Ý NGHĨA
BỐN CHỮ “ BẤT KHẢ TƯ NGHỊ ” TRONG KINH A DI ĐÀ.
Bốn chữ “ Bất khả tư nghị ” trong kinh A
Di Đà là chẳng thể nghỉ bàn lược giải có 5 ý nghĩa như sau:
1/ Người niệm Phật có thể vượt tắt ra
ngoài tam giới ngay, chẳng phải cứ đợi đến ngày đoạn trừ hết mê hoặc.
2/ Cứ sanh sang Tây Phương rồi là
được lên đủ bốn cõi Tịnh độ, chẳng phải noi lên dần dần từng cõi một ( ý nghĩa
này là nói người niệm phật sanh sang Tây phương là được thành Bồ tát bất thối
và nhất sanh bổ xứ ngay.)
3/ Cứ chuyên trì niệm danh hiệu Phật rồi
chẳng cần đến các pháp phương tiện nào khác, như tu thiền định và quán tưởng (
ý nghĩa này có công đức lớn lao trong pháp tu tịnh độ )
4/ Trong một tuần bảy ngày có thể thành
công, chẳng cần đến nhiều kiếp nhiều đời, nhiều năm nhiều tháng.
5/ Cứ trì niệm một danh hiệu Phật A Di Đà,
tức là được chư Phật hộ niệm, chẳng khác gì người trì niệm danh hiệu của hết
thảy chư Phật.
Năm ý nghĩa này nhờ ở nguyện lớn và hạnh
lớn của Phật A Di Đà cho nên Phật Thích Ca nói rằng: “ Đây là sự lợi ích
về công đức của Phật A Di Đà chẳng khá nghĩ bàn”.
Lại còn ý nghĩa nữa là người tu hành cứ
việc Tín, Nguyện, Trì Danh, sẽ thu nhiếp được hoàn toàn công đức của Phật A Di
Đà làm thành công đức của mình cho nên nói rằng: “ Đây là sự lợi ích về công
đức của Phật A Di Đà chẳng thể nghĩ bàn ”.
Có người lại hỏi: Mười phương cõi Phật sao
không niệm, lại niệm danh hiệu Phật A Di Đà cõi Tây Phương ?
Trả lời rằng: Có ba ý nghĩa như sau:
1/ Khiến người mới vào đạo
nhận được tâm Bồ đề của mình.
2/ Vì bản nguyện của Phật A
Di Đà hơn hết thảy các nguyện của chư Phật khác.
3/ Vì Phật A Di Đà với chúng
sanh ở cõi này có duyên riêng.
Phật độ chúng sanh và chúng sanh chịu giáo
hóa của Phật, giữa quảng ấy có khó có dễ, có thiển có thâm, tất cả đều do duyên
cả. Do duyên nên có nhiều ân đức vừa sâu vừa rộng( tức bản nguyện hơn hết thảy
) và phải có nhiều lối mở dạy cho người ta. Tức là nêu cái tâm Bồ đề cho người
ta thấy rõ, có thế thì mới đủ bốn lợi ích bố thí cho người ta:
1/ Khiến cho người ta vui mừng tin
sâu vào đạo ( tức là lợi ích hoan hỷ )
2/ Khiến cho người ta phải xúc động
cái mầm thiện gieo từ kiếp trước ( tức lợi ích sinh thiện ).
3/ Khiến cho ma chướng không thể cản
được người ta nữa ( tức lợi ích phá ác )
4/ Khiến cho người ta mở rộng được
tánh Bồ đề của họ ( tức lợi ích nhập lý )
---------—]–---------
Khuyến nguyện lưu thông trong kinh A
Di Đà: “ Nầy Xá Lợi Phất, nếu có người muốn sanh sang nước Phật A
Di Đà mà đã phát nguyện, hoặc nay mới phát nguyện, hoặc mai mới phát nguyện thì
những người ấy đều tới cõi A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề chẳng hề lui chuyển
và được sanh sang cõi nước kia, ai đã phát nguyện thì đã được sanh rồi, ai nay
mới phát nguyện thì nay được sanh, còn mai mới phát nguyện thì mai được sanh.
Bởi thế cho nên Xá Lợi Phất, Các thiện nam ơi, các thiện nữ ơi, nếu có ai tin
thì nên phát nguyện sanh sang nước kia.
Phật Thích Ca nói: Nếu có ai TIN thì nên
phát NGUYỆN. Khi đã phát NGUYỆN thì TÍN và HẠNH đã có trong đó, vì thế Phật ba
lần khuyên phải phát nguyện. Phát nguyện có hai ý nghĩa. Khi phát nguyện sanh
sang nước kia có hai pháp môn là Hân và Yểm. Hân là vui thích cõi Cực lạc, Yểm
là chán bỏ cõi Ta bà.
a/ Pháp yểm ly Ta bà này cùng với
pháp tu y vào Khổ đế và Tập đế mà phát ra hai hoằng thệ nguyện là “ Chúng sanh
vô biên thệ nguyện độ ” và “ phiền não vô tận thệ nguyện đoạn ” cùng ứng hợp
nhau.
b/ Pháp môn Hân: là cầu
sanh Cực lạc, vui ưa Cực lạc, Pháp này cùng với pháp tu y vào Đạo đế và Diệt đế
mà phát ra hai hoằng thệ nguyện “ pháp môn vô lượng thệ nguyện học ” và “ Phật
đạo vô thượng thệ nguyện thành ”.
- Kiếp trược: là bị cái thời đại vẫn đục
vây bọc, làm khổ não áp bức.
- Kiến trược: là bị cái trí xảo trá của tà
sư nó trói buộc.
- Phiền não trược: là bị cái tâm tham dục nó
hãm hại và cái nghiệp độc ác nó kích thích.
- Chúng sanh trược: là đành chịu ở yên
trong cái thân bẩn thỉu mà chẳng rõ biết là bẩn thỉu, cam chịu cái thân hèn
kém, yếu ớt này mà chẳng hề bay cao lên được.
- Mạng trược: là bị cái ma lực vô thường
nó nuốt mất đời sống nhanh như tia lửa chớp nhoáng.
& & &
0 nhận xét:
Đăng nhận xét