TU VÀ TÂM
Chữ tu là sửa, sửa cái xấu trở thành cái tốt, sửa dở trở
thành hay, sửa trái thành phải, sửa phàm thành Thánh.
Như nhà cửa, ruộng vườn, xe cộ hư nát nay ta sửa lại cho
tốt đẹp như thế gọi là ''tu bổ'' Thân thể ta lôi thôi, hành vi bẩn thiểu nay
sửa lại cho đàng hoàn gọi là ''tu thân'', tâm thánh, tật đố, tà kiến si mê
v.v.. nay sửa lại trở nên tâm tánh tốt đẹp như vậy gọi là ''tu tâm''.
Tâm là cái hiểu biết phân biệt còn gọi là ''phần tinh
thần''. Tâm không có hình tướng dài ngắn vuông tròn, hay màu sắc xanh đỏ, trắng
đen, không thể dùng con mắt mà thấy được tâm, không thể dùng lỗ tai mà nghe
được tâm, không thể dùng tay chân mà sờ đụng để biết được tâm, chỉ do thấy cái
tác dụng của nó mà biết được tâm. Cũng như điện ta không thấy hay sờ mó được
điện, chỉ thấy tác dụng của nó mà biết có điện, như cho điện vào quạt thấy quạt
xoay, vào bóng đèn thấy đèn sáng v.v.. vì thế người ta biết có điện. Tâm chúng
ta cũng thế vì nó có tác dụng thấy nghe và phân biệt v.v.. nên ta biết có tâm.
Tâm chia làm hai phần: chơn tâm và vọng tâm. Đứng về chơn
tâm (thể) thì không thể dùng lời nói luận bàn hay tâm trí suy nghĩ được, mà
phải tự chứng ngộ nên trong kinh nói ''rời tướng nói năng, rời tướng danh tự,
rời tướng tâm duyên. Song đứng về ''vọng tâm'' thì có thể nói năng và phân biệt
được.
Chơn tâm còn gọi là Phật tánh khi chúng ta hiểu biết và
diệt trừ được ''vọng tâm'' rồi thì ''chơn tâm'' hiện ra cũng như sóng lặng rồi
thì tánh nước bằng phẳng tự hiện ra hay nước đục được lắng trong thì tánh nước
trong tự hiện.
Như ta đã biết, tâm không thể thấy nghe hay sờ mó được.
Song nhờ thấy cái tác dụng của nó qua các giác quan mà ta biết được.
Mọi người không chỉ có năm giác quan mà có đến tám cái
''biết'' tức là tám cái tâm. Theo danh từ Duy thức của Phật học gọi là ''tám
thức'' , '' tám cái biết''.
Tám cái tâm này đều có chủ quyền thống lãnh mỗi chỗ, cũng
như mỗi ông vua thống lãnh mỗi nước nên trong duy thức học gọi là ''tám tâm
vương''.
Nói về tâm đạo Phật chia làm hai loại: tâm vương và tâm sở.
Tâm vương là chính, tâm sở là phụ ví như nhà vua (tâm vương) và quân thần ( tâm
sở).
Tám tâm vương là:
1. Nhãn thức: cái biết của con mắt.
2. Nhĩ thức: cái biết của lỗ tai.
3. Tỷ thức: cái biết của lỗ mũi.
4. Thiệt thức: cái biết của lưỡi.
5. Thân thức: cái biết của thân.
Năm thức này gọi là ngũ giác quan, cả năm thức này khi
chứng được quả vô lậu thì nó chuyển thành '' Thành sở tác trí''.
6. Trong khi mắt tai mũi lưỡi thân chúng ta không tiếp xúc
với trần cảnh mà ý thức vẫn phân biệt tính toán, nhớ cảnh đã qua, suy xét những
điều chưa đến cái biết như thế gọi là ''ý thức'' công năng của thức thứ 6 suy
xét ghi nhớ những chuyện đã qua chưa đến hay hiện tại chúng ta đều biết được,
cái biết như thế trong duy thức gọi là ''ý thức'' cái biết của ý gọi là đệ lục
thức (cái biết thứ sáu).
Cái ý thức này, công dụng của nó lợi hại vô cùng. Nếu nó
suy nghĩ tính toán những việc hay tốt thì thân chúng ta sẽ làm điều lành, miệng
nói lời phải đều có lợi ích cho mình và người. Như các vị tu hành, khi niệm
Phật, quán tưởng, tham thiền, nhập định... đến lúc thành đạo chứng quả cũng nhờ
công dụng của ''đệ lục thức này'' đến khi chứng quả vô lậu thì ý thức trở thành
'' diệu quan sát trí''.
Ở
thế gian, kinh doanh sự nghiệp lớn lao, làm những việc vĩ đại cũng đều có ý
thức này mà suy nghĩ lợi hại cả, nên trong duy thức nói ''công vi thủ tội vi
khôi'' nghĩa là luận về công thì thức này có công hơn hết còn nói về ác thì
thức này đứng đầu.
Trên đã nói mỗi người có sáu cái biết hay nói bằng cách
khác là sáu món cảm giác nhưng suy xét sâu thêm thì cái ý thức kia tuy ở trong
ba thời quá khứ, hiện tại và vị lai đều có công năng phi thường hơn năm thức
trước nhưng có khi nó cũng bị gián đoạn. Như trong những trường hợp như ta ngủ
mê hoặc chết ngất hay lúc bị thuốc mê và những người tu vô tưởng định v.v...
lúc đó ý thức không còn hoạt động phân biệt được, đó là những lúc ý thức bị
gián đoạn.
Qua các thời gian ấy, ý thức (cái biết thứ sáu) lại khởi
lên phân biệt như thường. Khi ý thức bị gián đoạn lúc ấy không phải bị mất hẳn
như vậy nó sẽ đi đâu? lúc ấy nó nương vào ý căn ( nghĩa là cái gốc của ý thức
thứ 6). Ví như cây cỏ cú lúc bị trời nắng thì nó không phát triển được mầm nó
ẩn trong củ dưới lòng đất hoặc bị đá đè
thì nó không phát hiện được mầm chồi của nó. Nhưng đến khi có nước hoặc tảng đá
dời khỏi thì từ nơi gốc nó sẽ đâm chồi nẩy lộc. Lúc nó chưa phát khởi nó trở về
nơi gốc của nó đó là thức thứ 7. Trong Duy thức gọi là ý căn (gốc của ý thức)
theo tiếng Phạn gọi là ''Mạt Na Thức''.
Công năng của thức thứ 7 này là thường thường chấp ta khác
với người, chúng ta đi đứng nằm ngồi không lúc nào quên được mình (ta). Khi đối
với người nói chuyện, vừa mở miệng ra là đã nói '' tôi'' ''ta'' hay những
lúc tình cờ bị người đánh hoặc cây rớt v.v... thì ta ngẫu nhiên tránh hoặc đưa
tay ra đỡ. Đây là những bằng chứng thức này luôn bảo thủ cái ngã (ta).
Cho đến khi sanh về cõi Trời, thức này chấp mình là trời,
sanh cõi người chấp mình là người, cho đến sanh loài vật chấp mình là loài vật.
Tóm lại, từ phàm
đến Thánh không một vị nào chẳng chấp có ta trừ những vị chứng được ''sanh
không trí''. Thức thứ 7 này có công năng đem các pháp hiện hạnh luôn chứa vào
một cái kho vô tận (tàng thức) rồi từ kho ấy đưa ra chủng tử các pháp khởi hiện
hạnh. Nếu không nhờ thức thứ 7 này huân tập những việc thấy nghe hay biết vào
kho vô tận thì chúng ta không thể ký ức lại được một việc gì cả.
Ví như máy nhiếp ảnh, khi nhiếp xong đem phim cất một nơi
nào đó thì đến khi rọi lại cảnh vật vẫn hiện ra như lúc cũ. Bởi có nhớ lại
được, nên biết rằng nó có chứa đựng một nơi nào đó.
Thế nên thức thứ 7 này cũng có tên là ''truyền thống thức''
(truyền vào tống ra). Đến khi chứng quả vô lậu thì thức này đổi tên là'' Bình đẳng tánh trí"
8. Cứ theo chánh giác và chánh lý mà phán đoán, đã có cái
''năng phân biệt chấp ta'' tức là thức thứ 7 thì cố nhiên phải có ''cái ta bị
chấp'' là thức thứ 8. Cũng như nói ''tôi cầm viết'' đã có cái tay cầm nhất định
phải có vật bị cầm. Vì thế nên thức thứ 8 cũng có tên ''ngã ái chấp tàng'' bị
thức thứ 7 chấp làm ta.
Như trên đã nói ''thức thứ 7 đem các pháp hiện hạnh huân
chứa vào một nơi''. Nếu đã có kẻ đem chứa thì nhất định phải có chỗ để chứa.
Cũng như có người đem cất đồ vào kho thì phải có cái kho để chứa cất.
Như khi chúng ta đi du ngoạn xem không biết bao nhiêu phong
cảnh, thấy những vật lạ thường khi trở về nhà các cảnh ấy không còn thấy nữa.
Nhưng một phen nhớ lại thì thấy rõ ràng như trước mắt vẫn có lớp lang tuần tự.
Như thế thì biết rằng phải có cái kho bằng tinh thần vô hình và vô tận (tàng
thức).
Nhờ cái tàng thức này mà những việc làm đã qua, những hình
ảnh ta đã xem, những sự việc đó được ghi nhận tàng trữ lại nên ta không quên.
Vì thế nên biết có một cái kho vô hình chứa giữ lại cái kho ấy theo Duy thức
gọi là ''tàng thức'' nghĩa là ''cái thức chứa''. Vì nó chứa căn thân khí giới
và chủng tử các pháp vậy cũng có tên là ''đệ bát thức'' (cái biết thứ 8) theo
tiếng Phạn gọi là ''A lại da thức''. Đến khi chứng được quả vô lậu thì thức này
đổi tên là'' bạch tịnh thức'' hay
gọi là '' Đại viên cảnh trí''.
Bài kệ nói về tài năng và tác dụng của tám thức để dễ nhớ
như sau:
Bát cá đệ huynh nhứt cá si
Độc hữu nhứt cá tối linh ly
Ngũ cá môn tiền tố mãi mại
Nhứt cá gia trung tác chủ y.
- Trong 8 anh em thức thứ 7 là si (ngã si) Duy có thức thứ
6 là khôn lanh. Còn 5 thức trước như người làm công ở ngoài cửa lo buôn bán
tiếp rước khách hàng (tiếp với 5 cảnh). Một mình thức thứ 8 làm ông chủ nhà
(chứa đựng).
Xét ra ta biết được khả năng của 8 thức mà thức thứ 6 và
thức thứ 7 là lợi hại hơn cả. Nếu thức thứ 7 si mê bo bo chấp ngã, thức thứ 6
suy tính làm những việc tội ác thì chúng ta muôn kiếp trầm luân không bao giờ
thoát ly sanh tử luân hồi được.Vì thế người tu Phật lúc nào cũng phải dùng thức
thứ 6 và thứ 7 quán nhơn vô ngã để phá trừ ngã chấp, dứt phiền não chướng rồi
quán pháp vô ngã để phá trừ pháp chấp, dứt sở tri chướng. Khi ngã chấp và pháp
chấp hết rồi, tức phiền não chướng và sở tri chướng đã dứt thì chứng được hai
quả thù thắng Bồ Đề- Niết bàn.
Vì thế trong lúc tu nhơn thì chỉ dùng thức thứ 6 và thức
thứ 7 đến khi kết quả thì cả 5 thức trước và thức thứ 8 cũng được viên thành.
Vì 5 thức trước như người làm công, không có quyền, còn
thức thứ 8 có khả năng chứa đựng thức thứ 6 và 7. Nếu có công thì nó hạng nhất
mà có tội nó đứng đầu. Nên người học Phật đối với hai thức này lúc nào cũng
phải cẩn thận và sửa đổi, như vậy gọi là tu./.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét