Cõi Ta bà vui ít khổ nhiều,
ví như người bị bệnh ngứa, lúc đang ngứa ta gải có phải đả ngứa lắm ư ? Ấy mà
sau khi đả ngứa rồi thì sự nhứt nhối mới khó chịu hơn. Nếu khi cơn ngứa khởi
lên ta cố gắng dằn tâm đừng gải thì đâu có đến nổi nhức nhối đau đơn như thế.
Đức Khổng Tử than rằng: “ Ngô
vị kiến háo đức như háo sắc giả ” . Ta chưa từng thấy người nào mà ham đạo đức
ví như ham sắc đẹp .
Người tu tiên họ tu luyện nơi
thân mà không tỉnh ngộ nơi tâm. Phương pháp niệm Phật là pháp làm cho người
trường sinh bất tử. Mục đích của Phật là độ tận chúng sanh, rồi sau mới mãn
nguyện.
Người phàm phu không dám
trông mong sanh về Cực Lạc mà làm Phật, lòng ấy ai mà chẳng có, hể giác là Phật
mê là chúng sanh. Phật là tánh giác của mình, cõi tịnh độ là tâm mình.
Người bỏ giác tánh theo sáu
trần, luân hồi ba cõi 4 loài 6 đường, gây nghiệp lành dữ, quả báo tốt xấu, đều
bởi nhận lầm thân tứ đại có thật là thân ta, 6 trần có thiệt, theo mãi cảnh dối
không thôi, ngày đêm trôi nổi chẳng chịu suy xét đặng trở lại tánh chơn là chổ
sáng suốt mà ăn chay niệm Phật.
Từ khi sanh cho đến già, chỉ
lo gia nghiệp không rồi, của cải tuy nhiều mà không vừa lòng, càng nhiều càng
cầu, lòng tham chẳng đầy. Tuy nói làm lành thờ Phật, đốt hương lễ Phật, làm
phước chỉ nguyện cầu giàu có sang cả, sống lâu đừng chết, mới làm chút đỉnh
việc lành, cũng chỉ cầu cho lúa gạo đầy kho, tiền bạc đầy rương, tơ tằm vạn
bội, trâu ngựa sanh nhiều, con cháu hiển vinh, thi tài đổ đạt, thăng quan tiến
chức v.v.. Nhưng rủi có điều chi chẳng vừa lòng, thì họ lại oán Phật kêu trời
sao không bảo toàn, họ chỉ muốn mỗi ngày việc thường tốt đến với họ, thì mới
nói các vị thiên long cảm ứng, tham cầu như vậy gọi là vọng tưởng. Họ đâu có
biết để tâm cầu sanh tịnh độ, nhất tâm niệm phật là chánh tưởng đó ư ! Người tu
cứ ôm ấp vọng tưởng không rời thì là một chướng ngại lớn. Cho nên Ngài Phổ Hiền
Bồ tát giúp cho người tu phát nguyện rằng : “ Nguyện tôi đến lúc lâm chung, trừ
hết việc chướng ngại, trước mặt thấy Phật A Di Đà, được sanh về Cực Lạc vậy ”.
Lại có nhiều người không tin nhân
quả, do đó cõi Tịnh độ họ không tin. Vã chăng nhân quả sao không tin. Kinh nhân
quả nói : “ Muốn biết nhân đời trước hãy coi đời nay hưởng quả gì đây, muốn
biết đời sau hảy coi đời này ta tạo cái nhân gì đó ”.
Nếu tin lời này thì lấy việc
trước mắt mà suy tìm nhân quả. Ở đời có người giàu , người nghèo, người làm chủ
nhà, lại có ngưòi làm đầy tớ, có người ăn không hết, lại có người bòn không ra,
có người ở nhà rộng trăm căn bảy lớp, lại có người ở sân hè xó chợ, có người
vui kẻ buồn, có người sống lâu, lại có người chết yểu. Có người quan chức quyền
hành, có người bị nô lệ, hất hủi v.v. mỗi mỗi không đồng, đều do nhân quả quyết
định đời sống của họ, chứ không phải trời ban cho họ, không phải số mạng định
đoạt, bởi vì đời trước họ gây nhân không đồng nên đời nay hưởng quả bất nhất.
Thế nên biết rằng, cái thân này là cái thân quả báo. Nghĩa là đời trước tạo cái
nhân gì đời nay chịu quả báo ấy, chứ không có trời nào cho ta, số nào định cho
ta ư . Ví như ở đời người có công thời được thưởng, người có tội thì phải trừng
phạt vậy. Kinh nói rằng: “ Giả sử bá thiên kiếp sở tác nghiệp bất vong, nhân
duyên hội ngộ thời quả báo hoàn tự thọ ”. Nhân nào quả ấy như bóng theo hình,
không mất không hề sai chạy.
Mùa xuân gieo một hột mùa hạ
thu nhiều hột, cho nên biết rằng, ở đời nhân quả rất rõ ràng, như vậy cần phải
tin cái thuyết của lý Tịnh độ, cũng rõ
ràng như 2+2 là 4 vậy. Đức Phật không bao giờ nói vọng, cho nên tịnh độ nên tin
và cần phải tin.
Có người nghe nói cảnh tịnh độ, đầy đủ
sự vui, phần nhiều có người không tin. Bởi vì họ chấp vào những việc thường
thấy trước mắt. Có những việc không thường thấy, họ tưởng là không có vậy thôi.
Ví như có người nông thôn ở vùng quê sâu xa, chổ ăn chổ ở chật hẹp, thiếu thốn
mọi bề, họ đâu có biết rằng, ở các thành phố lớn nhà cao cửa rộng, đường sá
rộng thênh thang, những điểm vui chơi, ăn uống đầy đủ các thứ vui. Người ấy
chắc không tin, nhưng những sự việc ấy ở thành phố là có thật.
Kẻ nghèo hèn đựng đồ mọn
trong chiếc rương bể, đâu có biết nhà vua có kho lẫm vật báu quý ê chề, thì đủ
biết rằng ở cõi Ta Bà ác thế này, không tin có cõi Phật Tịnh độ là cái lẽ dĩ
nhiên.
Cho nên người đời hầu hết đầu
thai trong xác người phàm, chớ đâu có biết sự hoá sanh nơi hoa sen ở tịnh độ. Ở
cõi này người sống lâu chỉ bất quá 100 tuổi là cùng. Đâu có biết cõi tịnh độ
con người số tuổi thọ hằng sa.
Ở cõi này ăn mặt ắt phải nhờ người làm ra mới
có, đâu có biết cõi Cực Lạc kia, có áo có cơm nhà cửa sẳn sàng, cõi này có lúc
vui lúc buồn, cõi kia thường vui bất tuyệt.
Thế thì nên nghe theo lời Phật, không nên chấp
theo những việc cho rằng trước mắt không thấy mà vội không tin lời Phật. Trong
kinh nói 10 phương vô lượng Bồ Tát còn muốn cầu vãng sanh, huống chi ta là
người thế nào mà không cầu vãng sanh đó ư ?
Ta hãy tin lời Phật nói, Phật
không bao giờ nói dối. Người đời vì ba việc mà nói dối, vì danh vì lợi, vì sợ
tai nạn mà dối. Phật danh lợi đều xả bỏ, hoạn nạn phật không sợ ai thù, thì
biết rằng Phật không bao giờ nói dối, cho nên ta phải tin lời Phật.
Thế thì biết Phật dùng lời
khuyên nhủ chỉ vì thương chúng sanh, chỉ vì sợ chúng ta nhọc ở trong bào thai,
có sanh ắt có tử, có già đau bệnh chết. Cái già cướp mất sức mạnh của ta, có
bệnh cướp mất sức khoẻ ta, cái đau làm ta khổ, có chết mới bắt linh hồn ta, có
vinh mới sinh sự kêu căng, có nhục mới sinh sự nhụt chí, có sang mới khởi tâm
kiêu ngạo, có giàu mới nặng lòng tham, có nghèo mới thấy thiếu thốn, có vui mới
động lòng tình, có khổ mới đau tinh thần, có khen mới khởi lòng cao, có chê mới
mất danh giá. Lạnh thì cảm thấy ép ngột thân, nóng thời sanh bực bội, khát thời
khô cổ họng. đói thời xót ruột, kinh thời khiếp hồn, sợ thì mất vía. Thuận thời
lớn lòng ác, nghịch thì sinh ra thù hèn ghét bỏ. Nào là dối vua, trái chống cha
mẹ, ngạo đời, dua nịnh, sanh lòng dã thú, tham sự lợi, cầu tiếng danh, phỉnh
gạt người, dềm pha dua nịnh, nương quyền ỷ thế, khinh rẻ kẻ cô, sâu lòng hại,
tạo nghiệp nhiều, quạt lửa dục, thổi gió tham, rong theo trần bỏ tánh giác, làm
việc bậy, lấp thiện nhân, chỉ ngó trước không xem lại sau, chỉ lo đi chẳng
tưởng lo về, tưởng cầu cái sống đâu biết cái chết, thời giờ mỗi niệm như nấu
như nung, mỗi bước sa vào hầm vậy. Nếu chúng ta biết lẽ đi tới Niết bàn, là
khỏi sự sanh tử luân hồi, hưởng phần an lạc, thì cần phải biết con đường đi
đến, đó là con đường chánh chân.
Thấy chân chánh, suy nghỉ chân chánh, nói năng
chân chánh, làm việc chân chánh, nuôi sống chân chánh, tinh tấn chân chánh, ghi
nhớ chân chánh và thiền định chân chánh. Trên mọi lẽ chân chánh kia có đủ năng
lực soi sáng thấy rõ nẽo tà đường vọng, giúp ta không lạc vào đường khổ, con ma
sanh tử không còn dòm ngó nữa ./.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét