Chủ Nhật, 13 tháng 11, 2016

SỰ THÙ THẮNG CỦA LÒNG DŨNG CẢM

SỰ THÙ THẮNG CỦA LÒNG DŨNG CẢM

  Thế giới Ta bà là thế giới mà chúng sanh sống trong đó cần có lòng kham nhẫn và biết chịu đựng. Những việc làm mà chúng ta cảm thấy có ý nghĩa. Mặc dù chúng ta vẫn biết rằng, muốn thực hiện gặp nhiều gian khổ, nhưng chúng ta vẫn kham nhẫn để thực hiện, không do dự. Như vậy, từ sự mong muốn dẫn đến sự nổ lực, tức là từ sự ước muốn ở trong lòng dẫn đến sự nỗ lực của hành vi. Khi chúng ta đã quyết tâm muốn làm việc gì, thì việc đó cho dù khó khăn mấy, nguy hiểm mấy chúng ta cũng nỗ lực và mạo hiểm làm việc đó. Sự nỗ lực dũng cãm này cũng là đặc điểm của con người. Trâu ngựa cũng có tính nhẫn nại, chịu đựng gian khổ này, nhưng không phải lòng tự nguyện, mà nó bị con người khống chế chèn ép bắt nó phải thi hành mệnh lệnh của con người. Như trâu bò cam chịu sự khổ cực kéo cày bừa, phục vụ cho nhà nông, loài ngựa phải chịu khổ cực việc kéo xe… nhưng sự kéo cày của trâu bò, kéo xe của loài ngựa không phải lòng tự nguyện của chúng.
   Cuộc sống con người đôi lúc gặp khá nhiều chướng duyên, khó khăn trong công việc, nhưng con người đã và đang cố gắng để vượt qua sự khó khăn đó. Động cơ của sự cố gắng này phát xuất từ lòng tự giác, tự nhận rằng, đây là việc của mình phải làm, cho nên phải cố gắng phấn đấu thực thi. Lòng mong muốn và sự nổ lực đó, không có trong các loài động vật khác, nếu có đi chăng nữa, chỉ mang tính tập quán không mang tính nhận thức. Do đó, đây là cơ sở để chứng minh con người khác với các loài động vật khác, cũng từ đó để thuyết minh con người có thể thực thi tinh thần Bồ tát đạo. Vì mục đích cao thượng làm những việc khó làm và nhẫn những việc khó nhẫn.
Ba đặc tính vừa được đề cập như ở trên là đặc tính của con người, ở các loài chúng sanh khác không có, ngay cả cảnh giới chư thiên cũng không bằng. Con người tuy không bằng một vị Bồ tát là người đã thanh tịnh viên mãn, nhưng ba điểm này đều biểu thị tính đặc trưng của con người. Chúng ta đã sanh được làm người, nên lợi dụng điểm đặc thù của con người mà tu tập, làm cơ sở cho sự nghiệp thăng tiến đời sống tâm linh.
Đặc tính của con người, không thấy trong những loài chúng sanh khác cho nên được gọi là người. Đặc tính này trong đó hàm chứa ý nghĩa của Phật tánh, chúng ta phát triển Phật tánh này, cho đến khi nào thuần tịnh, thì được gọi là Phật. Cái được gọi là Phật bao gồm ba đức tánh: Đại trí, Đại bi và Đại hùng. Điểm đặc trưng của vị Phật là sự giác ngộ và giải thoát. Phật trí là bất cứ chúng sanh nào hoạt động có ý thức đều có thể gọi là tánh của trí tuệ. Do đó trong kinh nói rằng: “ Bất cứ ai có tâm thì chắc chắn người đó có Phật ”. Phật là người đã giác ngộ hoàn toàn, chúng sanh còn bị vô minh che lấp, tánh giác ngộ chưa hiển bày nên gọi là chúng sanh. Con người tuy có sự ghi nhớ và tư duy, hơn các loài chúng sanh khác, nhưng con người vẫn còn nhiều ác tuệ, là sự thấy biết điên đảo, không chính đáng. Nếu chúng ta loại bỏ ác tuệ, làm tăng trưởng lớn mạnh trí tuệ thanh tịnh, cũng có nghĩa là chúng ta đã thành đạt trí tuệ viên mãn của đức Phật.
   Lòng đại bi của đức Phật cứu độ tất cả chúng sanh, hiểu rõ nổi khổ của chúng sanh và thấy chúng sanh đau khổ Ngài cảm thấy rằng, giống như sự đau khổ của chính Ngài, do vậy lòng đại bi của Phật từ trong tâm của Ngài biểu hiện, muốn cứu độ chúng sanh, Như vậy, lòng đại bi cũng chính là đức hạnh của Ngài. Sự xuất hiện đức hạnh này căn cứ từ hai yếu tố mình và người khác, không thể có từ bi mà không có đối tượng để từ bi.
Bản thân của đạo đức là lợi tha, như làm tròn bổn phận của gia đình có nghĩa là làm tròn bổn phận dòng tộc, làm tròn bổn phận dòng tộc là làm tròn bổn phận quốc gia, làm tròn bổn phận quốc gia là làm tròn bổn phận thế giới và tất cả chúng sanh.
Điểm cơ bản tính đức hạnh của nhân loại nó ở ngay trong mỗi người chúng ta, có nghĩa là mỗi chúng ta hoàn thành bổn phận đạo đức của mình, nó là cơ sở  cho bình an và hạnh phúc cho một gia đình, xã hội và thế giới. Ngược lại mỗi người không làm tròn bổn phận và trách nhiệm đạo đức của chính mình mà mong cầu đạo đức cho gia đình cho xã hội hay thế giới là điều không thật có, thiếu cơ sở, nếu có đi chăng nữa chỉ là sự giả mạo. Như vậy, sự dẹp bỏ tính ích kỷ hẹp hòi từ cá nhân mở rộng lòng khoan dung đạo đức của con người, cũng có nghĩa là phát triển Phật tánh, do vậy cho nên nói rằng, lòng đại bi là sự cứu cánh viên mãn của tánh Phật. Như trong kinh nói: đức Phật có mười lực và bốn vô sở úy ( 4 điều không sợ hãi ). Những đức tánh này biểu thị tánh đại hùng của chư Phật. Để làm rõ ý nghĩa đức tánh vô úy này, trong kinh Phật thường lấy tiếng rống sư tử để hình dung.
Qua đó cho chúng ta thấy, quả thật đức Phật là người đại hùng, đại dũng không có sự sợ hãi, phát tâm cứu độ tất cả chúng sanh, đây là tinh thần đại bi đại trí của Bồ tát, đặc tính vô úy này trải qua nhiều đời nhiều kiếp tu tập mà được. Chúng ta phát tâm Bồ đề, tức là có tâm mong muốn thành tựu đạo Bồ đề, tức là sự giác ngộ và giải thoát, tâm mong muốn đó nó là nguồn gốc dẫn đến sự tinh cần nổ lực. Bồ tát có nghĩa là loài hữu tình chúng sanh. Nhưng không phải đơn giản như thế, nó hàm chứa ý nghĩa dũng mãnh, sự nổ lực liên tục để hoàn thành mục đích tự giác và giác tha.
Chúng ta có thể dùng ngôn ngữ hiện đại để mô tả là một chúng sanh tràng đầy sức sống. Trong Kim Cang mô tả ý chí của chúng sanh giống như sự cứng rắn của viên kim cương, luôn luôn hướng về phía trước mà đi. Sức sống của con người phát triển đến mức cao nhất, là có thể nhẫn nại tất cả, không khuất lòng trước sự khó khăn nào, luôn luôn dũng mãnh tinh tấn.
Phật tánh là tánh đức của sự giác ngộ, gọi là đức Phật, Phật tánh của con người tức là tánh đặc thù của con người, từ đặc tính của con người mà trở thành Phật tánh. Nói rằng con người có Phật tánh, cũng giống như nói trong cây có lửa, không có nghĩa là trong cây đã có lửa và đã có sẳn sức nóng. Căn cứ bản chất của con người, đương nhiên đặc tính của con người không phải là Phật tánh, chẳng qua căn cứ vào đặc tính của con người trãi qua sự huấn luyện dần dần hình thành Phật tính. Ở đây chúng ta có thể mượn một ví dụ để mô tả vấn đề này. Tánh của chúng sanh được ví như mầm cây sắp đâm chồi nẩy lộc, còn phật tánh cũng giống như hạt mầm đó đã trưởng thành, đã khai hoa nở nhụy, chẳng qua trong tánh chúng sanh và tánh người vẫn còn mê muội, chưa trong sạch lấy sự mê mờ chấp trước làm căn bản, do vậy tuy rằng mọi người đều có khả năng của Phật tánh, nhưng chưa xuất hiện, chưa xuất hiện tánh Phật, chúng ta không nên nói là không có phật tánh, nhưng cũng không nên cho rằng tánh của chúng sanh là tánh phật. Phật tánh và chúng sanh tánh đang lẫn lộn trong mỗi con người chúng ta, khó phân biệt ai là Phật ai là chúng sanh, nếu như con người không thể hiện lòng tham lam, sân hận và ngu si, cũng giống như xã hội mà chúng ta đang sống, sự hiểu biết của con người càng ngày càng cao hơn, kinh tế tốt hơn, chế độ càng ngày càng tự do hơn. Nhưng nếu không khéo, sự tiến bộ này đôi khi, nó trở thành phản tác dụng, nó trở thành công cụ để phục vụ cho việc làm bất thiện. Như người nông dân sống ở miền quê, thường có tánh tình thật thà chất phát, nếu người này sanh tâm xấu lường gạt người khác, thì sự lường gạt đó cũng không nỗi trầm trọng. Nhưng người này học thành tài, kiến thức phong phú, vì lý do nào đó, người này trở thành người xấu, lấy kiến thức đó đi lường gạt người khác, mức độ của sự lường gạt đó càng nguy hiểm hơn. Ở đây chúng ta cần chú ý, không nên cho việc học, có kiến thức đồng nghĩa với người xấu, việc học tập mở mang kiến thức không phải là xấu,cái xấu đó phát xuất từ lòng tham sân si, nhưng người ta lợi dụng  tri thức để phục vụ cho việc ác thì sự nguy hiểm đó càng tăng thêm, ngược lại, sự giác ngộ và giải thoát cũng bắt nguồn từ sự hiểu biết này,  không có giác ngộ thì không có giải thoát. Tri thức cũng giống như con dao, người ta có thể dùng nó để đi làm hại người khác, nhưng cũng con dao đó giúp ích cho con người biết bao công việc. Điều đó biểu thị tánh Phật và tánh chúng sanh đều ở trong mỗi người chúng ta, làm lợi mình lợi người là Phật, làm hại mình hại người là chúng sanh. Ở con người tánh tốt và tánh xấu trong mỗi chúng ta thường cùng nhau phát triển, điều này nói lên một ý nghĩa là, con người rất khó loại bỏ bản chất xấu xa của con người. Quan điểm “ chuyển nhiễm thành tịnh, chuyển thức thành trí ”. trong Phật pháp đều lấy trí tuệ làm căn bản, để dần dần chuyển hóa con người. Người học phật nên y cứ vào vị trí và dựa trên lập trường của con người, phát huy và làm tròn đức tánh tốt đẹp của con người, đó là cơ sở để hoàn thiện và thành đạt Phật tánh. Quan điểm “ Nhân thành tức Phật thành ”. Trước khi làm Phật phải làm tròn bổn phận và trách nhiệm của con người. Phật cũng từ vị trí con người mà thành Phật, chúng sanh cũng từ vị trí con người mà học phật pháp.

                     ---------]---------

SỰ THÙ THẮNG CỦA LÒNG DŨNG CẢM Rating: 4.5 Diposkan Oleh: CHÙA TAM BẢO TAM KỲ

0 nhận xét:

Đăng nhận xét