SỰ THÙ THẮNG CỦA LÒNG DŨNG CẢM
Thế giới Ta bà là thế
giới mà chúng sanh sống trong đó cần có lòng kham nhẫn và biết chịu đựng. Những
việc làm mà chúng ta cảm thấy có ý nghĩa. Mặc dù chúng ta vẫn biết rằng, muốn
thực hiện gặp nhiều gian khổ, nhưng chúng ta vẫn kham nhẫn để thực hiện, không
do dự. Như vậy, từ sự mong muốn dẫn đến sự nổ lực, tức là từ sự ước muốn ở
trong lòng dẫn đến sự nỗ lực của hành vi. Khi chúng ta đã quyết tâm muốn làm
việc gì, thì việc đó cho dù khó khăn mấy, nguy hiểm mấy chúng ta cũng nỗ lực và
mạo hiểm làm việc đó. Sự nỗ lực dũng cãm này cũng là đặc điểm của con người.
Trâu ngựa cũng có tính nhẫn nại, chịu đựng gian khổ này, nhưng không phải lòng
tự nguyện, mà nó bị con người khống chế chèn ép bắt nó phải thi hành mệnh lệnh
của con người. Như trâu bò cam chịu sự khổ cực kéo cày bừa, phục vụ cho nhà
nông, loài ngựa phải chịu khổ cực việc kéo xe… nhưng sự kéo cày của trâu bò,
kéo xe của loài ngựa không phải lòng tự nguyện của chúng.
Cuộc sống con người
đôi lúc gặp khá nhiều chướng duyên, khó khăn trong công việc, nhưng con người
đã và đang cố gắng để vượt qua sự khó khăn đó. Động cơ của sự cố gắng này phát
xuất từ lòng tự giác, tự nhận rằng, đây là việc của mình phải làm, cho nên phải
cố gắng phấn đấu thực thi. Lòng mong muốn và sự nổ lực đó, không có trong các
loài động vật khác, nếu có đi chăng nữa, chỉ mang tính tập quán không mang tính
nhận thức. Do đó, đây là cơ sở để chứng minh con người khác với các loài động
vật khác, cũng từ đó để thuyết minh con người có thể thực thi tinh thần Bồ tát
đạo. Vì mục đích cao thượng làm những việc khó làm và nhẫn những việc khó nhẫn.
Ba đặc tính vừa được đề cập như ở trên là đặc tính của con
người, ở các loài chúng sanh khác không có, ngay cả cảnh giới chư thiên cũng
không bằng. Con người tuy không bằng một vị Bồ tát là người đã thanh tịnh viên
mãn, nhưng ba điểm này đều biểu thị tính đặc trưng của con người. Chúng ta đã
sanh được làm người, nên lợi dụng điểm đặc thù của con người mà tu tập, làm cơ
sở cho sự nghiệp thăng tiến đời sống tâm linh.
Đặc tính của con người, không thấy trong những loài chúng
sanh khác cho nên được gọi là người. Đặc tính này trong đó hàm chứa ý nghĩa của
Phật tánh, chúng ta phát triển Phật tánh này, cho đến khi nào thuần tịnh, thì
được gọi là Phật. Cái được gọi là Phật bao gồm ba đức tánh: Đại trí, Đại bi và
Đại hùng. Điểm đặc trưng của vị Phật là sự giác ngộ và giải thoát. Phật trí là
bất cứ chúng sanh nào hoạt động có ý thức đều có thể gọi là tánh của trí tuệ.
Do đó trong kinh nói rằng: “ Bất cứ ai có tâm thì chắc chắn người đó có Phật ”.
Phật là người đã giác ngộ hoàn toàn, chúng sanh còn bị vô minh che lấp, tánh
giác ngộ chưa hiển bày nên gọi là chúng sanh. Con người tuy có sự ghi nhớ và tư
duy, hơn các loài chúng sanh khác, nhưng con người vẫn còn nhiều ác tuệ, là sự
thấy biết điên đảo, không chính đáng. Nếu chúng ta loại bỏ ác tuệ, làm tăng
trưởng lớn mạnh trí tuệ thanh tịnh, cũng có nghĩa là chúng ta đã thành đạt trí
tuệ viên mãn của đức Phật.
Lòng đại bi của đức
Phật cứu độ tất cả chúng sanh, hiểu rõ nổi khổ của chúng sanh và thấy chúng
sanh đau khổ Ngài cảm thấy rằng, giống như sự đau khổ của chính Ngài, do vậy
lòng đại bi của Phật từ trong tâm của Ngài biểu hiện, muốn cứu độ chúng sanh,
Như vậy, lòng đại bi cũng chính là đức hạnh của Ngài. Sự xuất hiện đức hạnh này
căn cứ từ hai yếu tố mình và người khác, không thể có từ bi mà không có đối
tượng để từ bi.
Bản thân của đạo đức là lợi tha, như làm tròn bổn phận của
gia đình có nghĩa là làm tròn bổn phận dòng tộc, làm tròn bổn phận dòng tộc là
làm tròn bổn phận quốc gia, làm tròn bổn phận quốc gia là làm tròn bổn phận thế
giới và tất cả chúng sanh.
Điểm cơ bản tính đức hạnh của nhân loại nó ở ngay trong mỗi
người chúng ta, có nghĩa là mỗi chúng ta hoàn thành bổn phận đạo đức của mình,
nó là cơ sở cho bình an và hạnh phúc cho
một gia đình, xã hội và thế giới. Ngược lại mỗi người không làm tròn bổn phận
và trách nhiệm đạo đức của chính mình mà mong cầu đạo đức cho gia đình cho xã
hội hay thế giới là điều không thật có, thiếu cơ sở, nếu có đi chăng nữa chỉ là
sự giả mạo. Như vậy, sự dẹp bỏ tính ích kỷ hẹp hòi từ cá nhân mở rộng lòng
khoan dung đạo đức của con người, cũng có nghĩa là phát triển Phật tánh, do vậy
cho nên nói rằng, lòng đại bi là sự cứu cánh viên mãn của tánh Phật. Như trong
kinh nói: đức Phật có mười lực và bốn vô sở úy ( 4 điều không sợ hãi ). Những
đức tánh này biểu thị tánh đại hùng của chư Phật. Để làm rõ ý nghĩa đức tánh vô
úy này, trong kinh Phật thường lấy tiếng rống sư tử để hình dung.
Qua đó cho chúng ta thấy, quả thật đức Phật là người đại
hùng, đại dũng không có sự sợ hãi, phát tâm cứu độ tất cả chúng sanh, đây là
tinh thần đại bi đại trí của Bồ tát, đặc tính vô úy này trải qua nhiều đời
nhiều kiếp tu tập mà được. Chúng ta phát tâm Bồ đề, tức là có tâm mong muốn
thành tựu đạo Bồ đề, tức là sự giác ngộ và giải thoát, tâm mong muốn đó nó là
nguồn gốc dẫn đến sự tinh cần nổ lực. Bồ tát có nghĩa là loài hữu tình chúng
sanh. Nhưng không phải đơn giản như thế, nó hàm chứa ý nghĩa dũng mãnh, sự nổ
lực liên tục để hoàn thành mục đích tự giác và giác tha.
Chúng ta có thể dùng ngôn ngữ hiện đại để mô tả là một chúng
sanh tràng đầy sức sống. Trong Kim Cang mô tả ý chí của chúng sanh giống như sự
cứng rắn của viên kim cương, luôn luôn hướng về phía trước mà đi. Sức sống của
con người phát triển đến mức cao nhất, là có thể nhẫn nại tất cả, không khuất
lòng trước sự khó khăn nào, luôn luôn dũng mãnh tinh tấn.
Phật tánh là tánh đức của sự giác ngộ, gọi là đức Phật, Phật
tánh của con người tức là tánh đặc thù của con người, từ đặc tính của con người
mà trở thành Phật tánh. Nói rằng con người có Phật tánh, cũng giống như nói
trong cây có lửa, không có nghĩa là trong cây đã có lửa và đã có sẳn sức nóng.
Căn cứ bản chất của con người, đương nhiên đặc tính của con người không phải là
Phật tánh, chẳng qua căn cứ vào đặc tính của con người trãi qua sự huấn luyện
dần dần hình thành Phật tính. Ở đây chúng ta có thể mượn một ví dụ để mô tả vấn
đề này. Tánh của chúng sanh được ví như mầm cây sắp đâm chồi nẩy lộc, còn phật
tánh cũng giống như hạt mầm đó đã trưởng thành, đã khai hoa nở nhụy, chẳng qua
trong tánh chúng sanh và tánh người vẫn còn mê muội, chưa trong sạch lấy sự mê
mờ chấp trước làm căn bản, do vậy tuy rằng mọi người đều có khả năng của Phật
tánh, nhưng chưa xuất hiện, chưa xuất hiện tánh Phật, chúng ta không nên nói là
không có phật tánh, nhưng cũng không nên cho rằng tánh của chúng sanh là tánh
phật. Phật tánh và chúng sanh tánh đang lẫn lộn trong mỗi con người chúng ta,
khó phân biệt ai là Phật ai là chúng sanh, nếu như con người không thể hiện
lòng tham lam, sân hận và ngu si, cũng giống như xã hội mà chúng ta đang sống,
sự hiểu biết của con người càng ngày càng cao hơn, kinh tế tốt hơn, chế độ càng
ngày càng tự do hơn. Nhưng nếu không khéo, sự tiến bộ này đôi khi, nó trở thành
phản tác dụng, nó trở thành công cụ để phục vụ cho việc làm bất thiện. Như
người nông dân sống ở miền quê, thường có tánh tình thật thà chất phát, nếu
người này sanh tâm xấu lường gạt người khác, thì sự lường gạt đó cũng không nỗi
trầm trọng. Nhưng người này học thành tài, kiến thức phong phú, vì lý do nào
đó, người này trở thành người xấu, lấy kiến thức đó đi lường gạt người khác,
mức độ của sự lường gạt đó càng nguy hiểm hơn. Ở đây chúng ta cần chú ý, không
nên cho việc học, có kiến thức đồng nghĩa với người xấu, việc học tập mở mang
kiến thức không phải là xấu,cái xấu đó phát xuất từ lòng tham sân si, nhưng
người ta lợi dụng tri thức để phục vụ
cho việc ác thì sự nguy hiểm đó càng tăng thêm, ngược lại, sự giác ngộ và giải
thoát cũng bắt nguồn từ sự hiểu biết này,
không có giác ngộ thì không có giải thoát. Tri thức cũng giống như con
dao, người ta có thể dùng nó để đi làm hại người khác, nhưng cũng con dao đó
giúp ích cho con người biết bao công việc. Điều đó biểu thị tánh Phật và tánh
chúng sanh đều ở trong mỗi người chúng ta, làm lợi mình lợi người là Phật, làm
hại mình hại người là chúng sanh. Ở con người tánh tốt và tánh xấu trong mỗi
chúng ta thường cùng nhau phát triển, điều này nói lên một ý nghĩa là, con
người rất khó loại bỏ bản chất xấu xa của con người. Quan điểm “ chuyển nhiễm
thành tịnh, chuyển thức thành trí ”. trong Phật pháp đều lấy trí tuệ làm căn
bản, để dần dần chuyển hóa con người. Người học phật nên y cứ vào vị trí và dựa
trên lập trường của con người, phát huy và làm tròn đức tánh tốt đẹp của con
người, đó là cơ sở để hoàn thiện và thành đạt Phật tánh. Quan điểm “ Nhân thành
tức Phật thành ”. Trước khi làm Phật phải làm tròn bổn phận và trách nhiệm của
con người. Phật cũng từ vị trí con người mà thành Phật, chúng sanh cũng từ vị
trí con người mà học phật pháp.
---------—]–---------
0 nhận xét:
Đăng nhận xét