NHỮNG ĐIỀU KIỆN CƠ BẢN CHO VIỆC TU TẬP
Mục đích của việc học Phật pháp là tu trì. Chữ “trì ” ở đây là thọ trì, có nghĩa là chọn lựa những
pháp lành mà hành trì: còn chữ “ tu ” là
sự thu thập và tu tập, có nghĩa là y cứ vào Phật pháp mà tu tập. Từ này theo
tiếng Hoa giải thích là tu thân, sửa đổi, sửa chữa…, như vậy, chữ “tu ” có
nghĩa là sự cải chính. Căn cứ vào Phật pháp mà giải thích, thì chữ này mang ý
nghĩa huân tập và phát triển, Do vì có sự tu tập, cho nên nó mới tạo thành sự
huân tập và phát triển thiện căn trong hiện tại và tương lai. Có người giải
thích tu trì có nghĩa là từ bỏ tất cả, ngay cả những việc làm chính đáng của
mình, quan điểm này mang ý nghĩa không đồng với sự tu tập trong Phật giáo Đại
thừa. Lý do vì những pháp môn tu tập của Đại thừa như Bố thí, trì giới, ái ngữ,
lợi hành, đồng sự, tập định, tu huệ, niệm phật, cúng dường, sám hối… nói tóm
lại, bất cứ làm việc gì mang tính tự lợi và lợi tha, làm tăng trưởng phước đức
trí tuệ đều gọi là tu hành, nó không mang ý nghĩa từ bỏ những việc làm ích lợi
của thế gian. Y cứ vào những thiện pháp trong nhân gian mà tu tập Bồ tát hạnh.
Trong quá trình tu
học Phật pháp “ lòng tin ” là giai đoạn
đầu tiên và cơ bản nhất, nếu không có lòng tin thì Phật pháp không từ đâu mà
sanh khởi, như cây cối từ gốc rễ mà được trưởng thành, nếu cây mà không có gốc
thì nhành lá không từ đâu mà có. Trí tuệ là cái cơ bản để chặt dứt phiền não,
cũng là cái đưa đến giác ngộ chân lý, giải thoát sanh tử, nếu như không có trí
tuệ thì sự giải thoát giác ngộ cũng không từ đâu mà có.
Phật giáo Tiểu thừa
đặc biệc chú trọng lòng tin và trí tuệ, nhưng ngược lại Phật giáo Đại thừa chú
trọng lòng “ từ bi ”, bởi vì mục đích của Bồ tát hạnh lấy lợi tha cứu giúp
chúng sanh làm sự nghiệp, nếu như lòng từ bi chưa đầy đủ, thì tinh thần Bồ tát
hạnh không thể thành tựu, phải trở lui lại pháp môn Tiểu thừa mà tu tập.
Như trong kinh nói rằng, “ Lòng tin là nơi nương tựa của lòng
mong muốn, sự mong muốn là động lực của sự tinh cần ”. Nếu như chúng ta có lòng
tin kiên cố thì chúng ta sẽ có sự ước muốn rất mạnh mẽ, tất nhiên nó sẽ là sự
nổ lực hành trì thiện pháp. Như vậy, lòng tin sự mong muốn và sự nỗ lực có mối
quan hệ rất chặt chẽ, trong đó điều căn bản là lòng tin. Như có người nói pháp
môn này tu tập rất tốt, ngoài pháp môn này không thể liễu sanh thoát tử, nhưng
trên thực tế người ấy không y cứ vào pháp môn tu tập, điều đó chứng minh rằng,
người đó không có lòng tin, vì người đó không có sự mong cầu, cho nên không có
lòng tinh tấn hành trì. Ví như người có bịnh nặng, nghe nói có loại thuốc nào
đó có thể trị lành bịnh, nếu như người bịnh có lòng tin tưởng với lời nói ấy,
chắc chắn người ấy bằng khả năng của mình, nỗ lực tìm cầu loại thuốc ấy, nếu
như người ấy không nỗ lực tìm cầu, điều đó có nghĩa là không tin tưởng loại
thuốc này có thể trị lành bịnh. Do đó, nguyện và tinh tấn lấy lòng tin làm cơ
sở, có thể nói rằng, có lòng tin tức có sự mong cầu và tinh tấn, không có lòng
tin không có mong cầu và tinh tấn.
Trí tuệ từ định mà có, nếu không có thiền định thì không có
trí tuệ, như vậy thiền định làm cơ sở cho trí tuệ sanh khởi. Sự hiện diện của
trí tuệ mới có thể hình thành những phương tiện thiện xảo. Từ bi là động lực để
thực hành hạnh lợi tha, ví như dẫu có hại mình nhưng vì lợi ích người khác mà
bố thí, kiềm chế mình mà vì đại chúng mà trì giới, sự nhẫn nại trong việc khắc
chế mình khi sanh tâm nóng giận người khác, tất cả những hành vi đó đều xuất
phát từ lòng từ bi. Y cứ vào hạnh của nhân thừa mà học tu Bồ tát thừa. Như vậy,
ba pháp này bao gồm tất cả pháp môn trong đó có cả lục độ Ba la mật và Tứ nhiếp
pháp, nó là điều kiện làm sống dậy tín tâm và sanh khởi trí tuệ, cũng là pháp
nuôi dưỡng từ bi tâm, chính là pháp môn căn bản của Đại thừa Bồ tát đạo.
Tin là tin Tam bảo, tin pháp Tứ đế, những pháp nào mà làm
tăng trưởng lòng tin chúng ta cần học tập những pháp ấy. Trong Đại thừa Phật
pháp có nói rằng, người bắt đầu học pháp Đại thừa, trước hết phải khởi lòng
tin. Những pháp môn như niệm Phật, lễ Phật, tùy hỷ, cúng dường, sám hối … Đều
thuộc pháp của những người sơ học, nó là phương tiện làm tăng trưởng tín tâm.
Mục đích của người học phật là muốn được thành Phật thành tổ, như vậy thời thời
khắc khắc cần phải lễ Phật, niệm Phật, niệm pháp và niệm Tăng, nếu chúng ta có
thành tâm tín tâm như vậy mới có thể thành Phật. Người Phật tử lúc nằm mộng hay
trong lúc ngồi thiền thường thấy chư Phật và Bồ tát, điều đó biểu thị người đó
có lòng tin kiên cố, sau khi đã có tín tâm rồi, chúng ta cần bước lên một bước
thứ hai là học tập phật pháp và hiểu rõ phật pháp. Sự hiểu rõ Phật pháp đó, nó
có công năng cho chúng ta biết rằng, không phải Phật pháp thì không thể có tự
lợi và lợi tha. Sự xuất hiện lòng từ bi là từ lòng tin, nếu như lòng tin đó mà
được trợ giúp của bi và trí thì lòng tin đó càng kiên cố, từ đó nó phát sinh
một sức mạnh tức là phát nguện, bất luận sự việc gian nan như thế nào đi nữa
nhất định học tập và hộ trì Phật pháp. Cùng nói nói về ý này, Khổng Tử có câu:
“ nếu như dân không có lòng tin thì nhà vua khó có thể thành tựu ”. Việc của
thế sự mà còn dựa vào chữ “ Tín ” để
thành tựu, huống gì chúng ta là người học tập pháp xuất thế gian ? Nhưng vì để
đạt được mục đích tự mình giác ngộ và giác ngộ người khác thì không thể thiếu
vai trò của trí tuệ, tuy rằng ý nghĩa của lời Phật dạy rất sâu xa khó hiểu,
nhưng khi chúng ta tụng đọc kinh điển có sự trợ giúp của trí tuệ, thì chánh trí
chánh kiến phát sanh, nhờ vậy mà hiểu được ý nghĩa sâu xa của Phật pháp. Nói
đến lòng từ bi, mỗi tôn giáo lớn đều có dùng đến khái niệm này, như nhà Nho gọi
là lòng “ Nhân ”, đạo Ki Tô gọi là “ ái ”, khái niệm nhân và ái không giống như
khái niệm từ bi trong đạo phật. Pháp bốn Vô lượng tâm là từ bi hỷ và xả là nói
đến cái tâm vô lượng vô biên, không có giới hạn. Ví như người phát Bồ đề tâm,
tâm họ thường nghĩ nhớ thương mến đến mọi loài chúng sanh đang sống trong khổ
đau, lòng thương không giới hạn đó gọi là lòng từ bi. Ý nghĩa này cũng được nhà
Nho miêu tả “ Kiến kỳ sanh bất kiến kỳ tử, văn kỳ thanh bất nhẫn kiến kỳ nhục
”. Khái niệm “ bất nhẫn ” là nói lên lòng trắc ẩn mà hình thành.
Trong Phật giáo Đại thừa cấm không được ăn thịt của chúng sanh, đây chính là
biểu hiện lòng từ bi trong Phật giáo Đại thừa.
Tóm lại, nếu chúng ta có lòng tin kiên cố là điều kiện cơ bản để phát
sanh trí tuệ, cũng là yếu tố duy nhất để nuôi dưỡng lòng từ bi, Phật pháp cũng
nhờ vậy mà dần dần được hưng thịnh.
Tín là trang nghiêm cõi tịnh độ
Trí là thanh tịnh thân tâm
Bi là tịnh hóa loài hữu tình.
Nếu như chúng ta thành tựu ba pháp tín, trí và bi, có nghĩa chúng ta đã
thành tựu yếu tố cơ bản của Bồ tát, vì tín có năng lực để trang nghiêm cõi Tịnh
độ, những thành tựu này đều do công đức thâm tín chư Phật và phát nguyện mà
thành; Trí là điều kiện cơ bản để thân tâm được thanh tịnh, là công năng để
giác ngộ chân lý, đoạn trừ tất cả phền não. Thành đạt được chánh trí
tuệ, ba nghiệp thân khẩu ý nhờ vậy đều được thanh tịnh; Từ bi là pháp để cứu
giúp loài hữu tình, thực thi Bồ tát hạnh. Bồ tát cứu độ chúng sanh bằng nhiều
hình thức khác nhau, có thể lấy vật chất để giúp đỡ sự nghèo đói, có thể dùng
chánh trị, đưa ra những chính sách đúng đắn tiến bộ, để kinh tế phồn vinh, xã
hội an định… Điểm này chúng ta thấy trong kinh điển của Phật giáo Đại thừa có
rất nhiều nơi ghi chép. Nhưng vai trò chính của Bồ tát cứu độ các loài hữu
tình. Chính là thúc đẩy khuyến khích loài hữu tình phát tâm Bồ đề, làm các việc
lành, theo con đường chánh mà hướng đến quả báo an lạc.
Do đó, nếu như chúng sanh có hạnh lành của nhân thiên thì Bồ tát dùng
pháp lành của nhân thiên mà hóa độ họ; nếu như người nào ưa thích pháp của hàng
nhị thừa thì dùng pháp nhị thừa độ họ, nếu như người nào thích pháp nhất thừa
thì lấy giáo pháp nhất thừa giáo hóa họ, nếu như có người ưa thích Phật thừa
thì dùng Phật thừa pháp môn giới thiệu cho họ, khiến cho họ học tập hạnh Bồ
tát, hướng đến Phật quả. Những việc vừa liệt kê đều xuất phát từ lòng từ bi của
Bồ tát. Như vậy, ba việc của Bồ tát đạo là khởi lòng tin, sanh trí tuệ và
trưởng dưỡng lòng từ bi. Từ đó chúng ta thấy rằng từ vị trí con người phát tâm
thực hành Bồ tát hạnh, lấy lòng tin, trí tuệ và lòng từ bi làm phương tiện tu
tập, ba phương diện này cùng nhau phát triển, không bỏ một pháp nào trong ba
pháp này, cũng không nên xem thiên về một pháp nào. Đây là pháp chân chánh của
Bồ tát đạo./.
---------—]–---------
0 nhận xét:
Đăng nhận xét