TINH THẦN ỨNG CƠ CỦA PHẬT PHÁP
Phật pháp vì thích ứng với căn cơ của chúng sanh mà thuyết
giáo, có nghĩa là trình độ của chúng sanh ở mức độ nào, thì Phật pháp cũng căn
cứ theo trình độ cả họ mà nói pháp. Vì thế trong Phật giáo chia ra nhiều thừa,
như Nhân thừa, Thiên thừa, Duyên giác thừa, Bồ tát thừa và Phật thừa. Phật pháp
lưu truyền ở Ấn Độ đương nhiên cần phải thích ứng với văn hóa Ấn Độ của xã hội
đương thời, ngay cả cách suy nghĩ của người dân Ấn. Phật pháp vì đáp ứng những
nhu cầu của từng thời đại khác nhau, từng khu vực khác nhau, do đó trong Phật
pháp cũng mang tính thời đại và khu vực. Phật pháp cùng với văn hóa cổ Ấn Độ có
mối quan hệ mật thiết, chúng ta cần phải
hiểu rõ vấn đề này, mới có thể tránh khỏi những ngộ nhận trong Phật pháp, không
bị trói buộc cố chấp bởi những quan điểm mang tính thời đại, đồng thời nó cũng không
phải là chân lý vĩnh viễn tồn tại và phù hợp trong mười phương tam thế.
Sự ước muốn của con
người, ở đời sau được sanh làm người, đây là tư tưởng của Nhân thừa, vì họ cho
rằng làm được thân người rất là đáng quý, cho nên phải nổ lực hoàn thành bổn
phận con người, cần thực thi những việc chánh hạnh mà nhân loại cần làm. Chúng
ta hiện có thân người và làm những việc tốt, đó là điều kiện cơ bản để kiếp sau
được làm người. Lý do vì mối quan hệ giữa nhân và quả rất mật thiết không thể
sai. Điều kiện sanh Thiên cũng giống như vậy, nếu như đời nay chúng ta tu tập giáo pháp của Thiên thừa,
trong tương lai chắc chắn được quả báo sanh thiên. Thực hành pháp nhân thừa,
tất nhiên được quả nhân báo, hành thiên pháp đắc thiên báo, đây là đạo lý nhân
quả trong Phật giáo không có gì nghi ngờ. Khi đức Phật chưa xuất gia còn ở đời,
văn hóa Ấn Đọ ở giai đoạn sơ kỳ, khái niệm nhân thừa và thiên thừa vốn chưa có,
ở giai đoạn này, những vấn đề mà con người suy nghĩ, chủ yếu là làm thế nào
trong cuộc sống của họ được hạnh phúc ngay trong thời này, đây là sự mong cầu
cơ bản nhất của nhân loại từ cá nhân đến chủng tộc và ngay cả quốc gia cũng đều
có mục đích như thế. Trong suy nghĩ của họ luôn luôn mong muốn trong cuộc sống
có hạnh phúc và làm thế nào để kéo dài cuộc sống này, để tận hưởng hạnh phúc
đó. Sự mong muốn này, trong Phật pháp gọi là “ Hiện pháp lạc trú ”. Nhưng trên
thực tế, hạnh phúc mà con người có được quá ngắn ngủi, vã lại những nhu cầu cần
thiết cho cuộc sống cũng không được đầy đủ, đồng thời có quá nhiều thiên tai,
nào là gió bão, lũ lụt, động đất, dịch bệnh v.v không những thế mà còn có quá
nhiều hiểm họa do con người gây ra như chiến tranh và hận thù tương tàn tương
sát. Do vậy con người mong muốn đời sau tiếp tục làm người và cũng từ đó hình
thành tư tưởng về cõi Thiên quốc, trong Phật pháp gọi là “ Hậu pháp lạc ”, thật
sự mà nói, tư tưởng này không có trong các tôn giáo của thời cổ Ấn Độ.
Sự mong cầu hạnh phúc ở hiện tại và ngay ở cõi nhân gian này,
và mong cầu hạnh phúc cho kiếp sau ở cõi nhân thiên, hai loại tư tưởng mang
tính tôn giáo này, gần với tư tưởng nhân thiên thừa trong Phật giáo. Điều này
không mang ý nghĩa, con người nên tu như thế này, chư thiên nên tu như thế kia,
mà nên nói rằng, con người nên làm như thế này, sẽ được nhân thân và thiên
thân. Vì hai loại này phát xuất từ góc độ con người mà nói, có nghĩa là do cuộc
sống chánh hạnh mà dẫn đến sanh thiên. Về sau tôn giáo Ấn Độ lại nảy sinh tư
tưởng về cuộc sống vĩnh cửu không bị chết, giống như tư tưởng của Cơ Đốc giáo
cho rằng Thiên quốc là cuộc sống vĩnh hằng. Vì lúc bấy giờ, người Ấn Độ cho
rằng, chúng sanh ở cõi thiên vẫn bị sanh tử, do đó họ mong cầu có một cõi nào
đó có cuộc sống bất tử. Họ cho rằng, chỉ có bậc tối cao Phạm Thiên là đấng bất
tử, Phạm thiên là uyên nguyên của vũ trụ, là cuộc sống vĩnh cữu thường trụ bất
biến. Con người có thể trở về với Phạm thiên, lúc ấy cuộc sống sẽ được sung
sướng vô cùng. Tư tưởng này còn mang ý nghĩa giải thoát.Con người do có sanh
nên có tử, rồi dần dần trở lại sanh, đây
là vấn đề khó hiểu của nhân sanh, nhưng không phải vì thế mà chúng ta chạy trốn
vấn đề.
Tư tưởng Phật giáo
vượt qua tư tưởng “ Hiện pháp lạc ” ( là pháp an vui hạnh phúc trong thời hiện
tại ) và “ Hậu pháp lạc ” ( là pháp an
lạc hạnh phúc ở mai sau ) Chủ yếu mong cầu sự cứu cánh giải thoát. Nhưng hầu
hết các tôn giáo của Ấn Độ đều cho rằng sanh Phạm thiên, hoặc “ Phạm ngã hợp
nhất” là sự an lạc cứu cánh. Ba quan điểm này, nói cho cùng là ước mơ chung của
nhân loại.
Khi Thế Tôn xuất
hiện ở đời, tư tưởng cứu cánh giải thoát đã hình thành và phổ biến khắp Ấn Độ.
Trong hai cõi nhân và thiên, người Ấn Độ cho rằng cõi thiên sung sướng hơn cõi
nhân, bởi cõi thiên là nơi “ Hậu pháp lạc ” họ tin rằng sanh cõi Phạm thiên là
cứu cánh giải thoát. Phương pháp tu tập để được hưởng phước lạc cõi nhân gian
và đời sau sanh vào cõi nhân thiên của các tôn giáo ở Ấn Độ cho rằng có 6 điều
kiện: 1/ Tế tự 2/ Chú thuật 3/ Đức
hạnh 4/Khổ hạnh 5/ Ẩn
dật 6 / Du già.
1/ Tế tự: Là chú trọng cúng tế tổ tiên, cúng bái thổ địa, chư thần
v. v.. cho đến các việc hôn lễ, canh tác, thâu hoạch v.v… Tối cao của việc tế
tự là tế trời đất.Các tôn giáo đều chú trọng vào việc tế tự, đều diển ra hằng
ngày, hằng tháng hằng năm. Mỗi một tôn giáo đều có nhiều cách tế tự hoặc giống
nhau hoặc khác nhau. Họ dùng lửa, hoa quả, gạo đường, sửa, bò trâu v.v..là
những phẩm vật mà con người cần để sống, họ mang tất cả vật quăng vào đám lửa
ấy làm lễ phẩm, biểu tượng lòng thành kính của mình đối với thần thánh. Họ cho
rằng những phẩm vật này khi đốt cháy, mùi hương sẽ bay lên cõi trời, thiên thần
sẽ nhận được phẩm vật của họ từ sự cúng dường này. Thiên thần sẽ sanh lòng hoan
hỷ, nhờ đó người trồng trọt sẽ được mùa, người chăn nuôi có kết quả thâu hoạch
tốt, sau khi chết sẽ trở lại làm người hay sanh lên cõi trời.
2- Chú thuật: Người dân Ấn
Độ ở thời cổ đại rất tin tưởng pháp tu này, nó không những ở Ấn Độ mà cũng ở
Trung Quốc cũng có pháp tu này, ý nghĩa của những bài chú chúng ta không thể
hiểu được. Người ta tin chú thuật có lực lượng vô hình, làm gạch nối giữa con
người trần thế với thế giới chư thiên, quỷ thần, qua đó có thể cảm thông nhau
được. Ở Ấn Độ mục đích của chú thuật là ngôn ngữ để tế tự, ngoài mục đích chân chính
này, chú thuật còn sử dụng vào việc bất chính, lợi dụng quỷ thần vì mục tiêu
làm tổn hại người khác để trục lợi.
3- Đức hạnh:
Như người giữ truyền thống đạo đức của tổ tiên, có bổn phận và trách
nhiệm của gia đình, thi hành nghĩa vụ quốc gia v.v. là những việc có ích
lợi cho con người và xã hội đều là những
nguyên nhân sinh vào cõi nhân thiên. Tế sư ngoài bổn phận và trách nhiệm phải
có lòng thật thà, thực hành những giới cấm, như không sát sanh, trộm cắp, tà dâm
v.v nếu làm các việc như vậy thì trì chú và sự cúng tế không có lợi ích gì. Qua
đó chúng ta thấy việc tế lễ mang ý nghĩa đạo đức, đó là những điều mà người Ấn
Độ rất chú trọng. Ba phương diện vừa nêu trên, là những phương pháp làm cho
cuộc sống này và đời sống kế tiếp được hạnh phúc.
4- Khổ hạnh: Có ý nghĩa là ngăn cấm dục vọng, như không
được hưởng thọ những vật dục, cần sự tiết chế tối đa. Ba điều ban đầu phần lớn
ai cũng làm được, chỉ có người xuất gia mới có thể thực hiện được, khổ hạnh là
sự biểu hiện tinh thần chiến thắng những vật dục. Thế nhưng, những loại khổ
hạnh cực đoan như chỉ đứng không nằm, không ăn, nằm trên gai v.v. Thật ra không
lợi ích gì cả. Khi Đức Phật còn tại thế, có rất nhiều người tu khổ hạnh cực
đoan, và được dân chúng rất kính ngưỡng. Những người tu khổ hạnh này, không
phải cầu nhân thừa, họ có khuynh hướng mong cầu sanh thiên hay giải thoát.
5-Ẩn
dật: Những người tu ẩn dật cho rằng
việc tế tự, chú thuật là những hình thức, vẫn bị gia đình và xã hội ràng buộc.
Người chân chính tu hành cần phải từ bỏ những hình thức tôn giáo, vào rừng sâu
chuyên tu tập. Thời gian mà Thế Tôn chưa xuất gia, phong trào tu khổ hạnh rất
thịnh hành, những người này cũng được gọi là Sa môn. Có người từ 50 đến 60
tuổi, sau khi hoàn thành trách nhiêm gia đình, từ bỏ gia đình, sống đời ẩn dật,
nhưng cũng có người xuất gia tu từ thuở nhỏ.
6- Du già: Là người sống cuộc
đời ẩn dật, có đời sống khổ hạnh, với pháp tu tập là Du già (yoga ) Pháp tu tập
du già giống như pháp tu tập thiền định trong Phật giáo. Cần phải khắc chế
những dục vọng, điều hòa hơi thở, tập trung tinh thần, để đạt đến cảnh giới
siêu việt. Cho rằng thân tâm thể nghiệm du già, là pháp môn tu để được sanh
thiên hoặc giải thoát sanh tử.
Sáu pháp môn ở trên, trong đó tế tự và chú thuật là phương
pháp dành cho mọi người cầu sanh nhân thiên, đức hạnh là phương pháp sống làm
người, nhằm nâng cao đời sống đạo đức, khổ hạnh, ẩn dật và du già là phương
pháp tu tập để sanh thiên hay cầu giải thoát. Đức Thế Tôn sinh ra trong xã hội
Ấn Độ, việc y cứ vào căn cơ và trình độ của mọi người mà nói pháp là điều cần
thiết. Đối với phong tục tập quán tín ngưỡng khác nhau cùng tồn tại trong một
xã hội, bằng phương pháp nào đức Phật tiếp thu và loại trừ những tập tục tín
ngưỡng ấy ?
Theo kinh điển để lại cho ta thấy, đức Phật tiếp thu nhân
thừa và thiên thừa. Nhưng không thừa nhận tế tự. Bà la Môn xem trọng tế tự.
Cũng giống như Do Thái giáo rất xem trọng việc tế tự, nhưng Ki Tô giáo lại bài
xích. Đối với vấn đề chú thuật đức Phật lại càng không đồng tình. Việc tế tự
của dân tộc Ấn Độ cần phải giết hại sinh vật, như bò dê để tế lễ, tốn hao tài
của, làm mệt mỏi mọi người, đức Phật cho rằng, làm như vậy chỉ làm tăng thêm
tội ác, không ích lợi. Người Phật tử không nên làm như vậy, thậm chí việc dùng
hương hoa cúng dường cũng nên đơn giản hóa. Nếu trong Phật giáo có đi chăng
nữa, nên hiểu rằng, đây chỉ là những phương tiện hóa độ chúng sanh, thuộc về
thế gian tất đàn.
Qua đó chúng ta có thể thấy tinh thần khaon dung của phật
giáo, không giống như Cơ Đốc giáo hay Hồi giáo, họ luôn luôn bài trừ những gì
khác mình, nhưng Phật giáo thì không chủ trương như vậy. vì lợi lạc chúng sanh
Phật giáo sẳn sàng hòa nhập, nhưng bao giờ hàm ý nghĩa lợi dụng. Đó là đặc tính
của người Đông phương, nhưng cũng vì tinh thần khoan dung này Phật pháp bị ảnh
hưởng xấu mang lại những điều tệ hại, những tín đồ Phật giáo không tìm hiểu học
tập tính trong sáng của đức Phật, lại còn mang hình thức tế tự tổ tông một cách
rườm rà, đây là tập quán chung của người Trung Quốc và Ấn Độ.
Đức hạnh của cõi nhân và thiên gồm có ba loại: Bố thí, trì giới
và thiền định, được gọi là ba phước nghiệp của thế gian. Bố thí là đức tính hy
sinh, đem những vật mà mình có giúp đỡ cho người khác, không tham lam keo kiệt.
Trì giới là sự chế ngự phiền não, quan hệ với mọi người bằng tâm chính đáng,
giữ gìn hành vi của mình không phương hại đến người khác. Định là sự điều phục
tâm, diệt trừ phiền não, ở đây rất chú trọng lòng từ bi, vì lợi ích cho mọi
người./
---------—]–---------
0 nhận xét:
Đăng nhận xét