Bài 2: LƯỢC SỬ ĐỨC PHẬT THÍCH CA
I.
Dàn bài:
A-
Từ Đản sanh đến xuất gia.
1. Quê hương và dòng dõi của đức Phật Thích Ca.
2. Tài năng và đức hạnh của Thái tử.
3. Những ràng buộc của Vua Tịnh Phạn ngăn chí xuất gia của Ngài.
B-
Từ xuất gia đến thành đạo
1. Nhận rõ các tướng khổ ở đời
2. Thái tử rời cung vàng điện ngọc
3. Thái tử tìm đạo
4. Thái tử đắc đạo
C- Từ thành đạo đến nhập diệt
1. Sự hoá độ của đức Phật
2. Đức Phật nhập diệt.
Bài giảng:
A. Từ đản
sanh đến xuất gia.
1. Quê hương và dòng dõi của Thái tử.
Phật
Thích Ca tên thật là Tất Đạt Đa, họ ngài là Gô-Ta-Ma, thuộc dòng Thích Ca. Ngài
sinh trước Tây lịch 544 năm, ở phía bắc Ấn Độ, bây giờ là nước Nepal. Ngài là
dòng dõi vua chúa, ở nuớc Ca Tỳ La Vệ. Một nước ở dưới chân Hy Mã Lạp Sơn thuộc
đông bắc Ấn Độ. Phụ thân là vua Tịnh Phạn trị vì dân tộc Sakya, chính là phần đất
của nước Nepal ngày nay. Mẹ ngài là Hoàng hậu Ma gia. Ngài đản sanh tại
vườn Lâm Tỳ Ni, dưới gốc cây Vô Ưu, cách
thành Ca Tỳ La Vệ 15 cây số trong lúc Hoàng hậu Ma-Gia đang dạo chơi ngắm cảnh
vào buổi bình minh trăng tròn Ấn Độ (Tức là 15-4 âm lịch).
Thái
tử sinh ra được đạo sỹ A Tư Đà đang tu trên Hy Mã Lạp Sơn đến xem tướng cho
Thái tử nói rằng: Thái tử lớn lên nếu làm vua thì sẽ là vị vua thống trị cả
thiên hạ nhưng cái tướng chữ vạn nổi trên ngực e sợ Thái tử bỏ hoàng cung mà
xuất gia. Nếu xuất gia, Thái tử sẽ thành Phật.
Sau khi Thái tử sanh được bảy ngày thì
mẹ Ngài qua đời. Ngài được Di mẫu Ma Ha Ba Xà Ba Đề nuôi dưỡng.
2.
Tài năng và đức hạnh của Thái tử
Thái tử là một đứa trẻ
cực kỳ thông minh và xuất chúng. Ngài có tính trầm ngâm thích sống một mình nơi
cô tịch. Có một điều mà làm cho tất cả mọi người trong hoàng cung kính mến Ngài
là đức hạnh của Ngài. Ngài rất thương mến mọi loài, mặc dầu Ngài có tài năng và
quyền thế, song Ngài rất lễ phép với mọi người.
3. Những ràng buộc của vua Tịnh Phạn.
Theo lời tiên đoán của đạo sĩ A Tư Đà,
vua sợ Ngài bỏ ngôi báu đi tu. Nên vua cha tạo ra cảnh vui thích hợp với 4 mùa
để cho Thái tử quyến luyến cuộc đời trần tục mà xao lãng chí xuất gia tìm đạo.
Vua cha cho tạo ra đủ mọi thú vui để vừa lòng Thái tử và lại bắt Ngài phải
thành hôn với công chúa Gia Du Đà La con vua Thiện Giác.
B.
Từ xuất gia đến thành đạo
1. Nhận rõ các tướng khổ ở đời.
Mặc
dù sống trong cung vàng điện ngọc nào vợ
đẹp, cung phi mỹ nữ với đời sống cực kỳ sang trọng nhưng Thái tử vẫn thấy lòng
mình nặng trĩu bao nỗi băn khoăn thắc mắc về kiếp sống của con người, cho nên
Ngài không bao giờ cảm thấy mình được vui. Để giải khuây nỗi buồn, Ngài xin vua
cha ra dạo chơi bốn cửa thành. Đầu tiên Ngài ra cửa Đông gặp một người già. Ra
cửa Nam gặp một người bệnh đang rên xiết
quằn quại. Ra cửa Tây gặp một thây chết sình thối. Ra cửa Bắc gặp một vị tu
hành diện mạo uy nghi, dáng điệu thanh thoát. So với 3 cảnh già, đau, chết kia
thì Ngài thấy cảnh tu hành nên theo hơn.
2.
Thái
tử rời cung vàng điện ngọc đi xuất gia.
Sau
khi nhận thấy các tướng già, đau, chết. Ngài quyết chí xuất gia tìm đạo để cứu
mình, cứu người, nhưng vua cha ngăn cản không cho. Thế nhưng, một khi lòng Ngài
đã quyết thì không có gì ngăn cản nổi. Nên vào một đêm khuya, tất cả mọi người
trong thành ngủ yên, Ngài lặng lẽ từ giã cung vàng điện ngọc. Ngài đánh
thức Xa Nặc dắt ngựa ra, cùng Ngài lên yên ngựa trốn ra khỏi thành. Lúc
bấy giờ nhằm ngày mùng 8-2 và Ngài đã được 19 tuổi.
3. Thái tử tìm đạo
Ở Ấn Độ thời xưa
vẫn tin rằng không một ai có thể tự mình tìm được chân lý mà phải cầu chân sư
hướng dẫn. Bởi vậy, sau khi từ giã cuộc sống vương giả, Thái tử vào rừng sâu
tìm đạo theo truyền thống. Đầu tiên Ngài đến học đạo với hai anh em vị đạo sư
có tên tuổi là AlaraKalama và Roudraka. Đối với hai bậc đạo sư trên đây, Thái
tử rất chăm học. Nhưng rồi, Thái tử nhận thấy phương pháp tu hành và mục đích
của hai vị này không làm thoả mãn được chí lớn của mình, Ngài lại ra đi. Sau
cùng, Ngài tự tìm lấy phương pháp tu hành. Ngài nghĩ rằng, mỗi người đều có thể
tự tu, tự độ, tự ngộ. Rồi một mình trong cô tịch, Ngài nghiền ngẫm các cảnh vô
thường của vạn vật, sự đau khổ của loài người, bám theo giả ảnh của sự vật
không thực có và sự đau khổ của họ trước cảnh già đau, bệnh, chết.
4.
Thái
tử đắc đạo
Ngài đến ngồi dưới cội cây Bồ đề và thề rằng "Dù
thịt nát xương tan nếu ta không thành đạo, ta không rời khỏi chỗ này" .
Ngài ngồi như vậy suốt 49 ngày đêm. Trong thời gian ấy, Ngài đã chiến đấu
với các giặc tham, sân, si, mạn, nghi v.v.. Sau khi đã chiến đấu cả giặc nội
tâm và ngoại cảnh, tâm trí Ngài được khai thông, hốt nhiên Ngài chứng đạo. Bao
nhiêu sự u tối che lấp chân tâm đã ra đi, một trạng thái biến chuyển cực kỳ
nhanh chóng của thế giới vô thường chứng cho Ngài cái cảnh vi diệu của Niết
Bàn. Ngài đã thành đạo trong đêm 49 ấy. Tất Đạt Đa hốt nhiên thành Phật. Bấy
giờ nhằm ngày 8.2 Âm lịch khi sao mai vừa mọc, khi ấy Ngài được 30 tuổi.
C. Từ thành đạo cho đến nhập Niết Bàn
1. Sự hoá độ của Đức Phật Thích Ca
Mâu Ni.
Sau khi đắc đạo, Thái tử Tất Đạt Đa trở thành Phật hiệu là
Thích Ca Mâu Ni. Và Ngài liền nghĩ đến chuyện đi hoá độ, song Ngài thấy căn cơ
chúng sanh còn thấp kém mà đạo của Ngài thì cao siêu. Qua bao nhiêu lần suy
nghĩ, rồi Ngài quyết đi hoá độ chúng sanh. Đầu tiên, Ngài đến vườn Lộc Uyển nói
pháp Tứ Diệu Đế cho 5 người bạn đồng tu với Ngài trước kia là: Kiều Trần Như,
Ác Bệ, Thập Lực Ca Diếp, Ma Ha Nam và Bạc Đề. Rồi Ngài rời vườn Lộc Uyển xuống
phía nam hoá độ cho vị Tổ Sư của đạo thờ Thần Lửa là ông Ma Ha Ca Diếp và số
đông đệ tử của ông. Rồi Ngài đến độ cho vua Tần-Bà-Ta-La và Ngài dừng chân tại
Tịnh xá Trúc Lâm để thuyết pháp độ sanh. Sau đó, trở về độ cho dòng họ Thích
Ca rồi đến thành Xá Vệ độ cho Xa Nặc.
2- Đức
Phật nhập Niết Bàn.
Đến đây Đức Phật nhận thấy công cuộc giáo hoá
đã xong. Ngài báo tin cho A Nan thị giả của Ngài biết, Ngài sẽ nhập Niết Bàn
sau ba tháng nữa. Một hôm, sau khi dùng bữa ăn cuối cùng của nhà ông Thuần Đà,
Ngài đi đến rừng Ta La. Ngài cảm thấy mệt nên truyền cho A Nan treo võng trên
hai cây Ta la để Ngài nằm nghĩ, và Ngài đã nhập Niết Bàn tại đó. Sau khi đã dặn
dò cặn kẽ với các đệ tử của Ngài, lúc
bấy giờ Ngài được 80 tuổi nhằm ngày 15-2- âm lịch.
Bài học:
Đức
Phật tên thật là Tất Đạt Đa. Họ Ngài là Go-Ta-Ma, thuộc dòng Thích Ca, một dòng
vua chúa lớn ở nước Ca Tỳ La Vệ. Thân sinh là vua Tịnh Phạn, mẹ Ngài là Hoàng
Hậu Ma Gia. Ngài đản sanh tại vườn Lâm Tỳ Ni vào một buổi sáng mai trời đẹp,
trong lúc Hoàng Hậu Ma Gia đang ngoạn cảnh. Ngài đản sanh vào ngày rằm tháng 4
(âm lịch) trước Thiên Chúa giáng sanh 544 năm.
Sau khi sanh Thái tử 7 ngày thì Hoàng hậu Ma Da qua đời.
Vua Tịnh Phạn giao Ngài cho dì mẫu Ma Ha Ba Xà Ba Đề nuôi dưỡng. Thái tử từ nhỏ
tỏ ra rất thông minh. Mọi người trong hoàng cung rất kính trọng Ngài, vì đức
hạnh của Ngài không ai sánh kịp. Vua Tịnh Phạn lo lắng sợ Ngài bỏ ngôi báu đi
xuất gia nên bày ra đủ mọi thứ vui để cho Ngài vui mà xao lãng chí xuất gia và
bắt Ngài kết hôn với công chúa Gia Du Đà La con của vua Thiện Giác. Nhưng những
thứ vui ấy không làm Ngài say đắm mà còn là các nguyên nhân thúc giục Ngài xuất
gia tìm đạo cứu đời.
Thái tử mặc dầu sống trong cung vui, nhưng không bao giờ
thấy mình được vui. Để khuây khoả nỗi buồn đang dày vò tâm hồn, Ngài xin vua
cha ra dạo chơi bốn cửa thành, nhìn thấy sanh già đau chết và sau cùng Ngài gặp
một vị đạo sĩ dáng điệu giải thoát. Khi về cung, Ngài so sánh ba cảnh già, đau,
chết và tu hành giải thoát là hợp với ý muốn của Ngài khiến Ngài phải gấp thực
hiện. Vì thế, Ngài quyết định xin vua cha cho mình được xuất gia tìm đạo để cứu
mình và cứu đời. Vua cha không bằng lòng, chí Ngài đã quyết, Ngài không thể lùi
được. Nên một đêm khuya, Ngài từ giã cung vàng điện ngọc, cha già, vợ con, cùng
Xa Nặc lên ngựa trốn ra khỏi thành. Lúc bấy giờ, Ngài được 19 tuổi. Ngài vào
rừng sâu học đạo, tìm đạo với các nhà tu hành danh tiếng, nhưng không thoả mãn
chí nguyện của Ngài. Rồi Ngài tự tìm lấy phương pháp tu hành. Ngài đến nhập
định dưới cội cây Bồ Đề suốt 49 ngày đêm và Ngài đã thành đạo. Lúc bấy giờ,
Ngài được 30 tuổi. Ngài thành Phật hiệu Thích Ca Mâu Ni.
Sau khi thành đạo, đầu tiên Ngài đến độ cho 5 anh em Kiều
Trần Như, độ cho vị tổ thờ Thần lửa là ông Ma Ha Ca Diếp. Độ cho vua Tần Bà Ta
La, rồi Ngài dừng chân thuyết pháp tại Tịnh xá Trúc Lâm, trở về độ cho dòng họ
Thích Ca và vua Ba Tư Nặc.
Đến
đây, Ngài nhận thấy sự giáo hoá độ sanh đã xong. Đức Phật báo cho A Nan biết
trong ba tháng nữa Ngài sẽ nhập Niết Bàn. Một hôm, sau khi dùng bữa cơm cuối
cùng của ông Thuần Đà dâng cúng, Ngài đến rừng Ta La cảm thấy mệt, sai A Nan treo
võng trên hai cây Ta La để Ngài nằm nghĩ và Ngài đã nhập diệt ở đây. Sau khi
Ngài đã dạy bảo cho các đệ tử đầy đủ những phương pháp tu hành để đạt đến giảI
thoát. Lúc bấy giờ, Ngài 80 tuổi nhằm 15/2 âm lịch.
********
0 nhận xét:
Đăng nhận xét