Thứ Hai, 14 tháng 11, 2016

TINH THẦN NHẬP THẾ

TINH THẦN NHẬP THẾ

Là thời đại mà con người phải đối mặt với cuộc sống. Trong Phật pháp nhân thiên thừa có đặc tính là tham luyến thế gian, đam mê những cảnh giới dục lạc của thế gian, không có khuynh hướng xuất thế. Pháp của Tiểu thừa và pháp của nhân thừa không giống nhau, ví dụ như quan điểm “ xem tam giới như nhà lửa, việc sanh tử như là oan gia ”, cần phải gấp rút ra khỏi khởi tâm ghê sợ và xa lìa, mong cầu được giải thoát. Khái niệm xuất thế không phải là ta đến một thế giới khác, ý nghĩa chính của nó là cần ra khỏi những phiền não của tam giới, không còn bị ràng buộc bởi những phiền não, để được giải thoát giác ngộ. Mục đích mà đức Phật nói pháp xuất thế của Tiểu thừa chính là để thích ứng với đời sống ẩn dật và khổ hạnh. Tinh thần xuất thế đương nhiên là tốt hơn tham luyến thế gian, vì nó có xu hướng khiến con người không tham đắm vào những vật dục và quyền lực của thế gian, tính không tham không sân và không si tạo thành cuộc sống thành thật đạm bạc.
     Tinh thần Bồ tát thừa thì không phải như vậy, Bồ tát là xuất thế nhưng lại là nhập thế, như gọi là “ lấy tinh thần xuất thế làm sự nghiệp nhập  thế ”. Một minh chứng cụ thể là “ Bồ tát được đề cập trong kinh điển của Phật giáo Đại thừa phần lớn là những người tại gia cư sĩ, không phải là người xuất gia. Tại gia Bồ tát thường cư trú trong thành thị với mục đích làm lợi ích cho chúng sanh. Như Kinh Hoa Nghiêm Phẩm Nhập Pháp Giới, Kinh Duy Ma Cật, Bổn Sanh Đàm, tất cả những vị Bồ tát được đề cập trong kinh này, đều là những vị tại gia Bồ tát ở trong lòng xã hội, dùng vô lượng hình thức vì chúng sanh mà nói pháp, đưa Phật pháp vào cuộc sống. Đó chính là sự biểu hiện tinh thần nhập thế của Bồ tát thuộc Phật giáo Đại thừa. Động lực thúc đẩy Bồ tát làm lợi ích chúng sanh là lòng từ bi, chỉ có lòng từ bi của Bồ tát cho nên mới nhảy vào hầm lửa, và trong địa ngục, để cứu độ chúng sanh. Tinh thần này cùng với sự luyến ái thế gian của nhân thiên không giống nhau, nó cũng không giống với quan điểm xuất thế của Tiểu thừa Thinh văn.
 Nếu chúng ta đứng từ góc độ của một người bình thường để nhìn về tinh thần nhập thế của Bồ tát, chúng ta thấy nó là những hành vi rất gần gũi và thân thiết với con người. Những thập niên vừa qua, văn minh về vật chất không ngững tiến bộ và phát triển. Điều đó biểu thị sự tham muốn của con người về vật chất đặc biệt nặng nề, nó đã làm lu mờ tinh thần thiểu dục tri túc, đời sống đạm bạc của Phật giáo Tiểu thừa.  Đứng trước thời đại như vậy, lấy giáo pháp của nhân thiên thừa để đi hóa độ, điều đó chẳng khác nào như lấy nước đi rửa nước, tất nhiên là khó, một cách miễm cưỡng lấy giáo pháp của Tiểu thừa để giáo hóa họ, chẳng khác nào như chúng ta làm cho Phật giáo và con người càng ngày càng xa cách hơn. Thiết nghĩ, chỉ có pháp Đại thừa, tức là căn cứ vào tinh thần, “ lấy tâm xuất thế làm việc nhập thế ” đồng thời từ trong pháp nhập thế nhiếp hóa chúng sanh hướng đến xuất thế, cuối cùng dung hòa giữa pháp xuất thế và nhập thế, khiến chúng không còn ngăn ngại lẫn nhau. Bồ tát hội nhập vào các thành phần xã hội, biểu thị tính đặc thù của tinh thần Bồ tát hạnh, từ xuất thế đến nhập thế mang ý nghĩa vừa cao thượng vừa bình thường. Đó là lý do để chúng ta nói rằng, bất cứ ai đều có thể học tập và thực hành con đường Bồ tát đạo, để mong được thành tựu giác ngộ.
    Đây là thời đại có khuynh hướng về tham luyến thế gian, chỉ có tinh thần nhập thế của Đại thừa mới có thể hòa nhập vào xã hội, tùy theo căn cơ của chúng sanh mà chuyển hóa, đồng thời mọi người trong xã hội cũng không cần phải sống lối sống ẩn cư đạm bạc. Ở thời xưa xã hội hỗn loạn chúng ta có thể từ bỏ xã hội, tìm nơi thâm sơn cùng cốc. Sống với đời sống đơn giản để duy trì mạng mạch của Phật pháp. Như cảnh Ngũ Đài Sơn ở Sơn Tây là nơi khi xã hội loạn lạc, người xuất gia đến đây tu tập. Nhưng tình hình xã hội ngày nay thì không giống như vậy, không những con người không đồng tình với thái độ ẩn dật của chúng ta mà còn níu kéo chúng ta sống trong xã hội, đồng thời đời sống thành thị và sơn lâm cũng không cách xa nhau mấy, do vậy vấn đề sống ẩn dật cũng không có tác dụng gì.
    Thật ra, phật giáo vốn sinh tồn trong đời sống xã hội với con người, sự kiện đức Phật và đoàn thể tăng già thường du hành ở nhân gian, đi từ thị trấn này đến thị trấn khác, đó là một điển hình cụ thể. Tinh thần của Phật giáo Đại thừa là nhằm thích nghi mọi tầng lớp người từng bối cảnh cụ thể của xã hội, do vậy bất cứ ở đâu có con người cư trú, không luận đó là thành thị hay thôn xóm, thì ở đó có Bồ tát, với mục đích làm lợi cho chúng sanh tuyên dương giáo pháp Đại thừa. Từ đó chúng ta thấy phật pháp không tách khỏi đời sống của xã hội, không xa lìa đời sống cụ thể của mỗi loài chúng sanh. Trong lúc cận kề xã hội nhưng không bị ô nhiễm bởi xã hội, tự mình tịnh hóa, tự mình giác ngộ và giải thoát. Như vậy, đời sống ẩn cư trong rừng núi với xã hội ngày hôm nay không còn thích hợp, chúng ta cần nên thay đổi quan niệm này, lấy tinh thần Bồ tát hòa nhập với xã hội. Phật giáo Trung Quốc đề cao đời sống ẩn dật trong sơn lâm cùng cốc chịu ảnh hưởng phái du già của Phật giáo Ấn Độ, sau khi phật giáo được truyền sang Trung Quốc, Phật giáo lại một lần nữa chịu ảnh hưởng tư tưởng ẩn dật của Lão Trang, kết hợp và hình thành cái gọi là Phật giáo Trung Quốc, gần 2000 năm trôi qua giữa Phật giáo và nền văn hóa bản địa có mối quan hệ hòa quyện và khắng khít. Nhưng vào thời đại ngày nay, tình hình xã hội có nhiều biển đổi, chính là lúc mà chúng ta cần phải làm rõ tính đặc thù của Phật giáo, khôi phục tinh thần nhập thế của Phật giáo./.

                                        ---------]---------

TINH THẦN NHẬP THẾ Rating: 4.5 Diposkan Oleh: CHÙA TAM BẢO TAM KỲ

0 nhận xét:

Đăng nhận xét