Thứ Năm, 27 tháng 10, 2016

TU VÀ TÂM

TU VÀ TÂM

          Chữ tu là sửa, sửa cái xấu trở thành cái tốt, sửa dở trở thành hay, sửa trái thành phải, sửa phàm thành Thánh.
          Như nhà cửa, ruộng vườn, xe cộ hư nát nay ta sửa lại cho tốt đẹp như thế gọi là ''tu bổ'' Thân thể ta lôi thôi, hành vi bẩn thiểu nay sửa lại cho đàng hoàn gọi là ''tu thân'', tâm thánh, tật đố, tà kiến si mê v.v.. nay sửa lại trở nên tâm tánh tốt đẹp như vậy gọi là ''tu tâm''.
          Tâm là cái hiểu biết phân biệt còn gọi là ''phần tinh thần''. Tâm không có hình tướng dài ngắn vuông tròn, hay màu sắc xanh đỏ, trắng đen, không thể dùng con mắt mà thấy được tâm, không thể dùng lỗ tai mà nghe được tâm, không thể dùng tay chân mà sờ đụng để biết được tâm, chỉ do thấy cái tác dụng của nó mà biết được tâm. Cũng như điện ta không thấy hay sờ mó được điện, chỉ thấy tác dụng của nó mà biết có điện, như cho điện vào quạt thấy quạt xoay, vào bóng đèn thấy đèn sáng v.v.. vì thế người ta biết có điện. Tâm chúng ta cũng thế vì nó có tác dụng thấy nghe và phân biệt v.v.. nên ta biết có tâm.
          Tâm chia làm hai phần: chơn tâm và vọng tâm. Đứng về chơn tâm (thể) thì không thể dùng lời nói luận bàn hay tâm trí suy nghĩ được, mà phải tự chứng ngộ nên trong kinh nói ''rời tướng nói năng, rời tướng danh tự, rời tướng tâm duyên. Song đứng về ''vọng tâm'' thì có thể nói năng và phân biệt được.
          Chơn tâm còn gọi là Phật tánh khi chúng ta hiểu biết và diệt trừ được ''vọng tâm'' rồi thì ''chơn tâm'' hiện ra cũng như sóng lặng rồi thì tánh nước bằng phẳng tự hiện ra hay nước đục được lắng trong thì tánh nước trong tự hiện.
          Như ta đã biết, tâm không thể thấy nghe hay sờ mó được. Song nhờ thấy cái tác dụng của nó qua các giác quan mà ta biết được.
          Mọi người không chỉ có năm giác quan mà có đến tám cái ''biết'' tức là tám cái tâm. Theo danh từ Duy thức của Phật học gọi là ''tám thức'' , '' tám cái biết''.
          Tám cái tâm này đều có chủ quyền thống lãnh mỗi chỗ, cũng như mỗi ông vua thống lãnh mỗi nước nên trong duy thức học gọi là ''tám tâm vương''.
          Nói về tâm đạo Phật chia làm hai loại: tâm vương và tâm sở. Tâm vương là chính, tâm sở là phụ ví như nhà vua (tâm vương) và quân thần ( tâm sở).
          Tám tâm vương là:
          1. Nhãn thức: cái biết của con mắt.
          2. Nhĩ thức: cái biết của lỗ tai.
          3. Tỷ thức: cái biết của lỗ mũi.
          4. Thiệt thức: cái biết của lưỡi.
          5. Thân thức: cái biết của thân.
          Năm thức này gọi là ngũ giác quan, cả năm thức này khi chứng được quả vô lậu thì nó chuyển thành '' Thành sở tác trí''.
          6. Trong khi mắt tai mũi lưỡi thân chúng ta không tiếp xúc với trần cảnh mà ý thức vẫn phân biệt tính toán, nhớ cảnh đã qua, suy xét những điều chưa đến cái biết như thế gọi là ''ý thức'' công năng của thức thứ 6 suy xét ghi nhớ những chuyện đã qua chưa đến hay hiện tại chúng ta đều biết được, cái biết như thế trong duy thức gọi là ''ý thức'' cái biết của ý gọi là đệ lục thức (cái biết thứ sáu).
          Cái ý thức này, công dụng của nó lợi hại vô cùng. Nếu nó suy nghĩ tính toán những việc hay tốt thì thân chúng ta sẽ làm điều lành, miệng nói lời phải đều có lợi ích cho mình và người. Như các vị tu hành, khi niệm Phật, quán tưởng, tham thiền, nhập định... đến lúc thành đạo chứng quả cũng nhờ công dụng của ''đệ lục thức này'' đến khi chứng quả vô lậu thì ý thức trở thành '' diệu quan sát trí''.
Ở thế gian, kinh doanh sự nghiệp lớn lao, làm những việc vĩ đại cũng đều có ý thức này mà suy nghĩ lợi hại cả, nên trong duy thức nói ''công vi thủ tội vi khôi'' nghĩa là luận về công thì thức này có công hơn hết còn nói về ác thì thức này đứng đầu.
          Trên đã nói mỗi người có sáu cái biết hay nói bằng cách khác là sáu món cảm giác nhưng suy xét sâu thêm thì cái ý thức kia tuy ở trong ba thời quá khứ, hiện tại và vị lai đều có công năng phi thường hơn năm thức trước nhưng có khi nó cũng bị gián đoạn. Như trong những trường hợp như ta ngủ mê hoặc chết ngất hay lúc bị thuốc mê và những người tu vô tưởng định v.v... lúc đó ý thức không còn hoạt động phân biệt được, đó là những lúc ý thức bị gián đoạn.
          Qua các thời gian ấy, ý thức (cái biết thứ sáu) lại khởi lên phân biệt như thường. Khi ý thức bị gián đoạn lúc ấy không phải bị mất hẳn như vậy nó sẽ đi đâu? lúc ấy nó nương vào ý căn ( nghĩa là cái gốc của ý thức thứ 6). Ví như cây cỏ cú lúc bị trời nắng thì nó không phát triển được mầm nó ẩn trong củ dưới lòng đất hoặc  bị đá đè thì nó không phát hiện được mầm chồi của nó. Nhưng đến khi có nước hoặc tảng đá dời khỏi thì từ nơi gốc nó sẽ đâm chồi nẩy lộc. Lúc nó chưa phát khởi nó trở về nơi gốc của nó đó là thức thứ 7. Trong Duy thức gọi là ý căn (gốc của ý thức) theo tiếng Phạn gọi là ''Mạt Na Thức''.
          Công năng của thức thứ 7 này là thường thường chấp ta khác với người, chúng ta đi đứng nằm ngồi không lúc nào quên được mình (ta). Khi đối với người nói chuyện, vừa mở miệng ra là đã nói '' tôi'' ''ta'' hay những lúc tình cờ bị người đánh hoặc cây rớt v.v... thì ta ngẫu nhiên tránh hoặc đưa tay ra đỡ. Đây là những bằng chứng thức này luôn bảo thủ cái ngã (ta).
          Cho đến khi sanh về cõi Trời, thức này chấp mình là trời, sanh cõi người chấp mình là người, cho đến sanh loài vật chấp mình là loài vật.
          Tóm lại, từ phàm đến Thánh không một vị nào chẳng chấp có ta trừ những vị chứng được ''sanh không trí''. Thức thứ 7 này có công năng đem các pháp hiện hạnh luôn chứa vào một cái kho vô tận (tàng thức) rồi từ kho ấy đưa ra chủng tử các pháp khởi hiện hạnh. Nếu không nhờ thức thứ 7 này huân tập những việc thấy nghe hay biết vào kho vô tận thì chúng ta không thể ký ức lại được một việc gì cả.
          Ví như máy nhiếp ảnh, khi nhiếp xong đem phim cất một nơi nào đó thì đến khi rọi lại cảnh vật vẫn hiện ra như lúc cũ. Bởi có nhớ lại được, nên biết rằng nó có chứa đựng một nơi nào đó.
          Thế nên thức thứ 7 này cũng có tên là ''truyền thống thức'' (truyền vào tống ra). Đến khi chứng quả vô lậu thì thức này đổi tên là'' Bình đẳng tánh trí"
          8. Cứ theo chánh giác và chánh lý mà phán đoán, đã có cái ''năng phân biệt chấp ta'' tức là thức thứ 7 thì cố nhiên phải có ''cái ta bị chấp'' là thức thứ 8. Cũng như nói ''tôi cầm viết'' đã có cái tay cầm nhất định phải có vật bị cầm. Vì thế nên thức thứ 8 cũng có tên ''ngã ái chấp tàng'' bị thức thứ 7 chấp làm ta.
          Như trên đã nói ''thức thứ 7 đem các pháp hiện hạnh huân chứa vào một nơi''. Nếu đã có kẻ đem chứa thì nhất định phải có chỗ để chứa. Cũng như có người đem cất đồ vào kho thì phải có cái kho để chứa cất.
          Như khi chúng ta đi du ngoạn xem không biết bao nhiêu phong cảnh, thấy những vật lạ thường khi trở về nhà các cảnh ấy không còn thấy nữa. Nhưng một phen nhớ lại thì thấy rõ ràng như trước mắt vẫn có lớp lang tuần tự. Như thế thì biết rằng phải có cái kho bằng tinh thần vô hình và vô tận (tàng thức).
          Nhờ cái tàng thức này mà những việc làm đã qua, những hình ảnh ta đã xem, những sự việc đó được ghi nhận tàng trữ lại nên ta không quên. Vì thế nên biết có một cái kho vô hình chứa giữ lại cái kho ấy theo Duy thức gọi là ''tàng thức'' nghĩa là ''cái thức chứa''. Vì nó chứa căn thân khí giới và chủng tử các pháp vậy cũng có tên là ''đệ bát thức'' (cái biết thứ 8) theo tiếng Phạn gọi là ''A lại da thức''. Đến khi chứng được quả vô lậu thì thức này đổi tên là'' bạch tịnh thức'' hay gọi là '' Đại viên cảnh trí''.
          Bài kệ nói về tài năng và tác dụng của tám thức để dễ nhớ như sau:
Bát cá đệ huynh nhứt cá si
Độc hữu nhứt cá tối linh ly
Ngũ cá môn tiền tố mãi mại
Nhứt cá gia trung tác chủ y.
          - Trong 8 anh em thức thứ 7 là si (ngã si) Duy có thức thứ 6 là khôn lanh. Còn 5 thức trước như người làm công ở ngoài cửa lo buôn bán tiếp rước khách hàng (tiếp với 5 cảnh). Một mình thức thứ 8 làm ông chủ nhà (chứa đựng).
          Xét ra ta biết được khả năng của 8 thức mà thức thứ 6 và thức thứ 7 là lợi hại hơn cả. Nếu thức thứ 7 si mê bo bo chấp ngã, thức thứ 6 suy tính làm những việc tội ác thì chúng ta muôn kiếp trầm luân không bao giờ thoát ly sanh tử luân hồi được.Vì thế người tu Phật lúc nào cũng phải dùng thức thứ 6 và thứ 7 quán nhơn vô ngã để phá trừ ngã chấp, dứt phiền não chướng rồi quán pháp vô ngã để phá trừ pháp chấp, dứt sở tri chướng. Khi ngã chấp và pháp chấp hết rồi, tức phiền não chướng và sở tri chướng đã dứt thì chứng được hai quả thù thắng Bồ Đề- Niết bàn.
          Vì thế trong lúc tu nhơn thì chỉ dùng thức thứ 6 và thức thứ 7 đến khi kết quả thì cả 5 thức trước và thức thứ 8 cũng được viên thành.

          Vì 5 thức trước như người làm công, không có quyền, còn thức thứ 8 có khả năng chứa đựng thức thứ 6 và 7. Nếu có công thì nó hạng nhất mà có tội nó đứng đầu. Nên người học Phật đối với hai thức này lúc nào cũng phải cẩn thận và sửa đổi, như vậy gọi là tu./.

TU VÀ TÂM Rating: 4.5 Diposkan Oleh: CHÙA TAM BẢO TAM KỲ

0 nhận xét:

Đăng nhận xét