Thứ Hai, 14 tháng 11, 2016

NHỮNG ĐIỀU KIỆN CƠ BẢN CHO VIỆC TU TẬP

NHỮNG ĐIỀU KIỆN CƠ BẢN CHO VIỆC TU TẬP

Mục đích của việc học Phật pháp là tu trì. Chữ “trì ”  ở đây là thọ trì, có nghĩa là chọn lựa những pháp lành mà hành trì: còn chữ “ tu ”  là sự thu thập và tu tập, có nghĩa là y cứ vào Phật pháp mà tu tập. Từ này theo tiếng Hoa giải thích là tu thân, sửa đổi, sửa chữa…, như vậy, chữ “tu ” có nghĩa là sự cải chính. Căn cứ vào Phật pháp mà giải thích, thì chữ này mang ý nghĩa huân tập và phát triển, Do vì có sự tu tập, cho nên nó mới tạo thành sự huân tập và phát triển thiện căn trong hiện tại và tương lai. Có người giải thích tu trì có nghĩa là từ bỏ tất cả, ngay cả những việc làm chính đáng của mình, quan điểm này mang ý nghĩa không đồng với sự tu tập trong Phật giáo Đại thừa. Lý do vì những pháp môn tu tập của Đại thừa như Bố thí, trì giới, ái ngữ, lợi hành, đồng sự, tập định, tu huệ, niệm phật, cúng dường, sám hối… nói tóm lại, bất cứ làm việc gì mang tính tự lợi và lợi tha, làm tăng trưởng phước đức trí tuệ đều gọi là tu hành, nó không mang ý nghĩa từ bỏ những việc làm ích lợi của thế gian. Y cứ vào những thiện pháp trong nhân gian mà tu tập Bồ tát hạnh.
    Trong quá trình tu học Phật pháp “ lòng tin  ” là giai đoạn đầu tiên và cơ bản nhất, nếu không có lòng tin thì Phật pháp không từ đâu mà sanh khởi, như cây cối từ gốc rễ mà được trưởng thành, nếu cây mà không có gốc thì nhành lá không từ đâu mà có. Trí tuệ là cái cơ bản để chặt dứt phiền não, cũng là cái đưa đến giác ngộ chân lý, giải thoát sanh tử, nếu như không có trí tuệ thì sự giải thoát giác ngộ cũng không từ đâu mà có.
   Phật giáo Tiểu thừa đặc biệc chú trọng lòng tin và trí tuệ, nhưng ngược lại Phật giáo Đại thừa chú trọng lòng “ từ bi ”, bởi vì mục đích của Bồ tát hạnh lấy lợi tha cứu giúp chúng sanh làm sự nghiệp, nếu như lòng từ bi chưa đầy đủ, thì tinh thần Bồ tát hạnh không thể thành tựu, phải trở lui lại pháp môn Tiểu thừa mà tu tập.
Như trong kinh nói rằng, “ Lòng tin là nơi nương tựa của lòng mong muốn, sự mong muốn là động lực của sự tinh cần ”. Nếu như chúng ta có lòng tin kiên cố thì chúng ta sẽ có sự ước muốn rất mạnh mẽ, tất nhiên nó sẽ là sự nổ lực hành trì thiện pháp. Như vậy, lòng tin sự mong muốn và sự nỗ lực có mối quan hệ rất chặt chẽ, trong đó điều căn bản là lòng tin. Như có người nói pháp môn này tu tập rất tốt, ngoài pháp môn này không thể liễu sanh thoát tử, nhưng trên thực tế người ấy không y cứ vào pháp môn tu tập, điều đó chứng minh rằng, người đó không có lòng tin, vì người đó không có sự mong cầu, cho nên không có lòng tinh tấn hành trì. Ví như người có bịnh nặng, nghe nói có loại thuốc nào đó có thể trị lành bịnh, nếu như người bịnh có lòng tin tưởng với lời nói ấy, chắc chắn người ấy bằng khả năng của mình, nỗ lực tìm cầu loại thuốc ấy, nếu như người ấy không nỗ lực tìm cầu, điều đó có nghĩa là không tin tưởng loại thuốc này có thể trị lành bịnh. Do đó, nguyện và tinh tấn lấy lòng tin làm cơ sở, có thể nói rằng, có lòng tin tức có sự mong cầu và tinh tấn, không có lòng tin không có mong cầu và tinh tấn.
Trí tuệ từ định mà có, nếu không có thiền định thì không có trí tuệ, như vậy thiền định làm cơ sở cho trí tuệ sanh khởi. Sự hiện diện của trí tuệ mới có thể hình thành những phương tiện thiện xảo. Từ bi là động lực để thực hành hạnh lợi tha, ví như dẫu có hại mình nhưng vì lợi ích người khác mà bố thí, kiềm chế mình mà vì đại chúng mà trì giới, sự nhẫn nại trong việc khắc chế mình khi sanh tâm nóng giận người khác, tất cả những hành vi đó đều xuất phát từ lòng từ bi. Y cứ vào hạnh của nhân thừa mà học tu Bồ tát thừa. Như vậy, ba pháp này bao gồm tất cả pháp môn trong đó có cả lục độ Ba la mật và Tứ nhiếp pháp, nó là điều kiện làm sống dậy tín tâm và sanh khởi trí tuệ, cũng là pháp nuôi dưỡng từ bi tâm, chính là pháp môn căn bản của Đại thừa Bồ tát đạo.
Tin là tin Tam bảo, tin pháp Tứ đế, những pháp nào mà làm tăng trưởng lòng tin chúng ta cần học tập những pháp ấy. Trong Đại thừa Phật pháp có nói rằng, người bắt đầu học pháp Đại thừa, trước hết phải khởi lòng tin. Những pháp môn như niệm Phật, lễ Phật, tùy hỷ, cúng dường, sám hối … Đều thuộc pháp của những người sơ học, nó là phương tiện làm tăng trưởng tín tâm. Mục đích của người học phật là muốn được thành Phật thành tổ, như vậy thời thời khắc khắc cần phải lễ Phật, niệm Phật, niệm pháp và niệm Tăng, nếu chúng ta có thành tâm tín tâm như vậy mới có thể thành Phật. Người Phật tử lúc nằm mộng hay trong lúc ngồi thiền thường thấy chư Phật và Bồ tát, điều đó biểu thị người đó có lòng tin kiên cố, sau khi đã có tín tâm rồi, chúng ta cần bước lên một bước thứ hai là học tập phật pháp và hiểu rõ phật pháp. Sự hiểu rõ Phật pháp đó, nó có công năng cho chúng ta biết rằng, không phải Phật pháp thì không thể có tự lợi và lợi tha. Sự xuất hiện lòng từ bi là từ lòng tin, nếu như lòng tin đó mà được trợ giúp của bi và trí thì lòng tin đó càng kiên cố, từ đó nó phát sinh một sức mạnh tức là phát nguện, bất luận sự việc gian nan như thế nào đi nữa nhất định học tập và hộ trì Phật pháp. Cùng nói nói về ý này, Khổng Tử có câu: “ nếu như dân không có lòng tin thì nhà vua khó có thể thành tựu ”. Việc của thế sự mà còn dựa vào chữ “ Tín  ” để thành tựu, huống gì chúng ta là người học tập pháp xuất thế gian ? Nhưng vì để đạt được mục đích tự mình giác ngộ và giác ngộ người khác thì không thể thiếu vai trò của trí tuệ, tuy rằng ý nghĩa của lời Phật dạy rất sâu xa khó hiểu, nhưng khi chúng ta tụng đọc kinh điển có sự trợ giúp của trí tuệ, thì chánh trí chánh kiến phát sanh, nhờ vậy mà hiểu được ý nghĩa sâu xa của Phật pháp. Nói đến lòng từ bi, mỗi tôn giáo lớn đều có dùng đến khái niệm này, như nhà Nho gọi là lòng “ Nhân ”, đạo Ki Tô gọi là “ ái ”, khái niệm nhân và ái không giống như khái niệm từ bi trong đạo phật. Pháp bốn Vô lượng tâm là từ bi hỷ và xả là nói đến cái tâm vô lượng vô biên, không có giới hạn. Ví như người phát Bồ đề tâm, tâm họ thường nghĩ nhớ thương mến đến mọi loài chúng sanh đang sống trong khổ đau, lòng thương không giới hạn đó gọi là lòng từ bi. Ý nghĩa này cũng được nhà Nho miêu tả “ Kiến kỳ sanh bất kiến kỳ tử, văn kỳ thanh bất nhẫn kiến kỳ nhục ”. Khái niệm  “ bất nhẫn  ” là nói lên lòng trắc ẩn mà hình thành. Trong Phật giáo Đại thừa cấm không được ăn thịt của chúng sanh, đây chính là biểu hiện lòng từ bi trong Phật giáo Đại thừa.
    Tóm lại, nếu chúng ta có lòng tin kiên cố là điều kiện cơ bản để phát sanh trí tuệ, cũng là yếu tố duy nhất để nuôi dưỡng lòng từ bi, Phật pháp cũng nhờ vậy mà dần dần được hưng thịnh.
    Tín là trang nghiêm cõi tịnh độ
    Trí là thanh tịnh thân tâm
     Bi là tịnh hóa loài hữu tình.
  Nếu như chúng ta thành tựu ba pháp tín, trí và bi, có nghĩa chúng ta đã thành tựu yếu tố cơ bản của Bồ tát, vì tín có năng lực để trang nghiêm cõi Tịnh độ, những thành tựu này đều do công đức thâm tín chư Phật và phát nguyện mà thành; Trí là điều kiện cơ bản để thân tâm được thanh tịnh, là công năng để giác ngộ chân lý, đoạn trừ tất cả phền não. Thành đạt được chánh trí tuệ, ba nghiệp thân khẩu ý nhờ vậy đều được thanh tịnh; Từ bi là pháp để cứu giúp loài hữu tình, thực thi Bồ tát hạnh. Bồ tát cứu độ chúng sanh bằng nhiều hình thức khác nhau, có thể lấy vật chất để giúp đỡ sự nghèo đói, có thể dùng chánh trị, đưa ra những chính sách đúng đắn tiến bộ, để kinh tế phồn vinh, xã hội an định… Điểm này chúng ta thấy trong kinh điển của Phật giáo Đại thừa có rất nhiều nơi ghi chép. Nhưng vai trò chính của Bồ tát cứu độ các loài hữu tình. Chính là thúc đẩy khuyến khích loài hữu tình phát tâm Bồ đề, làm các việc lành, theo con đường chánh mà hướng đến quả báo an lạc.
   Do đó, nếu như chúng sanh có hạnh lành của nhân thiên thì Bồ tát dùng pháp lành của nhân thiên mà hóa độ họ; nếu như người nào ưa thích pháp của hàng nhị thừa thì dùng pháp nhị thừa độ họ, nếu như người nào thích pháp nhất thừa thì lấy giáo pháp nhất thừa giáo hóa họ, nếu như có người ưa thích Phật thừa thì dùng Phật thừa pháp môn giới thiệu cho họ, khiến cho họ học tập hạnh Bồ tát, hướng đến Phật quả. Những việc vừa liệt kê đều xuất phát từ lòng từ bi của Bồ tát. Như vậy, ba việc của Bồ tát đạo là khởi lòng tin, sanh trí tuệ và trưởng dưỡng lòng từ bi. Từ đó chúng ta thấy rằng từ vị trí con người phát tâm thực hành Bồ tát hạnh, lấy lòng tin, trí tuệ và lòng từ bi làm phương tiện tu tập, ba phương diện này cùng nhau phát triển, không bỏ một pháp nào trong ba pháp này, cũng không nên xem thiên về một pháp nào. Đây là pháp chân chánh của Bồ tát đạo./. 

---------]---------

NHỮNG ĐIỀU KIỆN CƠ BẢN CHO VIỆC TU TẬP Rating: 4.5 Diposkan Oleh: CHÙA TAM BẢO TAM KỲ

0 nhận xét:

Đăng nhận xét