Không
buông bỏ được thì tự mình không có trí tuệ, không buông bỏ được thì đối với
người sẽ không có từ bi. Nếu như không vì một mục đích nào, luôn luôn đem lòng
giúp đỡ và cảm thông để đối đãi với người, đó chính là học tập từ bi và trí tuệ
của Đức Phật. Người niệm Phật đến lúc từ bi và trí tuệ viên mãn cũng chính là
Phật.
a/ Thời thời chổ chổ đều niệm phật: Trong lúc ở tại gia đình mình, hoặc
lúc đến tham gia vào các khoá đạo tràng niệm Phật, hành giả cần phải tâm niệm
lúc nào cũng niệm Phật, bất cứ thời nào nơi đâu, tâm khẩu chỉ có một tiếng niệm
phật. Lên chánh điện, khi đi khi đứng khi ngồi đều nên đem tâm đặt nơi danh
hiệu Phật, tuỳ theo lúc có người không người mà ta niệm ra tiếng hoặc niệm
thầm. Dù đang làm việc, uống nước ăn cơm, tắm rửa v.v. cũng đều đề khởi câu
niệm Phật.
b/ Niệm Phật là pháp dễ tu mà cũng là
pháp khó tu : Niệm Phật là phương pháp dễ hành, mà cũng là
phương pháp khó hành. Nói dễ là chỉ cần niệm hồng danh sáu chữ Nam mô A Di Đà
Phật thì có thể tu hành được, còn nói khó là chỉ cho phải niệm đến tâm không
tạp niệm, và liên tục không gián đoạn thì là việc không phải dễ. Ngày đêm 24
giờ không rời Phật hiệu, đó chính là hoàn thành niệm Phật tam muội điều rất
khó, nhưng khó không phải không làm được.
c/ Chỉ niệm Phật không nên nói chuyện :
Trong thời gian tham dự vào đạo tràng niệm Phật ( 1 ngày hoặc 1 tuần )
chúng ta hãy làm cho được việc thấy mà không thấy, nghe mà không nghe, tuyệt
đối không nói chuyện.
Nguyên nhân của việc hạn chế hoặc cấm
nói chuyện có 2 ý: a/ Nói ở trong tâm không nên hướng ra ngoài mà nói, dưỡng
thành tập quán không nói ra miệng, cho nên có câu: Bệnh từ miệng mà vào, hoạ từ
miệng mà ra. Cấm nói chuyện là dạy chúng ta không chỉ cẩn trọng lời nói, mà còn
tiêu trừ được phiền não bên trong, không gây ảnh hưởng đến người khác, cũng
không gây khổ não cho chính mình. b/ Chúng ta đã phát nguyện đến đây để tham dự
vào khoá tu niệm phật để tu hành, thì phải tâm tâm niệm niệm là phải nhớ sự
phát nguyện đó, ngoài ra không mong cầu việc gì khác, bình thời chúng ta đã nói
chuyện quá nhiều rồi, trong tâm cũng đã loạn tưởng quá nhiều, không dễ gì có cơ
hội để chuyên tâm niệm Phật được, cho nên đến với đạo tràng niệm Phật là điều
may mắn, ai ai cũng niệm Phật, trên thầy dưới bạn, giúp ta chánh niệm tu học
trong một thời, thật là một nhân duyên khó được, nên phải cố gắng tranh thủ
niệm Phật nhiều, không nên để phí thời gian nói chuyện.
Dù thời gian nào cũng đều nên
niệm Phật, hoặc ra tiếng hoặc mặc niệm, trong tâm chỉ có một câu niệm Phật mà
thôi. Nghe người khác nói chuyện, hoặc những tạp âm khác, trong tâm phải vừa
niệm Phật vừa quán tưởng đó là y chánh trang nghiêm của thế giới Cực lạc, tất
cả âm thanh nghe được đều là niệm Phật, niệm pháp, niệm tăng.
Nếu bạn nói không cẩn thận,
hoặc giả trong tâm cũng quên cả niệm Phật, thì phải khởi tâm hổ thẹn, nói với
chính mình : Ta đến đây để niệm Phật tu hành, không phải đến để nghe người ta
nói chuyện, tự mình nói tạp nghỉ tưởng lung tung. Khởi tâm hổ thẹn lập đi lập
lại như vậy, cải sửa chính mình dần dần tự nhiên có thể chuyên tâm niệm Phật.
d/ -Dùng tâm hổ thẹn
mà niệm Phật : Thời thời khắc khắc dùng khẩu niệm Phật, dùng tâm niệm. Dùng
tâm của mình chiếu cố đến âm thanh niệm Phật của mình với tâm niệm Phật. Chiếu
cố là quán chiếu chính ta có đang niệm Phật không. Khi phát hiện mình đang xa
rời danh hiệu Phật liền khởi tâm hổ thẹn, rồi chú tâm niệm Phật trở lại. Tâm hổ
thẹn không phải là chúng ta quá hối hận buồn rầu, mà chính là sau khi biết liền
sửa đổi cho tốt. Đương nhiên khởi tâm hổ thẹn để rồi sau đó sám hối. Nếu biết mà
không thể cải tiến được thì phải dùng tâm sám hối mà lễ Phật.
đ/ Niệm Phật hồi
hướng như thế nào? Có người niệm Phật hy vọng mình
được tiêu tai gải nạn, được thoả mãn tâm nguyện, có người niệm Phật nguyện đem
công đức hồi hướng cho sự nghiệp của mình hoặc của người nhà được thành tựu,
nghiệp chướng tiêu trừ, gia quyến được bình an, thân thể được khang kiện. Hồi
hướng hiện đời được lợi ích cũng là việc chính đáng. Nhưng đối với Phật pháp
mục tiêu chính là thoát sanh liễu tử là việc quan trọng hơn, việc an thân an
tâm là việc phụ, nếu chúng ta đem tất cả sự tu học đều hồi hướng cho một việc
chính thì việc phụ trong đó đã có rồi. Vì việc chính được thành nên do những
việc phụ mà ra. Vã lại mỗi lần niệm Phật chúng ta đều có đọc kệ hồi hướng rồi,
mỗi tối đều có hồi hướng, cho nên không cần phải nhất thiết hồi hướng nhiều
lần, mà phải chí tâm niệm Phật không ngừng, không thể cứ hồi hướng mãi làm mất
thời gian niệm Phật, nhiễu loạn công phu chuyên tâm niệm Phật.
g/- Niệm Phật đạt
được sự thanh lương: Người có phiền
não càng ít thì cảm giác thế giới mát mẻ trong lành, người có phiền não càng
nhiều thì nhìn thế giới như ngọn lửa lớn đang thiêu đốt. Cho dù khí hậu nóng
bức, nhưng nếu có thể niệm Phật đến mức tâm không lo nghỉ thì sẽ cảm được thế
giới này là vô ưu vô lự, tự do tự tại. Cũng có thể hội được khoảng cách Tịnh độ
cõi Phật ngày càng đến gần.
Bởi vì tin Phật càng khẩn
thiết, xưng niệm Phật hiệu càng thâm trầm, phiền não sẽ càng ít đi, chỉ cần
nguyện sanh Tịnh độ phương Tây, lúc sắp mạng chung Đức Phật A Di Đà nhất định
sẽ đến tiếp dẫn, phẩm vị hoa sen hoá sanh cũng càng cao càng lớn, đó tức là thế
giới thanh lương.
h/- Chuyên tu trì
danh niệm Phật: Pháp môn niệm Phật vốn có bốn loại: Quán tượng niệm
phật, Quán tưởng niệm Phật, Thật tướng niệm Phật và trì danh niệm Phật. Đại Sư
Trí Giả tông Thiên Thai chủ trương từ thiền quán mà vào thật tướng. Đến Đại Sư
Liên Trì cuối đời Minh chủ trương thể cứu niệm Phật, khuyên tu niệm Phật Tam
muội. Đời Thanh vẫn có nhiều vị Đại sư tu Ban chu tam muội thiền tịnh song tu.
Tuy nhiên đến Ngài Ấn Quang năm đầu Dân quốc, đặc biệc chú trọng chấp trì danh
hiệu trong kinh A Di Đà, cho rằng thật tướng niệm Phật rất khó thực hành, người
hạ căn ngày nay chẳng thể theo kịp. Vì thế Đại sư chủ trương trì danh niệm
Phật, hạ thủ dễ mà thành công cao, ấy là toàn sự tức lý, toàn vọng tức chân, có
thể khiến cho người niệm Phật hiện đời dự nhập dòng thánh, lâm chung theo Phật
vãng sanh, khai tri kiến Phật, đồng Phật thọ dụng. Ngài đã dùng phong khí khéo
léo quét sạch thiền tịnh lẫn lộn, đem lý làm sự. Ngài cho rằng thời mạt pháp
hiện nay, muốn ra khỏi đời ác năm trược, ngoài việc chuyên tu trì danh niệm
Phật tịnh độ phương Tây, không có pháp môn nào khác có thể nương dựa. Đó cũng
chính là lý do khoảng 10 năm gần đây phong khí niệm Phật càng tăng, càng phổ
biến.
J/- Chân thật trì danh niệm Phật: Khuyên mọi người nên chí thành tu hành pháp
môn niệm Phật trì danh, pháp môn này có thể giúp chúng ta lúc sắp mạng chung
quyết định vãng sanh cõi Phật. Trong hiện đời cũng có thể nâng cao nhân phẩm,
tiêu trừ nghiệp chướng tự lợi lợi tha. Nếu có thể niệm Phật khẩn thiết, công
phu miên mật, cũng có khi xuất hiện cảnh giới hoát nhiên tâm khai. Bởi vì bản
thân trì danh niệm Phật tức là một trong những phương pháp tu hành thiền quán.
Cho nên trong “ Nhập Đạo An Tâm Yếu Phương tiện Môn ”. của Ngài Đạo Tín tổ thứ
tư thiền tông, đặc biệc dẫn dụng pháp tu Nhất hạnh tam muội nêu trong kinh Văn
Thù Thuyết Bát Nhã là : “ Cột tâm vào một vị Phật, chuyên xưng danh hiệu Ngài ”
và như kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật nói : “ Tâm này làm Phật, Tâm này là Phật ”,
cũng được Đại Sư Đạo Tín dẫn dụng. Đủ chứng tỏ rằng hai môn thiền tịnh vốn là
một nhà, phương pháp có thể hổ thông, chỉ là không được dùng tâm gian dối để
trục lợi mà thôi.
Trì danh niệm Phật, nghiệp tiêu chướng
nhẹ, trong tâm tự nhiên an tỉnh, nhìn thế giới cũng sẽ tự nhiên thanh tịnh,
nhìn mọi người dù nhân duyên thuận nghịch cũng có thể xem là chư thượng thiện
nhơn trợ giúp thành đạo lớn Bồ đề. Dù họ dùng thái độ nào đối đãi với chúng ta
cũng đều có thể làm tăng trưởng tư lương tịnh độ của chúng ta.
Nếu có thể dùng tâm trạng
chân thật niệm Phật như lời Đại Sư Liên Trì đã dạy mà trì danh niệm Phật, tuy
không cầu lợi và an lạc cho mình, trên thực tế sẽ khiến cho bạn thuận lợi mọi
bề, được người đắc đạo trợ giúp, dù cho có gặp nghịch cảnh cũng có thể biến xấu
thành tốt. Đó chính là hiện đời niệm Phật đạt được an toàn bảo đảm, vị lai nhất
định vãng sanh Tịnh độ.
Dùng tâm thanh tịnh, chân
thật niệm Phật, đem tâm chấp trước và tâm tự tư mà mình có, dần dần buông bỏ để
chuyên tâm nhất ý niệm Phật, cảm thọ và quan niệm tự nhiên sẽ được cải biến,
chuyển nhà lửa tam giới thành thế giới thanh lương, biến vô minh phiền não
thành biển trí tuệ, hoá tham dục sân nhuế thành tấm lòng từ bi. Lúc ấy thấy
chúng sanh hiện hữu ở thế giới này đều là Bồ Tát, hiện đời đã thể hội được y
chánh trang nghiêm của thế giới Cực lạc
phương Tây. Cho nên công đức niệm Phật thực tại rất tốt đẹp, rất to lớn, mong
mọi người nên chân thật niệm phật.
Phật A Di Đà có
14 danh hiệu : Chúng ta niệm
Phật A Di Đà mỗi ngày, mà ý nghĩa danh hiệu của Ngài có thể vẫn có nhiều người
chưa biết đến. Y cứ vào sự giới thiệu trong kinh Vô Lượng Thọ, Phật A Di Đà lại
có tên Phật Vô Lượng Thọ, Phật Vô Lượng Quang, Phật Vô Biêng Quang, Phật Vô
Ngại Quang, Phật Vô Đối Quang, Phật Viêm Vương Quang, Phật Thanh Tịnh Quang,
Phật Hoan Hỷ Quang, Phật trí Tuệ Quang, Phật Bất Đoạn Quang, Phật Nan Tư Quang,
Phật Vô Xưng Quang, Phật Siêu Nhật Nguyệt Quang, tổng cộng có 14 tôn hiệu, đều
đại biểu cho trí tuệ rộng lớn và từ bi rộng lớn của Phật A Di Đà. Cũng có thể
nói, nếu người hay tu pháp môn niệm Phật của Phật A Di Đà và được Đức Phật
chiếu cố, thì có thể ở mọi lúc mọi nơi, ánh sáng trí tuệ và lòng từ bi của Phật
mãi mãi trợ giúp cho chúng ta được bình an, dũng khí, thanh tịnh, không có gì
có thể so sánh được, rất tốt không thể nghỉ bàn. Dù có chúng sanh ngu muội cự
tuyệt Ngài, nhưng Ngài vẫn mãi mãi không để cho bất kỳ chúng sanh nào thất
vọng. Nếu có chúng sanh phiền não chướng ngại, có nghiệp chướng hiện tiền, chỉ
cần trì danh xưng niệm thánh hiệu Phật A Di Đà sẽ được tâm khai ý giải, cõi
lòng cởi mở.
Phật
A Di Đà là Trí tuệ và Từ bi:
Tất cả trạng huống sự vật
của thế gian, đều do mối quan hệ nhân quả trước sau tạo thành, cũng là do mối
quan hệ nhân duyên bất đồng mà hình thành, cho nên nói nhân quả bất khả tư
nghị, nhân duyên bất khả tư nghị. Phàm tất cả sự việc chúng ta chỉ biết tận lực
mà làm, nhưng không thể tuỳ tâm mong muốn cái gì liền được cái đó. Người phàm
phu ngu si không hiểu được đạo lý này, cho nên cứ mong muốn mọi việc đều được
như ý, nếu không được bèn quay trở lại, không oán trời trách người thì cũng mất
tự tin, sinh khởi phiền não, cho nên cần phải niệm Phật để nhờ sức Phật đem ánh
sáng trí tuệ cho ta.
Không buông bỏ được thì tự
mình không có trí tuệ, không buông bỏ được thì đối với người sẽ không có từ bi.
Hay nghỉ tưởng như thế đối với tất cả người sẽ sinh khởi tâm thông cảm và tâm
tôn kính. Thông cảm vì người ta cũng là phàm phu trói buộc, tôn kính vì người
ta cũng có nhân cách độc lập. Như đối với sự khổ nạn rắc rối của người khác ra
tay cứu giúp không có điều kiện, đó chính là tâm từ bi. Nếu như không vì mục
đích nào hết, lúc nào cũng dùng tâm trợ giúp và cảm thông đối đãi với người tức
là tấm lòng của Bồ Tát, cũng là từ bi của Bồ Tát. Bồ Tát là giai đoạn dự bị để
thành Phật, người tu hành gọi là Bồ Tát, tức là học tập từ bi và trí tuệ của
Đức Phật. Người niệm Phật đến lúc từ bi và trí tuệ viên mãn cũng tức là Phật.
Chúng ta đã có từ bi thì
không có kẻ thù địch và khi chúng ta có trí tuệ thì không có tâm phiền não.
Trên thực tế nếu đem Từ bi và trí tuệ phát huy rộng rãi thì chính là Vô Lượng
Quang, Vô Lượng Thọ. Thanh Tịnh Quang, Hoan Hỷ Quang, Trí Tuệ Quang của Phật A
Di Đà. Dùng thọ mạng vô lượng mãi mãi cứu độ chúng sanh, dùng trí tuệ vô lượng
phổ chiếu chúng sanh, dùng từ bi vô lượng bình đẳng thương xót chúng sanh.
Người
tu hành pháp môn niệm Phật, phải nên biết ý nghĩa của Phật A Di Đà. Nếu muốn
đích thân mình thể nghiệm ý nghĩa này, nên dùng trí tuệ và từ bi để phát nguyện
hồi hướng cho mình được sinh Tịnh độ cõi Phật, cũng phát nguyện mong muốn cho
tất cả chúng sanh nhờ công đức niệm Phật của chúng ta mà được vãng sanh Tịnh độ
cõi phật, đó chính là tâm phát nguyện hồi hướng.
Tịnh niệm tương kế nhập lưu
vong sở : Nếu dùng thâm tâm niệm Phật ngay đó xa lìa được thống khổ
phiền não. Nếu dùng chuyên tâm niệm Phật, thì sẽ phát hiện phiền não vốn không
trụ tại trong tâm. Nếu dùng nhất tâm niệm Phật, niệm niệm đều là Phật A Di Đà,
đó là tịnh niệm tương kế như trong kinh Lăng Nghiêm đã nói. Nếu dùng vô tâm
niệm Phật, lập tức mất cả tự mình năng niệm và Phật hiệu sở niệm, đó là “ nhập
lưu vong sở ” như kinh Lăng Nghiêm đã nói. Niệm Phật mà được nhất tâm như đại
Sư Liên Trì nói có sự nhất tâm và lý nhất tâm. Tâm không vọng tưởng là sự nhất
tâm, trong tâm vô ngã tức là lý nhất tâm, thân chứng thật tướng Bát Nhã. Đại Sư
Trí Giả tông Thiên Thai sáng lập thuyết “ một niệm ba ngàn ”, y cứ vào sám nghi
Pháp Hoa Tam Muội do Ngài soạn. Một niệm của Đại Sư Trí Giả là thông cả phàm
thánh mười pháp giới. Một niệm vọng tâm của phàm phu cũng tức là đầy đủ ba ngàn
công đức. Đủ biết tông Thiên Thai tuy lập bốn loại Tịnh độ, nhưng trong một độ
nào cũng nhiếp cả ba độ khác, trong một niệm nào cũng thường có đầy đủ sự lý,
không cần phải quan tâm chúng là sự nhất tâm hay là lý nhất tâm, cũng không cần
phải quan tâm chúng là phàm hay thánh, chỉ cần nắm chắc một niệm tâm ngay lúc
đó chính là toàn thể đại dụng của tất cả chư Phật trong mười phương ba đời.
Dùng cách này để quán sát công đức niệm Phật, dù tán tâm niệm Phật hay nhất tâm
niệm Phật, đều có vô lượng công đức, đều có thể hiện đời dự vào dòng thánh như
đại Sư Ấn Quang đã nói. Đây cũng tức là viên giáo sở nhiếp của tông Thiên Thai.
Đến như làm thế nào để nắm
chắc một niệm tâm hiện tiền, vẫn phải là tu quán hạnh thường hành tam muội
trong bốn loại tam muội của tông Thiên Thai, tức là lấy 49 ngày là kỳ hạn, hằng
trì danh hiệu Phật A Di Đà, ngày đêm không có dừng nghỉ.
Ba loại người niệm
Phật : Mục đích niệm Phật có ba loại 1/- Loại người
niệm Phật để cầu tiêu tai gải nạn sống lâu, lành bệnh khang kiện, siêu độ người
mất. 2/- Loại người niệm Phật là để cầu lúc lâm chung được vãng sanh về Tịnh độ
Cực lạc Phương Tây. 3/- Loại người lúc niệm Phật, niệm niệm Phật hiệu niệm niệm
tịnh độ, niệm niệm Phật hiệu trong mỗi niệm thể hiện vô lượng công đức của
Phật. Ba loại người này, loại trước không bằng loại sau. Loại sau toàn nhiếp
loại trước. Nếu chúng ta lấy việc kiếm tiền làm thí dụ thì loại người thứ nhất
là kiếm được tiền sắt, loại người thứ hai là kiếm được tiền đồng và bạc, loại
người thứ ba là kiếm được tiền vàng và kim cương. Nếu chỉ lấy tiền sắt, nhất
định không đổi được tiền bạc và tiền vàng. Nếu lấy được tiền vàng và kim cương,
đương nhiên có thể mua được tiền sắt và tiền đồng, tiền bạc. Cho nên khuyên
những người niệm Phật cần phải chọn mục tiêu cao nhất, không nên dừng lại ở
loại một.
Làm thế nào để lấy được tiền vàng ?
Phải có đại nguyện, ra sức quyết tâm, dùng thâm tâm niệm Phật, chuyên tâm niệm
Phật, nhất tâm niệm Phật, cho đến tiến một bước nữa đạt đến trình độ vô tâm
niệm Phật.
Một niệm niệm Phật thời một niệm thấy tịnh độ : Niệm Phật không nên nóng vội, vì
nhất tâm niệm Phật và vô tâm niệm Phật là việc so ra không dễ gì làm. Ngay như
tâm trạng và quan niệm của người niệm Phật ba loại thì có thể dùng tín tâm để
thử thể hội, ít nhất cũng phải hiểu, trong miệng niệm Phật ra tiếng trong tâm
biết là đang niệm Phật một niệm tiếp nối một niệm, một tiếng liền nhau một
tiếng, tin rằng mình đang niệm Phật A Di Đà, công đức bổn nguyện của Phật A Di
Đà đều ở trong mỗi tiếng Phật hiệu, cũng đều ở trong một niệm niệm Phật mà mình
đang niệm. Đây là điều có thể làm được, nếu chúng ta làm được như vậy thì lúc
một niệm niệm Phật, một niệm thấy tịnh độ. Thấy tịnh độ nào ? Đương nhiên là
thấy tịnh độ của Phật A Di Đà, đó là tịnh độ trong tâm mình cũng chẳng lìa tịnh
độ phương Tây, đây chính là tịnh độ nhân gian cùng với bốn loại tịnh độ có mối
quan hệ mật thiết, không một cũng không khác.
Người tu học phải
biết quý tiếc tài nguyên thiên nhiên : Nguồn tài nguyên thiên nhiên của thế giới chúng ta
đang ở có giới hạn, cho nên lúc được ăn no mặc đẹp ta phải nghỉ đến ngày đói
khổ bần cùng, lãng phí toàn bộ nguồn tài nguyên của địa cầu sẽ bị giảm thiểu.
Chúng ta đang ở nơi có đầy đủ nước để dùng cũng là một phước báo của chúng ta,
lúc có nước dùng, tuy nước không có giá trị bằng tiền bằng vàng, nhưng lúc
thiếu nước, nước so với vàng lại càng quý hơn. Không có vàng người ta không
chết, không có nước uống thì người ta không sống được. Lúc đại hạn hán đến, một
giọt nước khó tìm. Cầu trời không ứng, kêu đất đất cũng làm ngơ, đó đều là do
nơi phước báo không đủ, mới có tai nạn giáng lâm. Cho nên mọi người cần phải
bồn phước bằng cách quý tiếc tài nguyên thiên nhiên cũng là một việc tu học lợi
cho mình và cho mọi người vậy.
Cảm ân và báo ân: Là người tu học, chúng ta nên dùng
tâm báo ân để sinh hoạt, để làm việc, thì sự tu hành nhất định sẽ được cảm kích
và sẽ không có ý niệm oán hận, thất vọng. Dù làm được công việc gì chúng ta nên
hướng tâm hồi hướng vì để báo ân, báo đáp, ân huệ của cha mẹ, sư trưởng, Tam
Bảo, quốc gia xã hội và tất cả chúng sinh. Dù là trách nhiệm hay nghĩa vụ, cho
đến các sự việc xảy ra đối với ta không hợp tình hợp lý, đều xem là không phải
là bị hại, cũng không phải trả nợ, mà xem đó là hoàn nguyện báo ân, chúng ta
sống phải ăn uống ngủ nghỉ, đi lại, tất cả phương tiện đều phải nhờ vào tài
nguyên thiên nhiên, vào xã hội vào tất cả mọi người, chúng ta mới tồn tại và
phát triển, nên đối với bốn ân không ai là không mắc nợ, và không lúc nào chúng
ta được quên. Gặp trường hợp nào có lợi cũng không nên quá mừng, gặp thất bại
cũng không nên oán hận. Nếu siêng niệm Phật tất nhiên đối với các cảnh thuận
nghịch, nhất nhất phải dùng tâm bình thường để đối xử, dùng tâm cảm ân để xử
lý. Nếu dùng tâm cảm ân đối mặt với cuộc sống thì sẽ có các loại thiện pháp,
thiện cảnh giới xuất hiện, sẽ cảm nhận được pháp hỷ sung mãn. Ít nhất lúc đối
với cảnh ác hiện tiền tâm ta không đến nổi bức xúc khổ đau, mà còn bình thản
trước mọi việc.
Hạnh kết duyên với
mọi người : Trong Phật giáo có những ngày lễ lớn như Vu Lan, Phật
Đản, lễ vía cho đến những lễ khánh thành, Hoàn nguyện v.v số lượng người tham dự rất đông. Vì thế có
nhiều người phát nguyện trợ duyên để cho các Phật sự được hoàn mãn tốt đẹp, như
những người phụ giúp hướng dẫn nơi nhà khách, trật tự bên ngoài bên trong, quét
dọn sửa sang cảnh chùa, dù mưa hay nắng, những người này đều tuỳ hỷ, cho đến
những vị phát tâm lo việc nhà bếp cũng rất cực nhọc, đi chợ mua đồ, rồi lặt rau
rửa cải, nấu nướng, rửa dọn thật là vất vả, tất cả họ chỉ hy vọng đem lại sự
thành tựu tu hành của chúng ta, để báo ân Tam Bảo, cha mẹ, sư trưởng, ân chúng
sanh và ân quốc gia. Bởi vì sự tu học của chúng ta là cải biến tự thân của
chúng ta đối với thân hữu và xã hội quảng đại quần chúng, sẽ có ảnh hưởng tích
cực trực tiếp, sẽ đem lại lợi ích cho tất rất nhiều người. Cho nên những vị
phát tâm làm công quả hộ trì đạo tràng tu học, cũng là tu hành Phật pháp và
hoằng dương Phật pháp. Chúng ta thường chỉ nghỉ đến những người ngồi trên chánh
điện mới là người báo ân, mới là tu hành. Kỳ thật, các vị hộ trì chúng ta tu
học cũng là tu hành, mà còn đại tu hành nữa. Cho nên những người đến đạo tràng
tu học mỗi người nên phát tâm trợ duyên công quả hộ trì đạo tràng tu học. Như
vậy mọi người đều đem sở tri, sở năng và sở hửu sở trường của mình để kết thiện
duyên với nhiều người và cũng chính để mọi người kết thiện duyên với chính họ.
Tịnh độ nhơn gian của chúng ta, chính là phải dựa vào niềm tin và hành động như
thế để kiến thiết.
Khẩn thiết, hoan hỷ,
không lìa danh hiệu Phật : Quý vị niệm Phật nên biết, chúng ta hiện tại bắt đầu
tu hành niệm Phật trong một ngày ( 1 tuần ) mong quý vị nên dùng tâm khẩn
thiết, tâm hoan hỷ để tu hành pháp môn niệm Phật trong một ngày ( hay 1 tuần )
tốt nhất chúng ta nên xem niệm Phật trong một ngày ( 1 tuần ) như là bắt đầu
lại một đời sống mới. Chúng ta bình thường dùng tán tâm niệm Phật, trong thời
gian niệm Phật một ngày (1 tuần ) phải dùng chuyên tâm niệm Phật, sau đó đến
nhất tâm niệm Phật. Vì sao phải hoan hỷ ? Vì chúng ta có thể niệm Phật được,
lại có thể tham gia niệm Phật trong một ngày ( hay 1 tuần ) là nhờ bản thân của
quý vị có đại phước báo, căn lành sâu dày, rất nhiều người muốn được như quý vị
mà không làm được mà quý vị làm được, cho nên phải hoan hỷ. Đồng thời lúc niệm
Phật phải đem tâm niệm của quý vị và danh hiệu Phật gắn liền với nhau, tạo
thành một khối. Danh hiệu Phật chính là bản thân của quý vị, bản thân của quý
vị chính là danh hiệu Phật, tâm của bạn phải tương ưng với danh hiệu của Phật A
Di Đà. Ở trên Phật điện niệm Phật, ở trong trai đường niệm Phật, lúc đi ngủ
cũng niệm Phật, khi đi làm lễ cũng niệm cho đến rửa tay, mặc áo ăn cơm v.v..
đều cũng niệm, dù niệm thầm hay niệm ra tiếng trong tâm lúc nào cũng có danh
hiệu Phật.
Trí tuệ vô lượng : Ý nghĩa Phật A Di Đà là Vô Lượng Thọ,
Vô Lượng Quang, tức là thọ mạng vô lượng và ánh sáng vô lượng, Phật A Di Đà có
thể ở trong khoảng thời gian dài vô tận tiếp dẫn chúng sanh vô lượng, cho nên
gọi là vô lượng thọ, hay dùng trí tuệ vô biên và lòng từ bi vô tỉ, chiếu cố đến
chúng sanh trong biển khổ vô cùng, cho nên gọi là vô lượng quang. Lúc chúng ta
niệm Phật, trong tâm phải tương ưng với từ bi và trí tuệ, cũng tức là phải
tương ưng với vô lượng quang của Phật A Di Đà, tâm của chúng ta vĩnh viển không
được xa lìa trí tuệ và từ bi. Tâm của chúng ta cũng vĩnh viển không được xa lìa
danh hiệu Phật A Di Đà, đó cũng là vô lượng thọ.
Không một không hai,
sinh mạng vô thường : Lúc niệm Phật, Phật A Di Đà với chúng ta hiệp làm
một, không một không hai, cũng không phải một cũng hông phải hai. Bởi vì ngay
lúc chúng ta niệm Phật, Phật A Di Đà là danh hiệu mà chúng ta phải niệm, cho
nên không phải là một, thế nhưng lúc niệm Phật A Di Đà, tâm chúng ta với Phật A
Di Đà hợp làm một, cho nên không phải một cũng không phải hai.
Ta cùng niệm Phật chung với mọi người một
chổ, cũng là không một không hai. Bởi vì mọi người cùng niệm Phật A Di Đà, bạn
niệm Phật A Di Đà của bạn, tôi niệm Phật A Di Đà của tôi, mà không phải một
người niệm, thế nhưng mọi người ở một chổ cùng chung niệm Phật A Di Đà, trong
tâm chỉ có một Phật A Di Đà chung, cho nên cũng không thể tách rời được.
Nếu thể nghiệm được đạo lý
này, chúng ta có thể tin tưởng đang lúc bản thân mình tham gia niệm Phật, những
oán thân trái chủ của chúng ta, cha mẹ và thân hữu của chúng ta hiện còn, tiên
vong quyến thuộc của chúng ta cùng với chúng ta không một không hai, cùng với
chúng ta niệm Phật một chổ. Chúng ta được lợi ích về niệm Phật, họ cũng được
lợi ích về niệm Phật, cho nên niệm Phật hồi hướng để báo ân, một mặt tự mình
được công đức tu hành, đồng thời cũng đem công đức tu hành này, chia cho thân
hữu trái chủ của chúng ta. Dù là người còn sống hay đã chết họ đều nhờ công đức
niệm Phật của chúng ta mà hưởng được lợi ích rất lớn.
Trong khoá trình tu hành niệm
Phật, điều cần thiết nhất là chúng ta không nên nói chưyện cho đến cũng không
nên đối thoại với chính mình, chỉ chuyên tâm niệm phật. Đồng thời phải lợi dụng
thời gian nhàn rổi vừa niệm phật vừa lễ Phật, mỗi ngày ít nhất cũng phải được
300 lạy. Hy vọng chúng ta không nên lãng phí thời giờ, sanh mạng vô thường thời
gian có hạn.
-Tham gia đạo tràng
niệm Phật chính là báo ân : Tham gia tu hành niệm Phật là vì để báo ân, Vậy báo ân
ai ? Phật dạy có 4 thứ ân cần phải báo: 1/ Ân Tam Bảo. 2/ Ân cha mẹ.
3/ Ân Sư trưởng. 4/ Ân chúng
sanh. Chủ yếu là báo ân cha mẹ và ân chúng sanh.
Người Trung Quốc và người
Việt Nam trong một năm thường có các ngày cúng tổ tiên. Như Tết, mùng 5 và các
ngày giỗ kỵ. Đây chính là truyền thống uống nước nhớ nguồn, biểu lộ tấm lòng
thành nhớ ân đối với tổ tiên, biểu thị sự tưởng nhớ và lòng biết ơn.
Đây chính là phong tục tập
quán của dân tộc do lịch sử tạo thành. Người TQ và người VN xem trọng việc cúng
tổ tiên, nên một năm ấn định các ngày như vậy. Đối với dân tộc Ấn Độ và Âu Mỹ
thì họ không hiểu và không thích hợp lắm. Thế nhưng lấy phong tục của người TQ
và VN để nói thì là rất trọng yếu. Phật giáo truyền từ Ấn Độ qua Trung Hoa và
VN nhưng không phế bỏ tập quán của Trung Hoa và VN, mà trái lại còn thích ứng
với văn hoá bản địa Trung Hoa và VN, tín đồ Phật giáo cũng tế tự tổ tiên giống
như người Trung Quốc và VN vậy.
Người ta thường chỉ biết
cúng tế một lần vào các dịp Tết, thanh minh như vậy có tác dụng gì không ? Có, đấy cũng chính là một loại thăm hỏi đối
với tiên vong quyến thuộc, cho đến đối với những cô hồn vất vưỡng, biểu thị sự
quan tâm, cho nên có tác dụng, thế nhưng không phải là nhiều lắm, nếu có thể
vận dụng Phật pháp để siêu độ tiên vong, thì mới có tác dụng lớn lao chân
chính. Bởi vì dùng Phật pháp để hoá giải phiền não oan kết trong tâm của họ,
khiến họ có thể ly khai quỷ đạo mà sớm về thiên đạo, hoặc sinh thiên quốc, hoặc
vãng sanh tịnh độ cõi Phật. Đem công đức niệm Phật và năng lực niệm Phật của
chúng ta hồi hướng cho họ, đồng thời cũng dẫn dắt họ cùng niệm Phật, giúp cho
tiên vong quyến thuộc và những cô hồn không người thờ cúng được siêu sanh lìa
khổ. Đó chính là dùng Phật pháp để làm phật sự siêu độ, so với việc biểu lộ
bằng hình thức lễ cúng tảo mộ hoặc đốt giấy tiền vàng bạc v.v có tác dụng hơn
nhiều.
Cho nên chúng ta dùng công
đức tu hành niệm Phật để báo ân, có lợi cho người chết mà cũng có ích cho người
sống, mới là hữu dụng chân thật. Bao quát cả chúng sanh hữu hình và vô hình đều
được lợi ích. Họ từ vô thỉ cho đến nay đối với chúng ta đều có ân, cho nên cũng
dùng công đức niệm Phật để hồi hướng cho họ, đồng thời cũng dùng oai lực Tam
Bảo dẫn dắt họ cùng tu hành.
Báo
ân như thế nào? Mỗi người tu học Phật pháp đều phải lập chí phát nguyện
làm một người báo ân. Trước hết là chiếu cố làm sao cho gia đình mình, hiểu
Phật tin Phật nhiều hơn, và ít phiền toái hơn. Chúng ta nên dùng bố thí và cúng
dường Tam Bảo để hổ trợ cho người tiếp thụ Phật pháp, tu học Phật pháp càng
nhiều hơn, sắp xếp thời gian nhàn rỗi tham gia các công tác phúc lợi. Tự mình
tu trì Phật pháp được lợi ích, cũng nên hổ trợ nhiều người tu học Phật pháp đạt
được lợi ích.
Thời
gian chúng ta còn nhỏ, còn nghèo chưa làm ra của cải tiền bạc, chúng ta không
thể cung phụng cha mẹ ta được miếng ngon miếng ngọt, đối với Tam bảo cũng không
thường xuyên cúng dường được. Bây giờ chúng ta trưởng thành, chúng ta nhất định
sẽ báo ân cha mẹ, thầy tổ. Nhưng báo ân bằng cách nào đây ? Có nhiều người đến
lúc muốn báo ân cha mẹ, thì cha mẹ đã qua đời, thầy tổ đã khuất bóng. Vậy nên
chỉ có cách duy nhất, dùng cái thân thể của cha mẹ sanh ra ta, mà tu học Phật
pháp hoằng dương Phật pháp cho tốt, càng nhiều giúp chúng sanh lìa khổ được vui
để báo ân cha mẹ. Dùng cái trí hiểu biết của thầy tổ trao truyền cho mình mà
đem ra ban trãi cho chúng sanh được thấm nhuần Phật pháp lìa mê sang giác.
Chúng ta đã mang rất nhiều ơn của các bậc thầy tế độ, bao quát trước sau rất
nhiều thầy, các ngài đã dẫn dắt chúng ta ra khỏi trần ai. Đã chỉ rõ cho ta con
đường nào nguy hiểm chông gai, con đường nào hanh thông đại lộ an toàn, ân sâu
hơn biển, đức dày tợ trời cao. Nào là các thầy truyền giới, truyền pháp, dạy
đạo v.v đều là ân nhân của người tu học không làm sao báo đền hết được, chỉ
biết mỗi ngày vào lúc khoá tụng vì các ngài mà lễ bái, đem ân đức thọ nhận từ
các ngài phổ thí cho tất cả chúng sanh hữu duyên để làm sự báo ân.
Ý nghĩa và công năng của siêu độ : Căn cứ Phật pháp để nói về ý
nghĩa siêu độ chúng sanh và công năng siêu độ chúng sanh. Ý nghĩa siêu độ là
dùng Phật pháp thanh tịnh hoá giải khổ nạn chúng sanh, khiến cho chúng sanh ra
khỏi phiền não sinh về tịnh độ Phật quốc.
Mục
đích chúng ta tu học Phật pháp chính là từ bỏ bờ bên này siêu độ đến bờ giải
thoát bên kia. Có rất nhiều người hiểu lầm cho là Phật pháp chỉ siêu độ người
chết, siêu độ vong linh. Kỳ thật Phật pháp tuy có công năng siêu độ vong linh,
nhưng tác dụng lớn nhất của nó là siêu độ người sống tu hành Phật pháp. Từ
trong ngu muội vô minh phiền não đạt được giải thoát. Dùng năng lực tu hành
Giới, Định, Huệ, có thể khiến cho chúng ta từ phàm phu sinh tử đạt đến cảnh
giới Bồ Tát, Phật bất sinh bất tử, đó mới là siêu độ chơn chính.
Công đức siêu độ có cạn sâu.
Trên đường tu hành Phật pháp, đi một bước là siêu độ một bước, đi hai bước là
siêu độ hai bước. Chúng ta mỗi khi niệm một câu danh hiệu Phật thì ở trong biển
khổ di chuyển đến bờ một bước. Cho nên tín đồ Phật giáo trong địa vị phàm phu
là đang siêu độ, Phật Bồ Tát trong địa vị thánh giả là đã siêu độ. Chúng ta mỗi
khi niệm Phật một câu danh hiệu Phật đều đang siêu độ chính mình. Tổ tiên hoặc
oán thân trái chủ của chúng ta, cho đến những cô hồn vô tự đối với chúng ta có
duyên nhờ sự niệm Phật của chúng ta mà được lợi ích, được siêu độ. Đó là chúng
ta báo ân, kết duyên, hoàn nguyện, có sự quan tâm, cũng tức là thực hành đạo Bồ
Tát tự lợi lợi tha. Dùng Phật pháp để trợ giúp vong linh, khiến cho họ nghe
được Phật pháp, cũng có thể được tâm khai ý mở, phát sinh trí tuệ, cầu sanh
tịnh độ Phật quốc. Đó gọi là siêu độ chúng sanh.
Từ quan điểm Phật pháp để lý
giải, chúng sinh đều ở trong ngũ thú lục đạo từ sinh đến tử, tử rồi lại sinh,
gọi là sinh tử hữu duyên, không phải vĩnh viễn làm quỷ, không phải vĩnh viễn
làm người, cũng không phải vĩnh viễn làm súc sanh hay làm thiên thần. Bởi vì
người phải chết, ngũ thú chúng sanh đều phải chết. Họ chết rồi sau này làm gì ?
Đi chuyển sinh, chuyển sinh đến đâu ? Là y theo nghiệp nhân của chính họ từ vô
thuỷ đến nay, mà sinh đến chổ phải sinh. Nhân duyên lành thì sinh đến chổ lành,
nhân duyên ác thì sinh đến chổ xấu. Nếu tu nhân duyên Bồ đề vô lậu, nương nhờ
nguyện lực của Phật thì sẽ sinh về Tịnh độ cõi Phật. Chiếu theo lời giảng trên
thì tổ tiên của chúng ta, oán thân trái chủ lịch kiếp không nhất định đều ở
trong quỷ thú. Bởi vì từ vô thuỷ kiếp đến nay, chúng ta với rất nhiều chúng
sanh phát sanh quan hệ ân oán với nhau. Cho nên chúng ta vẫn không biết được có
bao nhiêu chúng sanh có quan hệ với chúng ta ở trong quỷ đạo thần đạo hoặc
thiên đạo, và chúng ta cũng không biết có bao nhiêu oán thân trái chủ ở trong
địa ngục đạo và súc sanh đạo. Để báo ân
họ, chúng ta nhất định phải dùng Phật pháp, đem công đức tu học Phật pháp,
hoằng dương Phật pháp, hộ trì Phật pháp để hồi hướng cho họ, khiến cho họ được
lợi ích, có thể lìa khổ được vui.
Quỷ và thần : Chúng sanh thuộc quỷ đạo chia làm ba loại :
Quỷ thần vô tài, Thiểu tài và đa tài. Loại vô tài vô phước là ngạ quỷ không có
tự do. Thiểu tài thiểu lực là quỷ thần nương gá nơi cây cỏ. Đa tài đại phước là
quỷ thần tự do đại lực. Quỷ không có tự do là chúng sanh ở địa ngục. Nhưng cũng
có một số quỷ thần, tuy không có phước báo, nhưng cũng không có tội báo lớn
lắm. Hoặc giả có một loại linh thể chúng có tội báo và phước báo vẫn chưa có
thọ báo, đang đợi nhân duyên đi thọ báo, vẫn ở trong vòng quỷ đạo. Những hồn ma
này lơ lững ở không trung, trôi nổi tại nhân gian mà mắt thịt của con người
không thể nhìn thấy được. Những quỷ thần nầy rất dễ kết duyên với người, có một
số cũng quấy phá người. Do đó nếu chúng ta dùng Phật pháp kết duyên với họ, đối
với họ có lợi ích rất lớn, giúp họ sau khi tâm ý khai mở có thể được siêu độ.
Quỷ thần tự do và không tự do ở chổ
là quỷ thần phước báo lớn thì phạm vi tự do của họ lớn tương đương. Quỷ thần ở
Trung Quốc có thể đi Mỹ quốc. Quỷ ở Mỹ Quốc có thể đến Đài Loan. Họ có một số
thần thông lực muốn đi đâu liền đến đó. Nhưng có một số quỷ thần phước đức kém, chỉ có thể ở địa phương, chẳng hạn
như họ ở Bắc đầu chỉ có thể hoạt động ở khu vực Bắc Đầu. Như ở thành phố Đài
Bắc có một khu vực 20 năm về trước là pháp trường xử bắn phạm nhân, hiện nay
nơi nầy đã xây dựng một cơ quan lớn, các nhân viên nhà nước lúc mới dọn đến
phát hiện rất nhiều chuyện, chẳng hạn như không ai khởi động thang máy, tự động
nó đi lên đi xuống. Có người nghe trong phòng trống có tiếng dọn đồ đạt, ngoài
ra có những lúc đột nhiên cúp điện, cũng có lúc nghe tiếng hô khẩu lệnh, tiếng
súng bắn, miêu tả những thứ chuyện kỳ lạ. Tất cả những hiện tượng này đều do
những linh thể sau khi chết do vì phước ít nghiệp duyên chưa đủ để đi đầu thai
hoặc chuyển sang nơi khác, nên họ vẫn còn ở mãi nơi trụ xứ của họ sinh ra, lớn
lên làm việc, rồi chết vẫn nguyên như cũ. Tựa như những làng nghề truyền thống,
ngày xưa ông bà dệt vãi, làm đồ gốm thì nay công việc của những người làng nghề
đó cũng như vậy.
Nếu chúng ta niệm Phật, đem công đức tu hành
hồi hướng và để siêu độ cùng kết thiện duyên với họ, thì họ có cơ hội chuyển
hoá được.
Những linh thể ấy rất đáng thương, họ không
có xác thân nên họ không thể thường xuyên có mặt nơi đạo tràng tu học lâu dài.
Họ đang chú tâm nghe pháp, nhưng nếu họ khởi tâm đến một nơi nào thì ngay lúc đó
họ đã có mặt ở đó, cho nên họ không còn nghe được bài pháp đang giảng. Cũng như
chúng ta niệm Phật, tuy muốn dừng vọng tưởng nhưng tâm vẫn cứ trôi nổi bên
ngoài, cũng như hồn ma trôi nổi Đông Tây, mà thân thể thì vẫn đang ở đây niệm
Phật vậy. Thế nhưng quỷ thần nầy rất đáng thương, niệm được vài câu Phật nghe
được vài câu pháp, chỉ một thoát là bay đi mất. Do phước báo của họ không lớn
bằng chúng ta, chính bản thân họ cũng không có biện pháp nào, vẫn phải nhờ
chúng ta dùng công đức niệm Phật hồi hướng cho họ. Qua đó đủ biết, nếu chúng ta
lúc sống biết niệm Phật, tự tu tự độ là tốt nhất, để đợi đến chết rồi sau đó
nhờ người nhà siêu độ thì cũng giống như những hồn ma kia vậy. Phật nói “ thân
người khó được ” chỉ có thân người mới thực sự có đủ điều kiện tu tập.
Đối với người phương Tây thì
không có cúng tế như người Trung Quốc và VN nên hồn ma ở Tây phương họ không
trông chờ người nhà cúng tế, nguyên nhân là họ đã thành tập quán, cho nên sẽ
không có vấn đề. Thế nhưng quỷ thần của Trung Quốc và VN thì không như vậy.
Người VN và Trung quốc có tập quán của họ rồi, đến ngày thanh minh, ngày giổ
kỵ, bạn không cúng tế cho họ, họ cũng sẽ thắc mắc. Phong tục tập quán và tín
ngưỡng nhân gian của Trung Quốc và VN khiến cho linh thể của một số người đã
chết mà vẫn chưa chuyển sinh. Họ làm chúng sanh trong quỷ đạo, thiết tha mong
đợi người sống chăm lo cho họ, cho nên người Trung Quốc rất coi trọng tiết
thanh minh, đặc biệc còn có thuyết mở cửa ngục ngày rằm tháng 7 âm lịch nữa.
Mỗi lần cúng tế, giổ kỵ là hình
thức thể hiện sự quan tâm thăm hỏi vong linh, cho nên mọi người dùng công đức
tu hành của mình, vận dụng tinh thần Phật pháp để báo đền ơn tổ tiên, những
người đã chết, báo ân chúng sanh, thì thiết thực hơn có lợi ích rất lớn và dùng
công đức thuyết pháp, nghe pháp, niệm Phật để siêu độ họ ./.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét