NGUYÊN TẮC CỦA LÝ LUẬN VỀ BỒ TÁT
Tư tưởng Phật giáo Đại thừa bắt nguồn từ “ Kinh Bổn sanh ”.
Điểm đặc thù của Đại thừa là tinh thần nhập thế, lấy sự nghiệp lợi ích cho
chúng sanh làm sự nghiệp. Việc làm của Bồ tát là việc làm phát xuất từ lòng từ
bi và trí tuệ, từ bi là lòng thương của Bồ tát, trí tuệ là sự giác ngộ hay sự
hiểu biết. Bồ tát lấy trí tuệ làm cơ sở để phát khởi tình thương, đó là chổ dựa
để thực thi tinh thần lợi sinh của Bồ tát, ngoài hai yếu tố này không dựa vào
bất cứ nguyên tắc nào, hay được chỉ đạo bất cứ lý do nào. Có lẽ, tinh thần nhập
thế của Phật giáo Đại thừa không trang bị hai yếu tố cơ bản này, cho nên nó là
nguyên nhân chủ yếu dẫn đến sự suy thoái của Phật giáo Đại thừa vào thời hậu
kỳ. Nhưng trong kinh Đại thừa đức Phật thường đề cập “ Bồ tát vì lòng từ bi
thường hòa nhập với mọi hình thức trong xã hội thực thi Bồ tát hạnh ”. Nhưng
trong đạo phật cũng có không biết bao nhiêu người tự xưng là Bồ tát thực hiện
sự nghiệp lợi sinh, nhưng không có trí tuệ, không rành phật pháp, phát khởi
lòng từ bi, lòng từ bi đó không có trí tuệ không chính đáng cho nên trở thành
tà pháp, hoặc phật pháp bị lợi dụng, cho nên dẫn đến sự suy thoái Phật pháp.
Sự “ tu tập ” bao gồm
có hai ý nghĩa: 1 là pháp 2 là Luật. Pháp là đạo lý được đức Phật nói ra, Luật
là nguyên tắc sống. Đứng về mặt hình thức được phân làm hai, nhưng thật ra chỉ
có một. Pháp và luật này luôn luôn là sự hỗ tương cho nhau, không thể tách rời
nhau. Pháp là đạo lý để hóa độ chúng sanh, luật là khuôn phép cho chúng sanh để
sống. Pháp là thuyết minh tính đạo lý tính nguyên tắc vận hành của vũ trụ và
nhân sanh, dạy cho chúng sanh biết như thế nào gọi là tu học, để thành tựu trí
tuệ và hoàn thành mục đích tối thượng là Phật quả. Pháp chú trọng mặt hiểu biết
tu chứng; Luật gồm có hai nghĩa: Một là “ chỉ trì ” có nghĩa là ngăn cấm không
được làm những hành vi không có đạo đức; hai là
“ tác trì ” là những công việc mà người tu cần phải làm. Do vậy, mỗi
hành vi cử chỉ nào của bất cứ thành viên nào đều cũng phải dựa vào hai nguyên
tắc là có lợi ích cho bản thân và tập thể mới hợp pháp. Khi Phật còn tại thế,
người Phật tử tại gia, đức Phật chỉ đơn giản khuyên dạy họ làm thế nào để tin
hiểu và tu tập phật pháp, nhưng chưa hình thành tổ chức cho người tại gia. Hơn
nữa, thể chế chính trị thời đại đó không cho phép hình thành tổ chức cho người
tại gia cư sĩ. Nhưng đến khi Phật pháp đã thịnh hành, phát triển ở trong xã hội,
nhân duyên biến đổi, một số giới điều không còn phù hợp, do vậy được mọi người
không mấy chú trọng luật, đó cũng là điều tất nhiên.
Dẫu rằng, luật do Phật chế, bất cứ ai cũng phải y cứ vào đó
hành trì, nhưng luật thuộc về loại “ Thế gian tất đàn ”, tức là những giới điều
mang tính thích ứng theo từng thời gian, không gian và con người cụ thể, không
phải là một “ định luật ”.
Có một số người chỉ biết phát tâm, làm các việc lợi ích cho
loài hữu tình, nhưng không biết gì về phật pháp, không biết gì về giới luật cả.
Nhưng trên thực tế thì mọi người cần phải y cứ vào nếp sống khuôn khổ, phải có
giới luật, phải có sự huyến luyện giáo dục và khích lệ của Tăng già, làm cho
hạt giống bồ đề người đó càng ngày càng sáng lên, đây là loại phương tiện cần
thiết cho sự giáo dục trong đạo phật. Khi Phật còn tại thế, trong Tăng đoàn
không phải không có hạng xuất gia với mục đích không tốt, nhưng sau khi xuất
gia, những người ấy sống dưới sự lãnh đạo của Tăng đoàn, họ lấy giáo pháp cải
thiện, sửa đổi ý niệm bất chính, lấy giới luật ngăn chận những hành vi xấu xa,
làm trong sạch tâm linh, đây là điểm đặc sắc của giới luật.
Nguyên tắc chung để hình thành giới luật, khi phật pháp lưu
hành ở thế gian, vì mục đích giải thoát, vì sự hòa hợp của tăng già, trong đó
có cả lý do vì để thích hợp với phong tục tập quán của xã hội mà hình thành
giới luật. Do vậy, giới luật trong đạo phật có mối quan hệ mật thiết với tập
tục thế văn hóa của xã hội đó. Vì sự tồn tại của phật pháp và lợi ích của con
người, do vậy phật pháp ở nhân gian cần phải y cứ vào tinh thần giáo dục và
hình thức giáo dục của đức Phật, biết phối hợp “ pháp ” và “ luật ”
làm nền tảng cho việc tu học. Nếu như người xuất gia hay cư sĩ xem thường
giới luật và nề nếp của tăng già là nguyên nhân xuất hiện những hiện tượng bất
chính, người đó không thể nhờ đâu mà tâm được thanh tịnh
Ngược lại nếu như, khư khư tuân giữ giới luật một cách cố
định mà không biết mục đích của việc tu học hành trì giới luật, thì sự hành trì
đó đôi khi đi ngược lại tinh thần giác ngộ và giải thoát.
Nhân gian Phật giáo lấy đời sống chơn chánh của con người làm
cơ sở để thực thi Bồ tát hạnh, cần tôn trong pháp và luật, làm sống dậy tinh
thần giáo dục trong sáng và thực tế vốn có trong đạo phật, không quá cố chấp
vào truyền thống của quá khứ, cũng không giúp ích gì cho đời sống hiện tại,
cũng không nên có thái độ quá khai phóng, bỏ qua nếp sống lành mạnh có giới
luật, có đạo đức. Chúng ta là những người tu học Bồ tát hạnh cần phải nắm rõ
tinh thần này. Không nên có thái độ cực đoan. Sự kết hợp song hành pháp và luật
chính là Phật pháp./.
---------—]–---------
0 nhận xét:
Đăng nhận xét