PHẬT GIÁO VÀ CUỘC SỐNG
(
Hòa Thượng Ấn Thuận thuyết giảng )
Khi Thế Tôn giác ngộ dưới gốc cây Bồ đề, cùng với nhưng gì mà
các tôn giáo ở Ấn Độ đề cập và chủ trương hoàn toàn không giống nhau. Ví dụ như
Bà La Môn cho rằng tế tự sẽ được sanh thiên, hay Kỳ Na giáo cho rằng khổ hạnh sẽ được giải thoát. Đó là
những trào lưu chủ trương của các tôn giáo và xã hội đương thời. Nhưng đức Phật
không chủ trương như vậy, vì nó không phù hợp với sự thật. Đó là lý do tại sao
Thế Tôn than rằng: “ Giáo pháp mà ta chứng ngộ thậm thâm vi diệu, thật khó có
người hiểu nổi. Do vậy ta không nói pháp ấy, muốn nhập Niết bàn. ”.
Phật giáo là một tôn giáo đặc biệt chú trọng vai trò lý trí.
Như thế chúng ta không nên làm mất đi tính đặc thù này của đức Phật, dưới tư
cách là vị Đạo sư của loài người, lại không thể chuyển đổi một tôn giáo đề cao
trí tuệ thành một tôn giáo đề cao tín ngưỡng mang tính huyền bí. Nếu chúng ta
chỉ đơn giản dựa vào những yếu tố như là thanh tịnh, thân tướng tốt đẹp, viên
mãn, yếu tố xuất gia thành Phật, nhập diệt để hình thành ý nghĩa Phật giáo,
điều đó cũng không nói lên được ý nghĩa tôn giáo của ngài.
Là Phật tử thuần thành và chân chánh cần phải nắm rõ lý do
nào đức Phật có được sự sùng kính của con người, chính là lòng từ bi và trí tuệ
của Ngài, cho nên gọi Ngài là Phật. Chỉ có ở đây và con người mới có thể thành
Phật, mới có thể hoàn thành nhân cách một vị Phật, chính vì vậy mà chúng ta mới
nuôi dưỡng lòng tin và ước muốn thành một vị Phật như Ngài. Con người vốn có
hai yếu tố này mà con người đi tìm chân lý và tự do. Đó là mục tiêu của Phật
giáo ở tại thế gian.
Sở dĩ Ngài được gọi là Phật, vì Ngài có khả năng như thế nên
gọi Ngài là Phật, tức sinh mạng và thể tánh của Ngài, như trong kinh nói “
Người nào thấy được duyên khởi là người ấy thấy pháp, người nào thấy pháp người
ấy thấy Phật ”. đây là pháp thân của Phật. Tại sao vị Sa Môn Cù Đàm tu khổ hạnh
được mọi người tôn kính xưng là Phật ? Điều này chắc chắn không phải Ngài là vị
hoàng tử xuất gia, tu khổ hạnh, hoặc nói pháp, mà yếu tố chính Ngài là người đã
giác ngộ. Giác ngộ chân lý của nhân sinh là pháp duyên khởi. Bản chất của pháp
duyên khởi là chỉ cho chúng ta thấy sự tồn tại của các pháp đều do nhân duyên,
không có pháp nào mang tính thường hằng, độc lập tồn tại, hay tự nhiên mà sanh.Tất
cả mọi pháp đều có quy luật chung là đầy đủ nhân duyên thì sanh, hết nhân duyên
thì tan rã, là sự tồn tại trong mối quan hệ mật thiết. Đức Phật khi thực hành
thiền định, với trí tuệ Ngài thấy được sự huyễn hóa của tánh duyên khởi mà
chứng ngộ sự đoạn diệt của duyên khởi. Chính vì Ngài đã thành tựu sự giác ngộ
này, cho nên thế nhân gọi Ngài là Phật. Thế thì, nếu như chúng ta cũng giác ngộ
tánh sanh diệt của duyên khởi này, điều đó cũng có nghĩa là chúng ta đạt được
sự giác ngộ như Phật, được gọi là Phật. Đây chính là vấn đề trung tâm của Phật
giáo, nếu chúng ta có được sự hiểu biết như thật như Ngài, thì chúng ta không
có sự hiểu biết tưởng tượng của chúng ta.
---------—]–---------
Sự tổ chức của Tăng
đoàn, có thể nói là sự biểu hiện một cách cụ thể của pháp tánh. Do đó, sự tồn
tại của Phật pháp không phải là sự tồn tại của tự viện, Phật tượng, kinh điển,
các hình thức của Phật giáo v.v.. nó tùy thuộc vào Tăng già thể hiện được bản
hoài của đức Phật và sự thanh tịnh của Tăng già hay không. Vì Tăng có trách
nhiệm hoằng dương Phật pháp, không phải là sự vĩ đại của cá nhân, cũng không
phải là ẩn cư trong rừng sâu.
Duyên khởi tánh là pháp thân của Phật, sự hòa hợp của chúng
Tăng là tuệ mạng của Phật. Trong đức Phật có khả năng như thế nên gọi Ngài là
Phật, toàn bộ thân và tâm của những đệ tử của Phật tác thành tánh chất của
Phật.
---------—]–---------
0 nhận xét:
Đăng nhận xét