, từ
đó lý giải mang tính ý kiến cá nhân và tùy tiện.
Bồ tát là tiếng dịch
âm, tiếng Phạn là Boddhi –sattva. “ Bồ
đề ” có nghĩa lầ giác ngộ; Tát đỏa (
sattva ) có nghãi là chúng sanh. Do đó ý
nghĩa của Bồ tát là chúng sanh cầu được giác ngộ.
Quá trình tu tập của Bồ tát có nhiều giai đoạn và trình độ
khác nhau. Có nhiều người khi đề cập đến Bồ tát liền nghĩ đến Bồ Tát Văn Thù, Phổ
Hiền, Quan Âm, Địa Tạng v.v kỳ thật, ý nghĩa của Bồ tát không giới hạn chỉ các
vị Đại Bồ tát này, mà bất cứ ai muốn phát tâm
muốn thành Phật đề gọi là Bồ tát.
Sự khác nhau giữa Phật và Bồ tát là Phật là người đã giác ngộ
hoàn toàn, đạt đến cảnh giới giải thoát giác ngộ cao nhất, như người học trò đã
tốt nghiệp; Còn Bồ Tát là người đang trên con đường đi đến giải thoát. Như học
sinh chưa tốt nghiệp, đang trong khóa trình học tập. Con đường học tập này có
nhiều cấp khác nhau, từ lớp vỡ lòng cho đến tiểu học, trung học, đại học, cao
học và tiến sĩ, đều gọi là học sinh, sự khác nhau của học sinh chỉ là sự khác
nhau về cấp học.
Khái niệm về Bồ tát cũng được hiểu như vậy, có người vừa mới
phát tâm, cùng với người phàm phu giống nhau, chỉ khác nhau ở chổ người nầy lập
chí nguyện thành Phật mà thôi. Sự tích lũy của sự giác ngộ và công đức dần dần
sẽ như Ngài Văn Thù, Quan Âm, Địa Tạng…. không nên có ý nghĩ rằng Bồ tát quá
cao thâm mà từ bỏ hạnh Bồ tát. Từ công việc học tập từ xã hội, chúng ta cũng có
thể hiểu được công việc tu tập Bồ tát hạnh. Sự thành tựu của tất cả các vị Đại
Bồ tát đều phát xuất từ lòng phát tâm, thực hành thập thiện, những vị Bồ tát
mới vừa phát tâm này cùng với người phàm phu giống nhau, tâm của các ngài cùng
với tâm của chúng ta cũng gần giống nhau, rất thiết thật và gần gũi.
1-Lòng đại bi là tâm của Bồ tát. Tâm
của Bồ tát bao gồm tín nguyện và trí tuệ, quan trọng nhất là tâm từ bi. Lòng từ
bi là nền tảng để độ chúng sanh. Như vừa thảo luận ở trên, nếu như người tu tập
hạnh Bồ tát mà không có lòng từ bi thì không gọi là Bồ tát, và người ấy rơi vào
pháp Tiểu thừa,vì điểm trọng tâm của Bồ tát là lòng từ bi cứu độ chúng sanh,
xem sự đau khổ của chúng sanh như là sự đau khổ của chính mình, từ đó khởi tâm
cứu độ chúng sanh.
Người thực hành
hạnh Bồ tát, tâm niệm luôn luôn lúc nào cũng rộng mở, sẳn sàng cứu độ chúng
sanh, khi tâm từ đã khởi không thể thối chuyển, ngược lại tâm lúc nào cũng dũng
mãnh tinh tấn hành Bồ tát đạo. Phương pháp tu tập lòng đại bi có rất nhiều,
trong Phật pháp có phương pháp gọi là “ tự tha tương dị ”, có nghĩa là xem việc làm của người giống
như là việc của mình, và ngược lại cũng thế. Ví như sự thành tựu của mình xem
là sự thành tựu của chúng sanh, và xem sự khổ đau của chúng sanh như là sự khổ
đau của chính mình. Nếu làm được như thế thì lòng từ bi của mình càng ngày càng
phát triển.
Ở đây ta tự thử hỏi
rằng, mình thương ai nhất ? Thương cha mẹ, vợ chồng, con cháu, quốc gia, dân
tộc nhiều hơn hay thương chính mình nhiều hơn ? Theo ta nghĩ mình sẽ thương
mình nhiều hơn. Tình thương của mình đối với cha mẹ, vợ chồng, con cháu…chỉ khi
nào tình thương đó không làm tổn hại lợi ích của mình, nếu như làm tổn hại thì
tình thương đó chắc chắn bị tan vỡ, đây là loài tình thương thông thường của
thế nhân.
Là người học Phật
chúng ta không nên phát triển tình thương đó, đem cái “ ái chính mình ” biến thành
cái “ ái mọi người ”, tức là
không những chỉ có thương chính mình mà còn thương đến tha nhân, đây chính là
tình thương của nhà Phật. Nếu chúng ta xem cái nổi khổ đau của người khác như
là nổi khổ đau của chính mình thì tâm từ bi tự nhiên xuất hiện, bằng mọi hình
thức tâm ấy sẽ cứu giúp chúng sanh. Lòng từ bi sanh khởi, lập đại nguyện độ
sanh là công hạnh của Bồ tát. Do vậy, Bồ tát không nhất thiết phải có thần
thông, thân tướng trang nghiêm, với thân bình thường của người phàm phu chúng
ta cũng có thể thật hành hạnh nguyện của Bồ tát.
2- Lấy thập thiện làm hạnh Bồ tát: Sự khác
biệt giữa Bồ tát và phàm phu là tâm Bồ đề và hạnh Bồ tát. Lấy tâm Bồ đề thực
hiện 10 điều lành, là việc làm của Bồ tát mới vừa phát tâm, hay gọi là “ Thập
Thiện Bồ tát ”. Hành 10 điều lành là
phương cách tốt nhất để đoạn trừ 10 điều ác. Không giết hại chúng sanh, không
lấy trộm của người khác, không tà hạnh, không nói dối, không nói hai lưỡi,
không nói những lời làm mất sự hòa hợp, không nói lời ác độc, không tham lam,
không sân hận vầ không si mê, đó là 10 hạnh lành dành cho Bồ tát mới vừa phát
tâm Bồ đề thực hành.
10 hanh lành
này nó không những chỉ là hạnh của Bồ tát mà còn là con đường để đi đến thành
Phật. Bất cứ ai cũng có thể tu tập 10 hạnh lành này, khi đã tu tập thì chắc
chắn người ấy sẽ được thành Phật. Đó là lý do tại sao đức Phật dạy, làm người
phải hoàn thiện nhân cách, tức là hành trì 5 giới và 10 điiều lành này. Có thể
nói 10 điều lành là hạnh chân chánh của nhân loại. Nếu như có đạo đức cao dày,
làm trọn 10 hạnh lành này mà thiếu lòng từ tâm, đây cũng chỉ là bậc thánh trong
nhân gian, người quân tử ở trong xã hội, chưa phải là mẫu người trọn vẹn trong
Phật giáo, vì mục đích tu tập 10 hạnh lành là để giác ngộ và giải thoát và khởi
lòng đại bi, lấy lòng đại bi cứu giúp con người và xã hội. Đây chính là ý nghĩa
từ con người mà thành Phật.
Chúng ta lấy Phật pháp làm lý tưởng để phát tâm Bồ đề, tu tập
10 hạnh lành là lộ trình cơ bản để thành Phật. Là những người tu tập trong Phật
pháp, ngoài những phương pháp chúng ta tu tập hằng ngày như sám hối, phát
nguyện, lạy Phật, niệm Phật, còn phải có tâm hộ trì Phật pháp, xem Phật pháp
như mạng sống của chính mình. Nếu như Phật pháp bị tổn hại có ảnh hưởng không
tốt đến đời sống cá nhân và xã hội, vì
nó là ngọn đuốc cho con người và xã hội, nếu như Phật pháp bị tiêu diệt cũng
như chúng ta đi trong ban đêm mà không có ánh sáng./.
---------—]–---------
0 nhận xét:
Đăng nhận xét