Thứ Ba, 15 tháng 11, 2016

TỊNH ĐỘ KHỞI LÒNG TIN


          Cõi Ta bà vui ít khổ nhiều, ví như người bị bệnh ngứa, lúc đang ngứa ta gải có phải đả ngứa lắm ư ? Ấy mà sau khi đả ngứa rồi thì sự nhứt nhối mới khó chịu hơn. Nếu khi cơn ngứa khởi lên ta cố gắng dằn tâm đừng gải thì đâu có đến nổi nhức nhối đau đơn như thế.
          Đức Khổng Tử than rằng: “ Ngô vị kiến háo đức như háo sắc giả ” . Ta chưa từng thấy người nào mà ham đạo đức ví như ham sắc đẹp .
          Người tu tiên họ tu luyện nơi thân mà không tỉnh ngộ nơi tâm. Phương pháp niệm Phật là pháp làm cho người trường sinh bất tử. Mục đích của Phật là độ tận chúng sanh, rồi sau mới mãn nguyện.
          Người phàm phu không dám trông mong sanh về Cực Lạc mà làm Phật, lòng ấy ai mà chẳng có, hể giác là Phật mê là chúng sanh. Phật là tánh giác của mình, cõi tịnh độ là tâm mình.
          Người bỏ giác tánh theo sáu trần, luân hồi ba cõi 4 loài 6 đường, gây nghiệp lành dữ, quả báo tốt xấu, đều bởi nhận lầm thân tứ đại có thật là thân ta, 6 trần có thiệt, theo mãi cảnh dối không thôi, ngày đêm trôi nổi chẳng chịu suy xét đặng trở lại tánh chơn là chổ sáng suốt mà ăn chay niệm Phật.
          Từ khi sanh cho đến già, chỉ lo gia nghiệp không rồi, của cải tuy nhiều mà không vừa lòng, càng nhiều càng cầu, lòng tham chẳng đầy. Tuy nói làm lành thờ Phật, đốt hương lễ Phật, làm phước chỉ nguyện cầu giàu có sang cả, sống lâu đừng chết, mới làm chút đỉnh việc lành, cũng chỉ cầu cho lúa gạo đầy kho, tiền bạc đầy rương, tơ tằm vạn bội, trâu ngựa sanh nhiều, con cháu hiển vinh, thi tài đổ đạt, thăng quan tiến chức v.v.. Nhưng rủi có điều chi chẳng vừa lòng, thì họ lại oán Phật kêu trời sao không bảo toàn, họ chỉ muốn mỗi ngày việc thường tốt đến với họ, thì mới nói các vị thiên long cảm ứng, tham cầu như vậy gọi là vọng tưởng. Họ đâu có biết để tâm cầu sanh tịnh độ, nhất tâm niệm phật là chánh tưởng đó ư ! Người tu cứ ôm ấp vọng tưởng không rời thì là một chướng ngại lớn. Cho nên Ngài Phổ Hiền Bồ tát giúp cho người tu phát nguyện rằng : “ Nguyện tôi đến lúc lâm chung, trừ hết việc chướng ngại, trước mặt thấy Phật A Di Đà, được sanh về Cực Lạc vậy ”.
          Lại có nhiều người không tin nhân quả, do đó cõi Tịnh độ họ không tin. Vã chăng nhân quả sao không tin. Kinh nhân quả nói : “ Muốn biết nhân đời trước hãy coi đời nay hưởng quả gì đây, muốn biết đời sau hảy coi đời này ta tạo cái nhân gì đó ”.
          Nếu tin lời này thì lấy việc trước mắt mà suy tìm nhân quả. Ở đời có người giàu , người nghèo, người làm chủ nhà, lại có ngưòi làm đầy tớ, có người ăn không hết, lại có người bòn không ra, có người ở nhà rộng trăm căn bảy lớp, lại có người ở sân hè xó chợ, có người vui kẻ buồn, có người sống lâu, lại có người chết yểu. Có người quan chức quyền hành, có người bị nô lệ, hất hủi v.v. mỗi mỗi không đồng, đều do nhân quả quyết định đời sống của họ, chứ không phải trời ban cho họ, không phải số mạng định đoạt, bởi vì đời trước họ gây nhân không đồng nên đời nay hưởng quả bất nhất. Thế nên biết rằng, cái thân này là cái thân quả báo. Nghĩa là đời trước tạo cái nhân gì đời nay chịu quả báo ấy, chứ không có trời nào cho ta, số nào định cho ta ư . Ví như ở đời người có công thời được thưởng, người có tội thì phải trừng phạt vậy. Kinh nói rằng: “ Giả sử bá thiên kiếp sở tác nghiệp bất vong, nhân duyên hội ngộ thời quả báo hoàn tự thọ ”. Nhân nào quả ấy như bóng theo hình, không mất không hề sai chạy.
          Mùa xuân gieo một hột mùa hạ thu nhiều hột, cho nên biết rằng, ở đời nhân quả rất rõ ràng, như vậy cần phải tin cái  thuyết của lý Tịnh độ, cũng rõ ràng như 2+2 là 4 vậy. Đức Phật không bao giờ nói vọng, cho nên tịnh độ nên tin và cần phải tin.

        Có người nghe nói cảnh tịnh độ, đầy đủ sự vui, phần nhiều có người không tin. Bởi vì họ chấp vào những việc thường thấy trước mắt. Có những việc không thường thấy, họ tưởng là không có vậy thôi. Ví như có người nông thôn ở vùng quê sâu xa, chổ ăn chổ ở chật hẹp, thiếu thốn mọi bề, họ đâu có biết rằng, ở các thành phố lớn nhà cao cửa rộng, đường sá rộng thênh thang, những điểm vui chơi, ăn uống đầy đủ các thứ vui. Người ấy chắc không tin, nhưng những sự việc ấy ở thành phố là có thật.
Kẻ nghèo hèn đựng đồ mọn trong chiếc rương bể, đâu có biết nhà vua có kho lẫm vật báu quý ê chề, thì đủ biết rằng ở cõi Ta Bà ác thế này, không tin có cõi Phật Tịnh độ là cái lẽ dĩ nhiên.
          Cho nên người đời hầu hết đầu thai trong xác người phàm, chớ đâu có biết sự hoá sanh nơi hoa sen ở tịnh độ. Ở cõi này người sống lâu chỉ bất quá 100 tuổi là cùng. Đâu có biết cõi tịnh độ con người số tuổi thọ hằng sa.
           Ở cõi này ăn mặt ắt phải nhờ người làm ra mới có, đâu có biết cõi Cực Lạc kia, có áo có cơm nhà cửa sẳn sàng, cõi này có lúc vui lúc buồn, cõi kia thường vui bất tuyệt.
           Thế thì nên nghe theo lời Phật, không nên chấp theo những việc cho rằng trước mắt không thấy mà vội không tin lời Phật. Trong kinh nói 10 phương vô lượng Bồ Tát còn muốn cầu vãng sanh, huống chi ta là người thế nào mà không cầu vãng sanh đó ư ?
          Ta hãy tin lời Phật nói, Phật không bao giờ nói dối. Người đời vì ba việc mà nói dối, vì danh vì lợi, vì sợ tai nạn mà dối. Phật danh lợi đều xả bỏ, hoạn nạn phật không sợ ai thù, thì biết rằng Phật không bao giờ nói dối, cho nên ta phải tin lời Phật.
          Thế thì biết Phật dùng lời khuyên nhủ chỉ vì thương chúng sanh, chỉ vì sợ chúng ta nhọc ở trong bào thai, có sanh ắt có tử, có già đau bệnh chết. Cái già cướp mất sức mạnh của ta, có bệnh cướp mất sức khoẻ ta, cái đau làm ta khổ, có chết mới bắt linh hồn ta, có vinh mới sinh sự kêu căng, có nhục mới sinh sự nhụt chí, có sang mới khởi tâm kiêu ngạo, có giàu mới nặng lòng tham, có nghèo mới thấy thiếu thốn, có vui mới động lòng tình, có khổ mới đau tinh thần, có khen mới khởi lòng cao, có chê mới mất danh giá. Lạnh thì cảm thấy ép ngột thân, nóng thời sanh bực bội, khát thời khô cổ họng. đói thời xót ruột, kinh thời khiếp hồn, sợ thì mất vía. Thuận thời lớn lòng ác, nghịch thì sinh ra thù hèn ghét bỏ. Nào là dối vua, trái chống cha mẹ, ngạo đời, dua nịnh, sanh lòng dã thú, tham sự lợi, cầu tiếng danh, phỉnh gạt người, dềm pha dua nịnh, nương quyền ỷ thế, khinh rẻ kẻ cô, sâu lòng hại, tạo nghiệp nhiều, quạt lửa dục, thổi gió tham, rong theo trần bỏ tánh giác, làm việc bậy, lấp thiện nhân, chỉ ngó trước không xem lại sau, chỉ lo đi chẳng tưởng lo về, tưởng cầu cái sống đâu biết cái chết, thời giờ mỗi niệm như nấu như nung, mỗi bước sa vào hầm vậy. Nếu chúng ta biết lẽ đi tới Niết bàn, là khỏi sự sanh tử luân hồi, hưởng phần an lạc, thì cần phải biết con đường đi đến, đó là con đường chánh chân.

           Thấy chân chánh, suy nghỉ chân chánh, nói năng chân chánh, làm việc chân chánh, nuôi sống chân chánh, tinh tấn chân chánh, ghi nhớ chân chánh và thiền định chân chánh. Trên mọi lẽ chân chánh kia có đủ năng lực soi sáng thấy rõ nẽo tà đường vọng, giúp ta không lạc vào đường khổ, con ma sanh tử không còn dòm ngó nữa ./.

TỊNH ĐỘ KHỞI LÒNG TIN Rating: 4.5 Diposkan Oleh: CHÙA TAM BẢO TAM KỲ

0 nhận xét:

Đăng nhận xét