ÂN TÌNH CỦA THẾ TÔN ĐỐI VỚI TỔ QUỐC
Thế Tôn là người có tư
tưởng quốc tế hóa. Quốc tế hóa không đồng nghĩa dùng vũ lực đi xâm chiếm kẻ
khác, là việc Thế Tôn không đồng tình. Ngài từng phát biểu: “ Chiến thắng càng
thêm nhiều thù oán. Người chiến bại không ngủ yên, kẻ chiến thắng lòng thêm
kiêu ngạo, do vậy, thắng bại đều nên từ bỏ, giấc ngủ thật an vui.”. Đây là lời
giáo huấn rất nổi tiếng của Thế Tôn đối với kẻ xâm lược. Người đời đánh giá đạo
Phật, người theo Phật xem nhẹ bổn phận đối với quốc gia xã hội, đó là sự suy
nghĩ rất sai lạc.
Thế Tôn khi chứng đạo, Ngài đề cao con đường giải thoát, con
đường đó dĩ nhiên có liên hệ đến con người và xã hội mà chúng ta đang sống đây.
Có thể nói đây là quan điểm rất đúng, tất nhiên phải tịnh hóa thế gian. Thế Tôn
chủ trương bình đẳng giữa các chủng tộc, nhằm xóa bỏ những vấn đề đối lập,
khinh thị giữa các chủng tộc, nhất là sự cưởng bức một cách phi pháp, phê phán
sự tàn sát của kẻ xâm lược, cổ vủ tinh thần hòa hợp không chiến tranh, và không
hận thù. Không những chỉ có thế, ngoài ra Ngài còn tổ chức một đoàn thể tự do
sinh hoạt trong tinh thần hiểu biết và bao dung, cũng là một chủng tộc tự do
mang tính xã hội.
Đức Phật quan sát thế gian bị các thứ khổ nung nấu không có
con đường thoát, sanh, lão, bệnh, tử, ưu,bi, khổ, não là tám thứ khổ của con
người. Đức Phật cống hiến cho mọi người phương pháp để giải quyết nổi khổ đau
của con người. Nếu không thấy rõ ái là nguồn gốc sanh ra sự khổ đau, điều đó có
nghĩa là sự xuất hiện ái và thủ. Ái là sự tham luyến sanh mạng cùng sự chấp
trước đối với tất cả tài vật. Thủ là sự phát huy lòng ái dục về tự ngã, là yếu
tố chính để phát sinh sự cạnh tranh giữa người này với người nọ, giữa gia đình
với gia đình, giữa quốc gia với quốc gia. Vì mong muốn chiếm đoạt thành cái của
riêng mình. Trong kinh đề cập đến “ Ái và thủ ” là muốn nói đến nhân loại vì có
ái thủ nên có sự mong cầu, mong cầu mà không được liền phủ nhận hay hoài nghi
giá trị về sự nổ lực làm việc của con người, cho nên dẫn đến tín ngưỡng, tin
tưởng vào Thượng đế có khả năng ban bố ân huệ cho con người, đó là nguyên nhân
dẫn đến chủ trương “ vô nhân luận ” ( học thuyết chủ trương không có nhân duyên
) hay “ túc mạng luận ” ( Học thuyết chủ trương
đều do kiếp trước định đoạt ). Ngược lại nếu như mong cầu toại nguyện,
thì sinh tâm gìn giữ cất giấu, nếu như lỡ bị mất, đau khổ không lường, giống
như cá bị phơi trên bãi cát nóng. Vì nhân loại lấy ái làm gốc, cho nên cha mẹ
anh em cùng nhau chê bai trách móc. Tình trạng này càng ngày càng phổ biến, nó
cũng là động cơ giữa quốc gia này với quốc gia khác tranh đoạt xâm chiếm lẫn
nhau, chiến đấu nhau, từ đó mới có khổ đau về người chết hay bị thương tật vì
chiến tranh, những nổi khổ vì lòng tranh giành không làm sao kể xiết. Thế
thì,những nổi khổ Phật giáo đưa ra không giới hạn chỉ có lão và tử.
Muốn giải quyết những thống khổ này, cần phải phá trừ ái thủ
của tự ngã, chúng ta phải cải đổi những hành vi sai trái của thân tâm. Khi thân
tâm của con người đã được cải thiện, đó là nhân tố cho sự tiến bộ của xã hội,
muốn giải quyết một cách căn bản là cần phải xuất thế. Thế gian và xuất thế
gian không phải là vấn đề tương phản đối nghịch nhau, Sự cải thiện và tịnh hóa
thế gian, chắc chắn không phải là sự chướng ngại cho sự giải thoát của tư tưởng
xuất thế gian.
Điều quan trọng của Phật giáo là giải quyết những vấn đề liên
quan đến sự sống. Nếu chúng ta giải quyết được những vấn đề khi chúng ta đang
còn sống, thì tự nhiên những vấn đề sau khi chết cũng sẽ được giải quyết. Sự
thật Phật giáo đề cập “ liễu sanh tử ” đây là quan điểm rất đúng. Khái niệm “
sanh tử ” này mang ý nghĩa sự sanh sanh tử tử của chúng ta không bao giờ dừng
nghỉ, từ sanh đến tử, rồi từ tử đến sanh. Vì để nhấn mạnh ý nghĩa này, cho nên
gọi là “ liễu sanh thoát tử ”. Nhưng nếu như vấn đề sanh chúng ta không hiểu
thì làm sao hiểu được vấn đề tử, thế thì chúng ta chú trọng lúc tử mà quên đi
lúc sanh là không đúng.
---------—]–---------
0 nhận xét:
Đăng nhận xét