NHÂN QUẢ PHỤ GIẢI LƯƠNG HOÀNG SÁM
Biên giảng: QUẢ KHANH
Hạnh Đoan Lược dịch
NHÀ XUẤT BẢN PHƯƠNG ĐÔNG
LỜI
NGƯỜI DỊCH
Theo
như tôi được biết, bộ sách “Nhân quả phụ giải Lương Hoàng Sám” này là soạn phẩm
cuối cùng của Quả Khanh, vì khi dịch sách “Báo Ứng Hiện Đời” của ông, thỉnh thoảng
nghe nhiều nhân vật (vai chính) trong sách nhắc đến, ca ngợi nhờ bộ “Nhân quả
phụ giải Lương Hoàng Sám” này mà họ được vô vàn lợi ích, nên tôi đã cất công săn
lùng, truy tìm… phải mất mấy năm mới gặp được.
Nhưng
sau khi đọc xong nguyên bản, tôi lại ngần ngại không muốn dịch ra, bởi những tình
tiết huyền bí trong kinh điển tương đối dễ chấp nhận, vì đó là lời Phật giảng,
là kinh được chư Thánh kết tập, ghi lại. Nhưng nếu những tình tiết huyền hoặc
xuất hiện trong đời cho dù là dưới sự chứng kiến và thuật lại của Quả Khanh thì
rất dễ khiến người hoài nghi, khó chấp nhận.
Vì
vậy tôi đã đắn đo, e ngại… không muốn dịch. Nhưng rồi những cú điện thoại của độc
giả gọi tới làm tôi đổi ý.
Một
nam sinh viên điện tới, vừa khóc vừa tâm sự:
-
Nhờ đọc sách nhân quả cô dịch mà con hiểu ra mình đã ngu muội tạo lỗi, vô tình
phạm tội rất nhiều. Từ rày con nguyện tu sửa thân tâm, giữ gìn phẩm hạnh thật tốt…
Một
cô gái 17-18 tuổi đã hớn hở thổ lộ:
-
Nhờ bộ sách nhân quả của cô mà con e dè không tạoác, con mừng là mình được sớm
biết mọi điều khi còn trẻ, từ nay con sẽ cẩn thận giữ gìn thân tâm và nguyện sống
thật tốt, không uổng phí kiếp người…
Có
những vịđọc sách chấn động, bật khóc nức nở nguyện từ đây đoạn
ác tu thiện, thệ giữ giới như giữ tròng con mắt…
Có
những người chuyên rải đinh trên đường thức tỉnh hồi đầu…
Có
nhiều người muốn tự tử nhờ đọc sách mà tỉnh ngộ, kịp thời lưu lại mạng sống…
Rất
nhiều những tâm sự chân tình khiến tôi xúc động, cảm thấy được khích lệ thật nhiều.
Thế là tôi quyết định dịch tiếp. Do tác phẩm này quá dày, nên tôi phải chia ra
thành hai cuốn và cũng xin phép giản lược, chỉ dịch những đoạn cần thiết liên
quan đến các chuyện nhân quả, cố gắng giảm thiểu sự trùng lập tối đa. Thế nên vị
nào muốn xem toàn bộ sám văn có thể tìm đọc trong cuốn “LƯƠNG HOÀNG SÁM”.
Tuy
Quả Khanh là cư sĩ nhưng ông vừa gặp Hòa thượng Diệu Pháp thì đã “một nghe ngàn
ngộ”, nghiêm cẩn tu trì, khai mở đại trí huệ. Dù ông không tự xưng chứng đắc,
nhưng suốt quá trình dịch các tác phẩm của ông, tôi cảm nhận rằng ông và con
trai, con gái đều nhìn thấu các kiếp, các cõi… hiểu rõ nhân quả quá khứ vị lai,
nhưng ông chỉ gọi khả năng này là “khai phát trí huệ” và dùng đây để gỡ rối cứu
độ rất nhiều người, thậm chí kẻ gian manh trộm cắp khi gặp ông cũng thức tỉnh
tu hành, trở thành hiền nhân, nối tiếp sự nghiệp độ sinh… Nghĩa là bất kỳ ai gặp
qua ông, sau khi nghe ông giảng pháp rồi, đa số đều thệ nguyện dứt ác tu thiện,
bỏ mặn ăn chay, nghiêm trì giới luật, thay đổi cả cuộc đời và sống hạnh phúc.
Ngay
cả ngài Tuyên Hóa từ đất Mỹ xa xôi cũng xuất tiền mua vé mời ông và con gái là
Quả Lâm sang Mỹ, giao pháp tòa để hai cha con thay ngài giải đáp, giảng dạy… gỡ
rối cho đại chúng từ khắp nước trên thế giới đến nghe (suốt hai năm cuối đời
ngài luôn có ông sát cánh túc trực kề bên, cùng đi khắp nơi hoằng pháp)… đủ thấy
vị trí ông rất quan trọng. Tôi thầm đoán có thể ông cũng là một vị mật hạnh “ứng
thân” dưới hình dáng cư sĩ.
Do
trong Kinh Địa Tạng Phật từng nói: “Chúng sinh cõi Ta bà ương bướng khó độ, niệm
ác nhiều, niệm thiện ít, quen huân thói xấu, thiện hạnh mỏng manh, nên ta và
chư Bồ tát từ đó đến nay luôn phân thân khắp trăm ngàn, từng “ứng thân” vào các
cõi để hóa độ họ, thậm chí còn biến thành sông nước, ao hồ, cây cỏ… để tùy
duyên hóa độ. Và Phật cũng từng “phú giao” chúng sinh cõi Ta bà cho Bồ tát Địa
Tạng, dặn dò Ngài lo hóa độ họ tu giác ngộ, đừng để họ mê muội bị đọa vào ba
cõi ác.
Nhưng
chư Phật, Bồ tát khi vào cõi trần độ sinh (trong thời này) không hề ngồi trên
tòa sen, hay núp dưới danh Phật, Bồ tát, vì vậy sẽ khiến những phàm nhân tự ti luôn
cho rằng mình xuất thân vốn thấp hèn ngu muội không dám tin rằng mình có khả
năng giác ngộ tu thành như chư Phật, Bồ tát… Vì vậy mà các ngài phải “ứng
thân”: nghĩa là sinh vào nhân gian qua hình hài phàm nhân, có cha mẹ bình thường,
mang đủ thân phận giai cấp bất đồng, thậm chí khoác cả hình dáng kỹ nữ, đạo tặc…
để có thể đồng sự, ngang hàng hòng độ đủ tầng lớp chúng sinh, gieo cho họ niềm
tin “mình có khả năng tu chứng”…
Nếu
ngày xưa có cả nhà Bàng Long Uẩn khai ngộ Thiền cơ ra đi tự tại, thì ngày nay
cũng không lạ gì khi cả gia đình Quả Khanh (thậm chí bạn bè và đệ tử ông) đều
khai ngộ, có trí tuệ và khả năng phi phàm. Tất cả không dùng đó để khoe khoang,
phô trương bản ngã, mà chỉ nhắm vào việc tháo gỡ mê muội của chúng sinh, giúp họ
hiểu và tin sâu nhân quả, tin rằng: Bất kỳ ai cũng có thể tu chứng nếu hành
đúng theo lời Phật dạy. Quả Khanh thường tuyên bố rằng: “Muốn người không phạm
tội, tránh đọa lạc… thì phải giúp họ hiểu biết nhân quả”. Do ông giữ giới rất
nghiêm nên không nói dối. Vì vậy những chuyện ông kể, ghi trong đây không hề bịa
đặt.
Quả
Khanh cũng nhắc mãi: Muốn tìm ngài Diệu Pháp xin hãy tìm trong kinh. Muốn gặp họ
xin hãy hành trì đúng như Phật dạy… “Hòa thượng Diệu Pháp” chỉ là hóa danh tạm
đặt cho một vị cao tăng, không phải tên thật. Chuyện thì hoàn toàn có thật,
nhưng tên và địa danh của tất cả nhân vật trong sách Quả Khanh bắt buộc phải
thay đổi.
Xin
nhắc lại: Bản thân tôi chỉ là dịch giả, không phải là người trung gian có thể
giúp quý vị gặp Hòa thượng Diệu Pháp hay Quả Khanh (xin quý vị đừng tưởng lầm
và cứ hỏi mãi… do tôi bế quan không tiếp khách nên quý vị có nhu cầu cần liên lạc,
xin vui lòng gọi cho người đại diện tôi qua số phone 0938.422.977).
Như
Quả Khanh từng nói: “Chúng ta phải cảm tạ chính phủ và tri ân ban thẩm duyệt đã
cho phép Phật pháp và sách nhân quả được lưu truyền, nhờ vậy mà chúng ta mới được
xem những bộ sách tuyệt hay và được dịp nếm trải những kinh nghiệm hi hữu… Thế
nên mỗi người Phật tử chúng ta nên báo ân bằng cách: Nguyện làm một công dân tốt,
tuân thủ quốc pháp, hằng giữ gìn phẩm hạnh sạch trong, luôn nghĩ đến và làm những
điều có ích cho xã hội, quốc gia”…
Xin
cảm ơn những người đã âm thầm hỗ trợ khích lệ tôi. Dịch phẩm này được thành tựu
là nhờ sự giúp đỡ lặng lẽ và cổ vũ chân tình của bao người. Xin hồi hướng phước
điền dịch thuật này đến tất cả chúng sinh trong pháp giới, mong rằng tác phẩm
này tiếp tục đem đến cho quý vị thật nhiều lợi ích.
Hạnh Đoan
30
tháng 8 năm 2015
LỜI
TÁC GIẢ
18 năm trước tôi tình cờ xem cuốn “Giác
Hải Từ Hàng”, nhờ đấy mà tiến vào biển Phật pháp và thay đổi cả đời mình.
Lần đầu đến chùa, tôi thỉnh về cuốn “Tuyển
Tập Khai Thị” của ngài Tuyên Hóa. Đây là cuốn sách hướng dẫn dễ hiểu, giúp tôi
phân biệt rành rẽ thiện – ác, biết làm một người tốt là thế nào, am tường lục đạo
luân hồi và cách thoát ly tam giới ra sao. Cuốn sách này giống như ngọn đèn phá
tan mọi u ám trong tâm tôi, khiến tôi như kẻ mù được sáng mắt, tâm được khai
thông như vừa dọn dẹp xong rừng cỏ mịt mù.
Tôi rất thích xem các kinh sách của ngài
Tuyên Hóa giảng. Tôi xem say mê, vô cùng phấn chấn, thường đọc thâu đêm suốt
sáng, ngày ngày tận hưởng pháp hỉ sung mãn.
Khi đó tôi mới hiểu đạo nên khoái lắm. Hễ
gặp ai, có bàn gì cũng toàn nói về Phật pháp, tôi kể lể vì sao mình từ bỏ hút
thuốc, uống rượu… thệ dứt ăn mặn và sốt sắng khuyên người mau nghiêm trì giới
luật, ăn chay trường. Cho dù ở đâu: trên máy bay hay hỏa xa… bất cứ nơi nào,
tôi cũng say sưa bàn luận kinh pháp thao thao bất tuyệt. Tôi giống như kẻ vừa
phát hiện ra kho báu cực quý, quýnh quáng rủ người cùng khui lấy để chung hưởng…
Ngày mồng 8 tháng 12 năm 1993, quá nửa
đêm, lúc đó không giờ mười phút. Tôi đang chăm chú xem kinh sách của ngài Tuyên
Hóa giảng và đăm chiêu, tư lự nghiền ngẫm… thì ngài Tuyên Hóa bỗng gọi điện đến
nhà tôi, điều này bất ngờ đến tôi phải thú nhận rằng dù có nằm mơ cũng không
dám nghĩ tới. Lần đầu tiên được hóa thân Bồ-tát Quan Thế Âm gọi điện tới; cũng
là lần đầu cùng được hầu chuyện cùng ngài (ở cách xa nhau nửa vòng trái đất),
tôi xúc động đến không thể dùng ngôn từ nào để diễn tả. Hơn thế nữa, tôi còn được
vinh hạnh nghe ngài ngỏ lời mời mình và con gái Dương Văn pháp danh Quả Lâm đến
Vạn Phật Thành.
Suốt thời gian ra nước ngoài, hằng ngày
sớm tối tôi luôn được kề cận ngài, theo ngài đến khắp các “Tổng hội Đạo tràng
Phật giáo” trên thế giới. Ân sư nhân thân mẫu mực, chúng xuất gia tôn nghiêm,
giới luật thanh tịnh, khiến chúng tôi cung kính đảnh lễ… Bản thân tôi một lần nữa
được mở rộng tầm mắt và bước vào con đường mới mẻ của kiếp nhân sinh.
Năm 1995 ngài Tuyên Hóa viên tịch, tôi
và con gái quay về Đại Lục, thầm cảm ngộ sâu sắc lý vô thường, chữ tử càng hằn
sâu nơi tâm. Dù không níu giữ được những gì đã trôi qua, nhưng do tại Đại Lục
và Mỹ quốc tôi đã có cơ may chứng kiến rất nhiều câu chuyện nhân quả kỳ diệu sống
động, vì vậy mà không cam tâm để chúng bị mai một, nên tôi mạnh dạn viết ra bộ
sách “Nhân Quả Báo Ứng Hiện Đời” cho mọi người tham khảo, hy vọng khi xem xong,
độc giả sẽ minh bạch lý nhân quả Phật thuyết và biết tỉnh giác, tự kiểm điểm bản
thân, phát tâm bước vào con đường học Phật trì giới ăn chay, tịnh hóa bản tâm,
hưởng được pháp vị, lìa khổ được vui.
Vì lý do tế nhị, tôi bắt buộc phải giấu
đi tên họ, địa điểm của nhân vật. Nhưng xin khẳng định: Những chuyện tôi kể
hoàn toàn có thực, chỉ có tên người và địa danh tạm đổi thôi.
Tôi kể lại những câu chuyện nhân quả này
với hi vọng là có thể cảnh tỉnh người, xin quý vị hiểu ý tôi, không nên bôn ba đi khắp nơi tìm Hòa thượng
Diệu Pháp, đừng hướng ngoại tìm cầu.
Bởi vì đã có nhiều người giả danh mạo nhận là Hòa thượng Diệu Pháp để gạt lường,
trục lợi. Việc này xảy ra ở khắp nơi như: Ngũ Đài, Bắc Kinh, Thạch Gia
Trang, Giang Tô v.v…
Quý vị phải biết rằng: Người tu chân
chánh thì không hề đi khắp nơi xin tiền bất luận là nhân danh gì. Tôi đặt tên
“Diệu Pháp” là hàm ý rằng: “Phật pháp là
Diệu Pháp, chỉ những ai chân chánh tu hành đúng theo giáo lý Phật dạy mới là Đại
sư”.
Chỉ cần quý vị y theo pháp Phật phụng
hành, trì giới thực tu, không hướng ngoại tìm cầu, tức là đi đúng chánh đạo.
Tôi xin cam đoan những nhân vật trong “Báo ứng hiện đời” hoàn toàn có thực, chỉ
khi nào nhân duyên hội đủ, chín muồi, thì bạn mới có thể gặp.
Theo giáo lý Phật, pháp sám hối giúp
tiêu trừ nghiệp chướng rất mạnh, là diệu pháp giải thoát sinh tử. Trong Kinh
Nghiệp Báo Sai Biệt có nói: “Nếu người tạo trọng tội, biết ăn năn tự trách, tha
thiết sám hối nguyện chẳng phạm lại, có thể bạt trừ các nghiệp tội căn bản”…
Còn kinh Kim Quang Minh nói: “Ngàn kiếp tạo ra vô biên tội nghiệp, một phen sám
hối liền được thanh tịnh”. Phật đối với pháp môn sám hối luôn khai thị, hướng dẫn
chúng ta cách tu hành thiết thực, Lương Hoàng Bảo Sám là đại diện cho pháp sám
hối thù thắng trong Phật môn.
Cuối năm 1994, tôi và Quả Lâm ở tại
Thánh Tự Mỹ Quốc, tham gia pháp hội lạy Lương Hoàng Sám. Lúc đó tôi xúc động vô
cùng, khi nghe lời văn sám kể ra đầy đủ các tội, chữ chữ câu câu giống như roi
cảnh tỉnh quất vào tâm, khiến tôi bừng tỉnh cơn mê, bắt đầu nhận ra mình đã tạo
vô lượng tội, đồng thời cũng khấp khởi mừng vì cuối cùng trong cuộc đời này
mình đã hữu phúc được gặp Phật pháp, có cơ may cải tà quy chánh… và tôi thành
tâm sám hối túc nghiệp như núi cao của mình.
Sau khi về nước không lâu, tôi tiếp tục
lạy Lương Hoàng Sám tại nhà, âm thanh Phật hiệu bỗng trầm, du dương, ngày ngày
sung mãn nơi tiểu Phật đường nhà tôi, lúc này tôi như mê như say, quên hết tất
cả, toàn thân tâm dung nhập vào sám văn và Phật hiệu. Có lúc người nhà cũng
tháp tùng lễ bái theo, việc lễ sám khiến cho toàn gia cảm thấy pháp hỉ sung
mãn, nghiệp tiêu huệ tăng.
Do mấy năm gần đây tôi nghe nhiều bạn đồng
tu kể rằng: Tuy họ có bái mấy bộ Lương Hoàng Sám, nhưng không hưởng được lợi
ích, vì đa số không hiểu ý tứ trong kinh văn, cứ cho rằng “Chỉ cần lễ bái là được
công đức, có thể diệt tội”… Tôi cảm thấy quan niệm như vậy là quá sai! Bởi khi
bái sám bạn cần hiểu rõ câu văn, thâm nhập ý nghĩa trong đó mới là đúng pháp.
Vì vậy tôi nảy ý đem những điều tâm đắc
trong lúc mình từng lễ sám, viết hết ra để chia sẻ. Hy vọng bạn đồng tu xem
xong, thu được nhiều lợi ích, cũng mong có thể giúp cho hàng sơ học tham khảo.
Nguyên văn trong Lương Hoàng Sám đa số
không khó hiểu, do số trang có hạn, nên tôi không lập lại danh hiệu Phật và đối
với những sám văn dễ hiểu cũng không nhắc lại làm chi, tôi chỉ giải thích những
câu khó hiểu và phụ chú bằng những câu chuyện nhân quả để làm rõ nghĩa thêm.
Tôi xin phép giấu tên, hoặc đổi tên những nhân vật có thực trong chuyện kể, dù
chuyện đã được đương sự đồng ý cho phép đăng, song những địa danh và tên người
đa phần tôi đều dùng hóa danh để tránh gây phiền lụy cho vai chính trong chuyện.
Mong quý vị thông cảm lượng thứ.
Tôi chỉ mong cuốn sách này sẽ giúp mọi
người hiểu sâu nhân quả và thu được lợi ích.
Mong rằng sau này sẽ có chư đại đức giải
thích Lương Hoàng Sám đầy đủ hơn, giúp mọi người hiểu thêm về pháp môn sám hối,
đem lại nhiều lợi ích tu hành cho chúng sinh.
Tháng 8 năm 2007
Quả Khanh hổ thẹn kính ghi.
LÝ
DO CÓ LƯƠNG HOÀNG BẢO SÁM
Cuốn sám này bắt nguồn từ thời vua Lương
Võ Đế. Tính vua ưa hành thiện, thích tu hành, ông bái cao tăng Chí Công làm Quốc
sư, trị vì 46 năm, thọ 86 tuổi (463 – 549).
Do Hoàng hậu Hy Thị là vợ vua Lương Võ Đế,
lòng nhiều tật đố, kinh khi Tam bảo, tính dữ như độc xà, thấy vua Lương Võ Đế
ưa học Phật tu hành bà rất ghét, từng xé kinh “Diệu Pháp Liên Hoa”, luôn tìm
cách phá hoại giới hạnh thanh tịnh các tu sĩ, hay ác khẩu cuồng ngôn, hủy thanh
quy Phật. Do bà sống không biết tích phúc, chẳng tin báo ứng nhân quả, ngày
ngày tạo ác nghiệp dẫy đầy, vì vậy mà yểu mệnh, mới ba mươi tuổi đã lìa đời. Bà
chết rồi thì đọa làm mãng xà, chịu đói khát, toàn thân luôn bị côn trùng rúc rỉa
đau đớn, chẳng lúc nào được an.
Bà bèn báo tin cho vua Lương Võ Đế hay,
cầu ông cứu mình. Vua vội bái hỏi Hòa thượng Chí Công:
- Hy Thị do đâu bị đọa làm mãng xà?
Chí Công đáp:
- Do bà sống bất kính Tam bảo, tật đố lục
cung, chẳng chịu tạo thêm phúc mà chỉ biết tận hưởng, cứ tưởng vương cung là
thiên đường, không tin nhân quả, chẳng sợ báo ứng, gây ra quá nhiều nghiệp ác.
Vua hỏi:
- Làm sao để siêu độ bà?
Chí Công đáp:
- Nếu muốn siêu độ, bệ hạ cần thiết trai
phạn thỉnh cao tăng cúng dường, lập Đại đàn tràng sám hối tuyên dương Phật
pháp. Ngài cần nghiên cứu kinh tạng, đích thân lễ bái, tụng niệm sám hối…
Vua làm theo lời dạy và thỉnh ngài Chí
Công soạn ra áng văn sám hối này.
Sau đó chúng tăng lập đàn tràng lễ sám,
cầu cho Hy Thị. Khi bộ “Lương Hoàng Sám” vừa tụng xong, thì thấy một vị trời
dung nhan xinh đẹp bảo vua Lương rằng:
Tôi nhờ Phật lực nên thoát kiếp mãng xà,
được sinh thiên, nên nay đến lễ tạ ân.
Qua câu chuyện đó, đủ biết bản sám này
có thể khiến ác tiêu lành đến, tội diệt phúc sinh.
Do lúc Ngài Chí Công biên soạn, đã được
Bồ-tát Di Lặc ứng mộng ban tên là: “Từ Bi Đạo Tràng Sám Pháp”, lại bắt nguồn từ
vua Lương Võ Đế, nên gọi là “Lương Hoàng Bảo Sám”.
Lúc bái sám, có Sư hướng dẫn đại chúng
hành theo, ý nghĩa sám là: Dùng hình thức này giúp mọi người đồng tu, hằng giữ
chính niệm, giờ giờ khắc khắc luôn phản tỉnh kiểm soát bản thân, nhờ chí thành
sám hối, dẹp trừ chướng ngại mà được thanh lương.
Bộ “Lương Hoàng Bảo Sám” này sau khi
siêu độ được hoàng hậu Hy Thị thu được kết quả vi diệu rồi, thì trải qua nhiều
đời, vẫn tiếp tục phát huy uy lực, chiêu nhiều cảm ứng thần kỳ. Do vậy mà được
tôn là Bảo Sám – Bắt nguồn từ chữ “Sám”, bởi nếu không chân chính sám hối thì
không là “Đạo Tràng Từ Bi” mà cũng không thể gọi là “Bảo”.
Vì vậy “Lương Hoàng Bảo Sám” chứa ân huệ
vạn ngàn, đức trùm thiên thu”, công đức sám hối, tán thán không sao hết được.
QUYỂN
1
Sám
văn:
Hôm nay tất cả mọi người đến đây
tham gia lễ sám, tuy không quan hệ huyết thống, nhưng đều có trí huệ và lòng từ
bi có thể cảm thông, đây là Phật duyên thâm tình hơn cả ruột thịt. Hôm nay tại
đạo tràng đồng tu, nguyện đời đời cùng nhau trước Phật, thân xác này tuy có tử
vong, nhưng pháp thân thường còn chẳng lìa, cho nên trong lúc đồng tu không
phân cao thấp, dùng tâm bình đẳng mà đối nhau như quyến thuộc cha mẹ anh chị
em.
Ngưỡng mong Đại chúng hoặc phàm hay
thánh, hoặc ẩn hay hiện trong Đạo Tràng này, đồng gia trì che chở, nhiếp thọ
cho đệ tử chúng con sám hối được thanh tịnh, thệ nguyện được thành, tâm như chư
Phật, nguyện đồng chư Phật. Chúng sinh trong tứ sinh lục đạo nhờ đây mãn Bồ đề
nguyện.
Giải thích:
Lục đạo: Gồm Thiên, Nhân, A tu la, Súc
Sinh, Ngạ Quỷ, Địa Ngục.
Tứ sinh: Bốn loài sinh từthai, noãn, thấp,
hóa sinh. Do nghiệp lực chiêu cảm thành sinh ra trong bốn loài.Thai sinh: Loài trong thai mẹ sinh ra. Noãn sinh: Loài trong trứng sinh ra. Thấp sinh: Từ hàn nhiệt mà sinh ra: như
loài trùng, dòi ở nơi ẩm ướt. Hóa sinh:
Là dựa vào nghiệp lực mà sinh ra như loài trời. Trong lục đạo, người cùng súc
sinh có đủ bốn loại: Thai, Noãn, Thấp, Hóa sinh.
Chúng ta có thể thấy loài súc sinh thuộc
ba loại thai, noãn, hóa sinh. Riêng chúng cõi quỷ thì có hai loại thai sinh và
hóa sinh. Còn tất cả chư thiên cùng chúng ở cõi âm và địa ngục thì thuộc về hóa
sinh.
Hôm nay tại đạo tràng những chúng sinh
hiện diện có thể nhìn thấy, hoặc không nhìn thấy, đồng lễ “Bảo sám”, phát đại
tâm, đại nguyện để báo Phật ân, lúc công đức chưa làm xong, nguyện dùng sức mạnh
công đức sám hối này, cảm hóa chúng sinh hiện có. Khiến phát đại tâm thọ trì giới
Phật không hủy phạm. Dùng sức công đức sám hối này khiến ta đối với chư trưởng
bối, bạn đồng tu không sinh tâm ngã mạn tự kiêu, sống không có tâm tranh đấu,
chẳng khởi tham sân. Nếu thấy người có thân tướng tuyệt hảo, dung sắc tốt hơn
mình thì không khởi tâm tật đố. Nếu gặp chúng sinh hướng ta cầu pháp tu hành xuất
tam giới, tuyệt chẳng lẫn tiếc. Ta có làm được thiện sự và gieo trồng công đức
phúc điền gì, đều hồi hướng cho chúng sinh, cả đến loài cô quỷ, dã quỷ, những
chúng sinh thọ khổ trong địa ngục và tất cả những chúng sinh không được ai tạo
công đức cho, thì ta cũng xin hồi hướng phúc cho họ.
Trước dùng dục câu dắt (thỏa mong cầu
cho họ), sau dẫn vào biển trí tuệ Phật. Đối với người nghèo thường hành bố thí, đối với người cần an ủi thì ban
cho lời dịu dàng, đối với người cần
hỗ trợ thì giúp đỡ làm lợi, đối người
hữu duyên gặp gỡ thì làm đồng sự.
Đây là áp dụng “Tứ nhiếp pháp” tùy duyên mà hóa độ dẫn người vào chánh đạo,
giúp chúng sinh quy hướng Phật đạo. Giúp người già không chỗ nương hoặc kẻ tù tội
mất đi quyền thuộc nương tựa, gặp người không tiền trị bệnh thì phát tâm cứu tế,
khiến họ được an vui, thấy người xâm hại lợi ích tha nhân và quốc gia, thì phải
dũng mãnh ngăn cản cho họ không phạm tội. Nếu gặp kẻ giả thần lộng quỷ, mạo
danh đệ tử Phật để lường gạt tiền tài, thì phải giảng cho họ hiểu, dùng tiếng
sư tử uy dũng để nhiếp phục, khiến họ cải tà quy chính.
Trong tất cả công tác sinh hoạt, trong
tâm thường luôn có Phật. “Nhẫn được những
điều người không thể nhẫn, làm được những điều người không thể làm” xem tất
cả đều là Bồ-tát, mình là phàm phu. Lúc nào cũng kiểm điểm tu sửa bản thân, tùy
duyên độ người.
Đây chính là hành hạnh Bồ-tát, nối tiếp
huệ mệnh Phật. Ngưỡng mong chư Phật, Bồ-tát cùng thiện tri thức gia hộ, giúp đại
chúng hôm nay phát đại nguyện, đạo tâm tăng mạnh.
CHƯƠNG
1 – QUY Y TAM BẢO
Sám
văn:
Hôm
nay Đại chúng nên sinh tâm giác ngộ; biết đời là vô thường, thân không tồn tại
lâu, trẻ mạnh rồi phải già yếu; chớ ỷ hình dung tốt đẹp mà tự làm nhiễm ô
(không giữ tịnh hạnh). Vạn vật vô thường, thảy đều tiêu diệt đâu có gì còn mãi?
Lúc
trẻ thấy dung nhan mỹ lệ, nhưng thân này vốn vô thường. Đời có hợp ắt có tan.
Sinh già bệnh chết không hẹn mà đến, ai sẽ trừ những khổ ấy cho ta?
Khi
tai họa thình lình ập đến, không ai tránh được. Dù sang, hèn, giàu, nghèo gì
cũng đều phải chết, thân thể sình trương, hôi thối. Vậy luyến tiếc thân này nào
có ích chi, nếu không lo tu thì chẳng thể thoát khổ.
Giải thích:
Chúng ta đã biết thân mình giống như
sương sớm, chẳng biết mất lúc nào. Được mang thân người là rất khó, bởi: “Một
khi mất thân người vạn kiếp khó phục hồi” huống chi chúng ta không có đức hạnh
gì đáng khen, cho dù ta có trí tuệ, kiến thức thì hành vi ngôn ngữ thường không
tốt, chẳng được trung hòa nhân nghĩa như thánh hiền, cư xử vô lễ, toàn làm việc
điên đảo ngu si, tạo nghiệp ác trùng trùng.
Ta không hiểu rõ nhân quả giống như chư
thánh, cũng chẳng hiểu Phật pháp, tuy ta có nhiều chí nguyện hoài bão song đều
nằm trong vòng danh lợi, cùng đạo trái ngược rất xa.
Ngày nay ta được tham dự pháp hội bái
sám thù thắng này, mong tất cả đồng sinh tâm ăn năn sám hối, hổ thẹn, biết sợ,
biết lo…
Chúng ta thành tâm sám hối giải bày hết
tội nghiệp sâu nặng, hy vọng nương đại thần lực chư Phật, Bồ-tát và đại chúng
mà tiêu trừ tội nghiệp, và pháp hội mau chóng thực hiện xong. Phải biết pháp hội
sám hối này rất là thù thắng hy hữu.
Mong mỗi người chúng ta tự nỗ lực tinh tấn,
sống lúc nào cũng có Phật trong tâm, thờ phụng Tam bảo đến hết đời, lấy đây làm
vui, pháp hỷ sung mãn. Mong chư vị đồng tu gìn giữ tâm mình, không nên khởi niệm
sai phạm. Hằng mặc giáp nhẫn nhục (ý nói luôn nhẫn giỏi không khởi tâm sân, khi
bị người lăng nhục chửi mắng, phỉ báng, thì khéo dập tắt tham sân si siêng tu
giới định huệ, như vậy mới là thâm nhập pháp môn). “Kinh Lăng Nghiêm” dạy: “Nhiếp
tâm giữ giới, nhân giới sinh định, nhân định sinh huệ. Đây là tam vô lậu học”.
Chúng con… (người bái sám tự xưng tên họ
pháp danh mình ra) bao gồm những người đến tham dự đạo tràng (trong đây có nhiều
chúng sinh mắt ta có thể thấy hoặc không thể nhìn thấy như: Thiên thần, Thọ thần,
Thảo mộc thần, Chư tiên, cùng những vong linh hoạnh tử chưa đầu thai)…
Trước khi lễ sám, người bái sám có thể ở
tại đạo tràng âm thầm nghĩ đến những oan gia trái chủ hay quyến thuộc chưa tin
Phật (thuộc đời quá khứ hoặc hiện tại) của mình, dù họ còn sống hay đã mất, chỉ
cần chư vị niệm tên họ, triệu thỉnh âm thầm nếu như họ đến trước Phật, dù chỉ
khom lưng xá chào hoặc lạy một lễ, chắp tay một lúc, thì xem như là chỉ kết
chút thiện duyên nhỏ bé mỏng manh, song thần thức họ nhờ được bạn kêu mời nên mới
có thể lập tức đến, hiện diện tại đạo tràng này, nếu họ phát tâm chịu tham dự
pháp hội sám hối lễ Phật này, thì ắt sẽ thu được rất nhiều lợi ích.
Khi bạn niệm tên họ, giống như ban cho họ
vé vào cửa để tham dự, nên họ đối với bạn sinh tâm cảm kích không cùng, nhân
đây có thể phát sinh tác dụng hóa giải oán hận.
Thông thường tại các pháp hội lớn nhỏ,
hay ngay trước Phật đường nhà mình (khi chúng ta tụng kinh lễ Phật, sám hối, bạn
vẫn có thể mời thỉnh họ tham gia), dần dần bạn sẽ phát hiện ra: Người trong nhà
cũng đang quy hướng Phật giáo. Thậm chí các oan thân trái chủ trước đây còn có
thể sẽ hướng bạn báo tin vui (tha thứ) trong mộng.
Đương nhiên trong sinh hoạt bình nhật,
trước tiên bạn phải nghiêm trì giới luật. Muốn hành giỏi Phật pháp, bạn phải
làm một người tốt, chu toàn bổn phận trách nhiệm ở cương vị mình. Là đệ tử Phật
thì bắt buộc bạn phải là chồng tốt, vợ hiền, con ngoan, cha mẹ tốt, cha mẹ chồng
bao dung… để mọi người, khi nhìn thấy đệ tử Phật có tư cách, phẩm hạnh ngày
càng cao thượng, thì họ mới tin rằng: Phật giáo thực sự đem lại lợi ích cho bản
thân và gia đình, như vậy mới chịu thử nghiệm, bước vào đạo.
Quỷ thần cũng thế, họ đều có “tha tâm
thông” nên có thể đọc được tư tưởng con người, bạn nghĩ gì, làm gì… họ đều nhìn
rõ mồn một. Nếu bạn là người ác mà muốn gọi họ đến, họ không thèm tới đâu!
Sám văn:
Ngày nay đại chúng đồng nghiệp
trong đạo tràng, nên tha thiết, phát tâm dũng mãnh, tâm an trụ, quảng đại, thù
thắng, không buông lung, tâm đại từ bi, hảo thiện, hoan hỷ, tâm báo ân, tâm tế
độ, tâm giữ gìn, tâm che chở cứu độ hết thảy chúng sinh giống như tâm Bồ tát,
chư Phật! Xin nhất tâm nhất ý, chí thành đảnh lễ Tam bảo…
Nguyện thay thế quốc vương, chủ nước,
thổ địa, nhân dân, cha mẹ, sư trưởng, thiện ác tri thức (ác tri thức là người tạo
nghịch hạnh giúp ta tu hạnh nhẫn – nên ta phải dùng tâm biết ân đối với họ giống
như đối với thiện tri thức), chư thiên, chư tiên, hộ thế Tứ thiên vương, chủ
thiện phạt ác, thủ hộ trì chú, ngũ phương Long vương, Long thần bát bộ khắp mười
phương vô cùng vô tận, bao gồm tất cả chúng sinh có tâm linh, có thần thức, hoặc
ở dưới nước, trên bờ, hoặc ở không trung; xin nguyện thay hết thảy chúng sinh ấy
mà qui y mười phương tận hư không giới hết thảy chư Phật, Tôn pháp, Hiền Thánh
Tăng.
Giải thích:
Phật là “Phật-đà-da” thuộc cổ ngữ Ấn Độ,
dịch là giác ngộ, tức là bậc đại trí huệ hiểu rõ chân tướng vũ trụ vạn vật.
Trong kinh Đại thừa Tâm Địa Quán, giảng rõ: “Về ân đức Tam bảo” thì Phật bảo có
sáu công đức vi diệu:
1. Là Đại công đức điền vô thượng.
2. Là Đại ân đức vô thượng.
3. Là Đại tối tôn trong tất cả.
4. Khó gặp như hoa ưu đàm.
5. Xuất hiện độc nhất trong tam thiên đại
thiên thế giới.
6. Là công đức viên mãn cho cõi thế lẫn
xuất thế.
Sáu công đức đầy đủ này có thể làm lợi
khắp chúng sinh. Nên gọi là Phật bảo, ân không thể lường. Trong kinh này, có
người hỏi Phật:
- Đã có vô lượng hóa Phật hiện đầy thế
giới làm lợi lạc cho chúng sinh, nhưng vì sao chúng sinh trong thế gian đa số đều
không nhìn thấy Phật và lại gặp đủ khốn khó phiền não như thế?
Nghi vấn này cũng là điều mà đa số thắc
mắc. Phật đã giải thích như sau:
- Thái dương luôn chiếu soi khắp, nhưng
riêng người mù không thể nhìn thấy, vậy thái dương có mất chăng? Đương nhiên là
không! Chư Phật thường giảng chánh pháp làm lợi lạc chúng sinh, nhưng do chúng
sinh hay tạo ác nghiệp, không ăn năn thẹn hổ, cũng chẳng hề có tâm muốn thân cận
Phật-Pháp-Tăng.
Những chúng sinh do tạo tội rất sâu nặng,
nên từ vô lượng kiếp đến nay họ không thể thấy hay nghe đến danh từ “Tam bảo”,
hệt như kẻ mù không nhìn thấy thái dương. Nếu ai có thể thờ phụng cung kính tu
theo Phật pháp, tôn trọng Tam bảo, thì người này nhất định nghiệp chướng sẽ
tiêu trừ, phúc huệ tăng trưởng, rất mau được thấy Phật.
Phật cũng là từ phàm phu tu mà chứng quả.
Xin ví dụ thế này:
“Người không hiểu Phật pháp, giống như kẻ
sinh ra bị bệnh đục thủy tinh thể, chỉ thấy tối đen, dù họ có sờ chạm đến vật,
tuy thanh âm, khướu giác nhận được nhưng không rành gì, họ giống như kẻ mù sờ
voi, vĩnh viễn không biết diện mạo con voi ra sao.
Dù có được người sáng mắt giải thích
miêu tả hình dáng con voi lẫn cách sinh hoạt, thì người mù cũng khó tưởng tượng
hình dung ra. Họ sẽ nói:
- Bạn nói con voi màu xám, vậy màu xám
ra sao?
Thế là người sáng mắt bèn chế tạo một mô
hình con voi chuyển động để cho đám người mù dùng tay sờ thử. Những kẻ mù xôn
xao, đồng khen người sáng mắt “quá vĩ đại, tài ba”, thậm chí có dùng hết mọi
ngôn từ tuyệt vời trên thế gian này cũng không biểu đạt được hết sự khâm phục của
kẻ mù dành cho người sáng mắt. Không những họ khen người sáng mắt thông minh
khéo tay, mà còn cảm kích người sáng mắt có thể dắt mình qua đường và miêu tả cảnh
sắc của thế giới tỉ mỉ rõ ràng cho họ.
Ngày nọ, có một phú ông xót thương kẻ mù
và phát tâm cho phẫu thuật miễn phí để giúp người mù hồi phục nhãn quang. Khi
người mù tháo lớp băng che mắt ra rồi, lần đầu tiên được nhìn thấy ánh sáng,
chiêm ngưỡng cảnh quang và màu sắc của thế giới, họ kinh ngạc vui mừng không thể
tả.
Sau khi bình tĩnh, họ bỗng ý thức được
nguyên lai mình có đôi mắt tinh tường giống như bao người sáng mắt, nhưng do bị
bệnh nên không thể thấy ánh sáng, thế là trong lòng họ tự trách mình ngu si, vì
sao không sớm đi phẫu thuật?...
Kể ra câu chuyện này, tôi muốn nói rằng
những người mê đắm ngũ dục (tài, sắc, danh, ăn, ngủ) giống như người bị bệnh đục
thủy tinh, còn thiện tri thức là người sáng mắt, còn kinh điển… và Phật là nhà
tỷ phú từ bi. Sau khi phẫu thuật (trừ bỏ vọng tưởng chấp trước mê đắm ngũ dục rồi),
nếu như bất kỳ ai có lòng can đảm, dám bước vào nhà phẫu thuật, chịu nhận thống
khổ (xả dục) thì ánh quang minh sẽ lập tức hiện ra trước mắt ngay. Bởi vì ai
cũng có đầy đủ trí huệ quang minh “bất sinh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh” giống
như chư Phật, Bồ-tát.
Phật là chúng sinh đã giác, còn chúng
sinh là những vị Phật chưa giác ngộ. Một khi chúng sinh giác, thì bình đẳng
cùng Phật không khác, chẳng còn phân cao thấp trên dưới nữa.
Phật Thích Ca Mâu Ni là đạo sư trực tiếp
của chúng ta, là thầy bổn sư, nên chúng ta mới niệm: “Nam mô Bổn sư Thích Ca
Mâu Ni Phật”…
Nam mô: Gọi theo tiếng phạn có hàm ý quy
y. Giáo pháp mà Phật Thích Ca giảng, không những vô lượng chư Phật trước Ngài từng
đã giảng, mà sau Ngài, chư Phật vị lai cũng sẽ giảng như thế. Bởi vì tận hư khắp
pháp giới, lý đạo chân thật vốn như thế - vốn là quy luật thế gian – Phật pháp
không phải do một vị Phật sáng tạo phát minh ra, nên không thể viện cớ: Nhân vì
thời đại biến đổi mà có thể cải sửa tạo mới, thậm chí còn không thể chỉnh sửa một
từ! Vì vậy mới nói: “Lìa kinh dù chỉ một chữ thì không phải Phật thuyết!”
Giống như thành phần nước là H2O,
nhất định ta không được tăng lên thành H3O, cũng không thể giảm
thành HO. Bởi tăng hay giảm một chút thì chẳng thể thành phân tử nước. Phật
pháp cũng vậy, chỉ có y theo những gì Phật thuyết mà tu mới có thể liễu sinh
thoát tử. Nếu sửa đổi lời Phật thuyết thì chính là ma thuyết! Y theo lời Ngài
mà thực hành, nhất định sẽ thành tựu. Tuyệt đối không thể viện cớ, lấy tiếng là
“để cho thuận hợp với thời đại trào lưu”, hoặc nhân danh “tân tiến” mà xuyên tạc
bóp méo…
Cho nên, qui y Phật không phải là qui y
riêng với một vị Phật nào, mà bao gồm qui y tự tính Phật của tất cả chư Phật tận
hư không khắp pháp giới. Qui y tự tính Phật có nghĩa là tâm chúng ta từ hắc ám
chuyển sang quang minh, tức tâm là Phật!
Qui y Pháp cũng không phải qui y với
riêng một bộ kinh nào của Phật giảng, mà là qui y tất cả Phật pháp hiện hữu.
Trong “Luận Đại Trí Độ” nói: Phật pháp không những do chính kim khẩu Phật thuyết
mà còn là thiện ngữ chân thật vi diệu tốt lành của thế gian, tất cả đều xuất
sinh trong Phật Pháp.
Trong “Phật Tỳ Ni” thuyết: Sao là Phật
pháp? Phật pháp do (ngũ chủng nhân) năm loại người thuyết:
Một là từ kim khẩu Phật thốt ra. Hai là
do đệ tử Phật nói. Ba là do tiên nhân nói. Bốn là do chư thiên nói. Năm là do
hóa nhân nói.
Kinh pháp Phật giảng, có khi vì người mà
phương tiện thuyết pháp cứu cánh viên mãn. Chữ (經)
“Kinh”
củaTrung Quốc có nghĩa là (路 lộ)
“đường”. Bên trái chữ kinh (經) có
chữ (幺) yêu, là biểu thị đường
vòng, cong quanh. Còn ba chấm (小)
ở dưới chỉ cho núi cao hoặc vực sâu. Phần dưới cụm chữ bên phải hàm ý: Đường thẳng
ít mà cong thì nhiều.
Phật giảng kinh thuyết pháp, là chỉ
chúng ta cách đi trên con đường nhân sinh như thế nào, làm sao không bị va vào
núi cao, không té vào vực sâu. Chẳng nên đi đường vòng (ngoài tâm cầu pháp). Thế
nên những kinh pháp Phật giảng đều là diệu pháp cao tột, vì muốn giáo hóa người
có căn cơ bất đồng lìa khổ được vui mà lập ra.
Giống như giáo trình Tiểu học và Đại học
được biên soạn là dành cho người có trình độ bất đồng, chỉ cần phù hợp căn cơ
thì thảy đều là tuyệt hảo, hạng nhất hết.
“Quy y Tăng”, nghĩa là qui y tất cả Hiền
Thánh, là những bậc có đức hạnh siêu phàm. Cũng có thể gọi là “thượng nhân” (là
“người trên tất cả người”).
Qui y Tăng, là qui y Phúc điền Tăng
thanh tịnh, bậc không tham tài sắc danh lợi. Xin giảng rõ hơn một chút, hiện
nay đã không còn là thời Phật ngủ qua đêm dưới cây hay đi khắp nơi khất thực mỗi
ngày một bữa. Vì hồi đó Phật và đệ tử sinh sống tại Ấn Độ, trên thân trừ y bát
ra không có thứ gì, còn ngày nay tu sĩ còn có Tự viện, Am đường, chỉ cần Tăng
chúng tu hành y như Phật chỉ dạy, tất nhiên sẽ được nhân, thiên… cúng dường. Vì
“đạo cao long hổ phục, đức trọng quỷ thần khâm”.
Cho nên ngoài tứ sự cúng dường ra mà còn
tham lam hướng người chìa tay xin tiền xin vật, đều không thể xem là bậc chân
tu, càng chẳng phải là hiền thánh. Ngài Tuyên Hóa từng giảng:
Hễ tu mà còn tham tiền, thì không xứng
được bá tính và cư sĩ kêu sư phụ, càng không có tư cách xưng sư phụ, bởi vì Sư: Là hướng dẫn tri thức; Phụ: Là nuôi dưỡng con trưởng thành, mà
bậc từ phụ thì chỉ hướng dẫn con (cho ra mà không đòi nhận, chỉ khi con thành
tài rồi thì tự nhiên sẽ cung dưỡng phụ mẫu).
Ngài còn giảng: Người xuất gia khi thọ
người đảnh lễ, nếu không đắp y ( đại diện phúc điền y của Phật) thì xem như chỉ
là bá tính cạo đầu suông, không đủ tư cách nhận người đảnh lễ. Bởi vì bạn vốn
là kẻ phàm phu xuất gia tu hành, trước
khi chưa chứng quả Phật, Bồ-tát, bạn vẫn là một phàm phu, cho dù có làm Hòa thượng
trụ trì chăng nữa, thì chỉ khi thân có đắp Thượng y mới đủ tư cách nhận người đảnh
lễ, nếu không sẽ bị tăng tội tiêu phúc.
Ngài Tuyên Hóa mỗi lúc nhận đệ tử đảnh lễ,
trước tiên ngài đều đắp Thượng y vào, rồi mới cho họ lễ. Ngài nói: “Không đắp y mà nhận người đảnh lễ sẽ làm
tiêu hao phúc báo của mình (bao gồm cả việc mình tự xưng danh chức)… chẳng
hạn như danh từ Thượng nhân, Pháp sư, Đại
sư… hay Cư sĩ[1]là
do người vì cung kính mà gọi thế, chứ bản thân mình không nên tự xưng ta là Pháp sư, Cư sĩ… lúc tự giới thiệu mình,
chỉ nên xưng pháp danh là đủ.
Tóm lại, người không giữ giới Phật, cho dù có mang tướng xuất gia, cũng không phải
đệ tử Phật, đương nhiên không thể dự vào hàng ngũ Hiền Thánh.
Hiện nay, mọi người đều nói là thời kỳ mạt
pháp, tà sư thuyết pháp nhiều như cát sông Hằng, tà pháp cũng nhiều. Đúng như
trong kinh Lăng Nghiêm Phật nói: “Họ giả
mượn y phục ta, buôn bán Như Lai, tạo đủ tội khiến kẻ sơ học khó phân rõ chánh
tà, sinh hiểu biết lầm lạc...” phát sinh cảnh kẻ mê mờ truyền dạy điều hồ đồ!
Nên tương lai sư phụ vào địa ngục, trò cũng lót tót theo sau.
Người muốn tu học Phật pháp, cần phải
thâm nhập kinh tạng, xem nhiều kinh sách, để có thấy biết chân chính. Phải lấy
pháp Phật thuyết làm tiêu chuẩn, mới có thể đạt được ích lợi và không bị những
kẻ gạt lường tự xưng là “Phật sống, Bồ-tát tái lai” hay mạo danh “Hòa thượng Diệu
Pháp” để lừa bịp…
Sám
văn:
Ngày
nay Đại chúng nên biết vì sao phải qui y Tam bảo.
Vì
chư Phật, Bồ-tát, có lòng từ vô hạn tế độ thế gian, có lòng đại bi vô lượng an ủi
thế gian, thương hết thảy chúng sinh như con một.
Lòng
đại từ, đại bi ấy thường không biết mỏi mệt, hằng làm việc lành lợi ích cho tất
cả: Thề dập tắt lửa tham sân si chúng sinh, giáo hóa khiến cho tất cả đều không
được quả Vô thượng Bồ đề. Nếu chúng sinh không chứng quả Bồ đề. Thệ không thành
chánh giác, vì duyên cớ này mà đại chúng cần phải qui y.
Giải thích:
Chư Phật, Bồ-tát có lòng đại từ đại bi vô hạn, hai từ vô hạn này là chỉ thời
gian không ngừng, không kết thúc. Chữ 濟
tế trong đây hàm ý không có bất kỳ thiếu sót, khuyết lậu nào, mà rất viên mãn. Bi: hay bạt khổ. Từ: khéo ban vui cho chúng sinh. Phật thương hết thảy chúng sinh
như con, hai từ “chúng sinh” không chỉ riêng nhân loại mà chỉ chung tất cả mọi
loài, nhất định phải giúp chúng sinh dập tắt lửa tham sân si, không những khiến
chúng ta chuyển cuộc sống phiền não thành an vui, mà còn giúp chúng ta liễu
sinh thoát tử, vĩnh viễn không quay lại thọ khổ trong lục đạo tam giới nữa, vì
vậy mà chúng ta cần phát nguyện quy y chư Phật, Bồ-tát.
Phát nguyện độ chúng sinh thành tựu Phật
đạo là phi thường đáng quý. Trong kinh Hiền Ngu có câu chuyện như sau:
BẦN
NỮ NAN ĐÀ
“Thời Phật ở Xá Vệ nơi vườn Kỳ Thọ Cấp
Cô Độc, trong nước có một nữ nhân nghèo khổ cô đơn xin ăn sống qua ngày tên Nan
Đà. Cô thấy quốc vương đại thần và bao người cúng dường Phật và chúng tăng.
Trong lòng hết sức hổ thẹn buồn bã. Biết mình do đời trước tạo tội mà bị nghèo
hèn. Nay đã được gặp ruộng phước mà lại không thể cúng dường chi thì rất uổng,
thế là cô bèn đi xin, mong có được vật gì đó để cúng dường Tam bảo.
Nhưng xin cả ngày mà chỉ được một xu. Cô
liền đến tiệm mua dầu. Chủ quán hỏi:
- Một xu đâu có mua được bao nhiêu dầu,
cô dùng làm chi?
Nan Đà liền thổ lộ ước mơ được cúng dường
Tam bảo của mình, người bán dầu nghe vậy cảm thông, liền bán cho cô nhiều gấp
đôi. Nan Đà vui lắm, cô chế ra một cây đèn dầu nhỏ đem đến tịnh xá cúng Phật.
Cô đặt vào hàng đèn đầu tiên trước Phật và phát nguyện:
- Con hiện nay quá nghèo, chỉ có cây đèn
nhỏ xíu này cúng dường Phật, nguyện nhờ công đức này, khiến đời sau con đắc đại trí huệ, có thể chiếu
soi diệt trừ u ám cấu uế cho tất cả chúng sinh. Phát thệ xong, cô lễ Phật rồi
đi.
Lúc trời sáng, chỉ duy nhất ngọn đèn nhỏ
của Nan Đà còn cháy mạnh, lúc này Mục Kiền Liên là đệ tử thần thông bậc nhất của
Phật đang trực ngày hôm đó, thấy trời sáng bèn đi thu dọn đèn. Phát hiện cây
đèn tuy nhỏ mà cháy sáng dữ, tim đèn cứ như mới thắp, không có bất kỳ tổn hoại
nào, Mục Liên thầm nghĩ: “Ban ngày đâu cần để đèn cháy làm chi”…, bèn cầm lên
quạt tắt nó, nhưng quạt mấy nó cũng không tắt, nó vẫn cháy mãnh liệt…
Phật thấy vậy bèn bảo Mục Liên:
- Cây đèn này không phải hàng Thanh văn
La hán như các ông có thể làm lay động được, dù ông có dùng thần thông lấy hết
nước bốn biển hay hiện cuồng phong mà dập tắt thì cũng chẳng được, bởi vì đây là đèn của một người cúng dường đã phát
đại Bồ đề tâm sẽ quảng tế chúng sinh…
Phật nói xong thì vừa vặn lúc đó Nan Đà
đi đến bái kiến Phật. Thế Tôn bèn thọ ký cho cô:
Tương lai, vào khoảng hai A tăng kỳ trăm
kiếp, Ngươi sẽ thành Phật hiệu là Đăng Quang (đèn sáng) có đủ mười danh hiệu của
Phật.
Nan Đà được thọ ký hết sức vui mừng, cô
vội quỳ xuống xin xuất gia. Phật đồng ý độ cho cô thành Tỳ-kheo-ni”.
Mọi người xem, cây đèn nhỏ của một cô
gái nghèo cúng dường, phát tâm Bồ đề nguyện cứu độ tất cả chúng sinh, khiến bậc
thần thông đệ nhất như Mục Kiền Liên không thể nào dập tắt được, đủ thấy sức mạnh
của tâm Bồ đề vi diệu không thể nghĩ lường. Vì vậy nếu không phát Bồ đề tâm ắt
chẳng thể thành Phật, chúng ta tu hành nhất định phải phát Bồ đề tâm, mà phát Bồ
đề tâm đầu tiên chính là: Phải qui y Tam bảo.
Sám
văn:
Chư
Phật thương xót chúng sinh vượt xa cha mẹ. Cha mẹ thương con chỉ một đời, còn
lòng Phật thương chúng sinh là vô tận. Cha mẹ thấy con vong ân bội nghĩa thì
sinh giận hờn, tình thương giảm sút. Còn chư Phật, Bồ-tát thì không như vậy, thấy
chúng sinh bội nghịch lòng càng xót thương. Đến nỗi các Ngài còn vào ngục Đại Hỏa
Luân, địa ngục Vô Gián… mà thay chúng sinh chịu vô lượng khổ.
Chư
Phật, Bồ tát thương chúng sinh hơn cha mẹ, nhưng do chúng sinh bị vô minh che lấp
trí huệ, phiền não làm mờ tâm, đối với chư Phật, Bồ-tát không biết quy hướng.
Dù gặp các Ngài thuyết pháp giáo hóa, không những họ chẳng tin mà còn buông lời
phỉ báng, nói năng thô lỗ, chừa từng có chút lòng nhớ ân chư Phật. Do bởi không
tin nên chúng sinh cứ tạo tội rồi đọa vào các đường ác: Địa ngục, ngạ quỷ, súc
sinh; chịu vô lượng khổ. Khi tội hết được ra, tạm sinh làm người, thì tai mắt
không đủ, thân thể xấu xa, không biết tu thiền định và ngu si vô trí. Chúng
sinh có những quả báo làm chướng ngại như vậy là do không có lòng tin.
Giải thích:
Do không tin chánh pháp, tất nhiên sẽ chẳng
thèm tu, tương lai ắt mãi luân hồi nơi cõi ác, lăn lộn trong tam đồ[2].
Thọ tội xong thì sinh vào nhân gian, lại bị mang thân tàn tật, xấu xí, mắt tai
mũi lưỡi thân ý không được vẹn toàn hoặc bị chướng ngại. Đây là tự làm tự chịu,
vì không có định lực trí huệ, do chẳng tin Phật pháp mà tạo thành. Những người
này rất đáng thương.
Chư Phật, Bồ-tát đều có nguyện lực thay
chúng sinh thọ khổ. Trong kinh Bát Đại Nhân Giác, điều thứ tám của Bồ tát là:
“Sinh
tử mênh mông, khổ hải vô lượng, phát tâm phổ độ tất cả, nguyện thay chúng sinh
thọ vô lượng khổ, khiến chư chúng sinh an lạc”.
Chúng ta thường nghe chư cao tăng đại đức
phát nguyện:
“Nguyện
bệnh khổ chúng sinh trong thiên hạ mình tôi chịu thay, nguyện phúc báu hiện đời
xin thí hết cho chúng sinh trong thiên hạ…”
Như Hòa thượng Hư Vân, Quảng Khâm, Tuyên
Hóa, v.v… đều là từng phát tâm thay chúng sinh chịu khổ mà thị hiện thân bệnh để
gánh bớt nghiệp thay chúng sinh, giảm nhẹ thống khổ cho họ.
Hòa thượng Hư Vân, lúc tuổi cao còn bị
ngược đãi, bị đánh đến ngất đi, cũng là thay chúng sinh tiêu nghiệp. Nếu không
có bậc thánh nhân như ngài thay chúng sinh gánh bớt nghiệp khổ, thì lúc đó bá
tính bị thảm nạn còn trầm trọng hơn.
Thay chúng sinh gánh nghiệp, giống như
“Kinh Địa Tạng” từng mô tả: “Nếu gặp thiện
tri thức ra sức gánh phụ, hoặc gánh vác hết dùm, là vị tri thức ấy có đại lực…”
người tu hành đức hạnh cao, chỉ cần phát nguyện chia sớt nghiệp tội giúp
chúng sinh, thì khổ đó sẽ gánh ngay trên thân mình. Giống như người dốc toàn lực
chăm sóc bệnh nhân, thì thân cũng bị mệt nhọc ảnh hưởng lây vậy.
Tình huống các hành giả khi gánh nghiệp
phụ cho người khác thường bị sinh bệnh hoặc thọ khổ rất thường xảy ra.
Chỉ người nghiêm trì giới luật, có đủ định
huệ mới là Thiện tri thức có đại lực. Cho nên người đại tu hành mà bị bệnh nặng,
cũng có thể do “đại nguyện tạo thành”, chuyện này trong sử Phật giáo ghi rất
nhiều. Nhưng liệu có được mấy người tin và hiểu?
Có người chẳng những không tin, lại còn
phỉ báng:
- Thấy chưa? Tại Sư X tu hành không tốt
nên mới bị bệnh nặng vậy đó!
Và họ thốt lên lời gièm chê chỉ trích đủ
hết…
Đây là lời của người cống cao ngã mạn. Bọn
họ nào biết: “Phỉ báng bậc đại Thiện là tạo tội địa ngục, là đang bị vô minh
che huệ, tự cắt đứt đường tu của mình”.
Giải thích đến đây tôi bỗng nhớ tới chuyện
Phật phái ngài Văn Thù đi thăm bệnh Cư sĩ Duy Ma Cật. Đoạn văn đối thoại rất
hay:
Ngài
Văn Thù hỏi:
-
Nay bệnh của cư sĩ dễ chịu không? Điều trị có bớt mà chẳng thêm không? Thế Tôn
gởi lời vô lượng ân cần để hỏi thăm cư sĩ. Bệnh do đâu mà khởi? Đã bao lâu rồi?
Làm sao mới khỏi được?
Cư
Sĩ Duy Ma Cật đáp:
-
Từ Si có Ái thì bệnh Ngã sanh. Vì tất cả chúng sanh bệnh nên tôi bệnh, nếu tất
cả chúng sanh chẳng bệnh thì tôi khỏi bệnh. Tại sao? Bồ Tát vì độ chúng sanh
nên vào sanh tử, có sanh tử thì có bệnh. Nếu chúng sanh được lìa bệnh thì Bồ
Tát chẳng còn bệnh. Ví như trưởng giả chỉ có một đứa con, con bệnh thì cha mẹ
cũng bệnh, nếu con lành bệnh thì cha mẹ cũng lành. Bồ Tát cũng như thế, đối với
chúng sanh thương mến như con ruột, nếu chúng sanh bệnh thì Bồ Tát bệnh, chúng
sanh lành bệnh thì Bồ Tát cũng lành. Còn nói về bệnh này do đâu mà khởi, bệnh của
Bồ Tát do Đại Bi khởi.
Cư sĩ Duy Ma Cật đã giảng giải rõ như thế,
chúng ta tuyệt không nên vừa nghe Hòa thượng X hay Cư sĩ Y… bị bệnh, thì liền
khởi tâm khinh dễ miệt thị: “Tại họ không tu hành!”.
Đây có thể là nghiệp tiền sinh hoặc do họ
phát nguyện thay chúng sinh gánh bệnh. Những người đối với chư đại đức cao tăng
bị bệnh mà sinh nghi, thốt lời hủy báng, thì nên mau mau sám hối. Như lỡ buông
lời phỉ báng qua sách hoặc băng đĩa, thì phải lập tức đính chính sám hối sửa
sai ngay, mới có thể làm tiêu tan ảnh hưởng chẳng lành, bằng không sẽ đọa A tỳ
địa ngục.
Sám
văn:
Ngày
nay đại chúng đã biết tội nghi nặng hơn các tội, khiến người tu hành lâu mà vẫn
không được thấy Phật.
Từ
nay trở đi, cho đến ngày thành Phật, nguyện khởi lòng tin kiên cố, không thối
chuyển.
Khi
xả thân nầy dù sinh vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, hay những nơi có đủ khổ
não khó kham, chúng con xin thề: Không vì khổ ấy mà mất lòng tin hôm nay.
Nguyện
Chư Phật, Bồ-tát, đồng gia tâm cứu hộ, khiến đệ tử… tín tâm kiên cố, chúng ma,
ngoại đạo cũng không thể phá hoại. Xin chí tâm, tha thiết, đầu thành đảnh lễ…
Giải thích:
Do đối với lời Phật dạy không tin, nên
nhiều người cả đời chẳng được nghe Phật pháp. Tin là mẹ của đạo, là cội nguồn công đức giúp trưởng dưỡng tất cả thiện
pháp. Cho nên nói: “Bất tín là thiệt thòi nhất”.
Hôm nay đại chúng dự hội lễ bái, đồng
nghe sám văn phát lộ tội, sinh lòng hổ thẹn, nhất định đã biết lỗi thì phải sửa,
phải tu dũng mãnh tinh tấn, dùng tâm bi thống vạn phần, chí thành đảnh lễ cầu
chư Phật, Bồ-tát gia trì tiêu tan nghiệp tội. Khi tội tiêu thì nhất định không
tạo thêm nữa. Được thanh tịnh rồi, từ này về sau, phải nghiên cứu kinh tạng để
hiểu sâu mà như pháp tu hành, tuyệt chẳng nên hoài nghi, thối tâm, mới có thể
nhập vào của chánh tín Phật giáo. Nếu không làm vậy, thì trên đường tu sẽ gặp
chướng ngại trùng trùng. Giả như sinh ra vẫn không thể thoát sinh tử, thì bất kể
tương lai sinh vào cõi nào, mang thân gì, chúng ta cũng chẳng mất lòng tin hôm
nay. Ngưỡng nguyện chư Phật, Bồ-tát từ bi gia hộ.
Sám
văn:
Cõi
trời, cõi người đều huyễn, mong manh, biến hóa vô cùng. Do chúng sinh chìm đắm
mãi trong vòng sinh tử, trôi lăn hoài trong biển ái khổ đau. Thấy chúng sinh
đau khổ như vậy, Phật rất thương xót.
Giải thích:
Kinh Bi Hoa dạy: “Nguyện lực chư Phật, Bồ-tát
mỗi mỗi không đồng nhau, Phật Thích Ca Mâu Ni thị hiện tướng đoản thọ, vì
thương chúng sinh trôi nổi đắm chìm trường kỳ trong biển khổ, nên dùng thân phú
quý, đoạn dục khử ái, tìm phương giải thoát sinh tử, thị hiện cho chúng ta thấy
cảnh sáu năm khổ hạnh nơi núi tuyết, ngoài tâm cầu pháp không thể thành, cuối
cùng buông hết tất cả vọng tưởng, ngồi dưới cội Bồ đề giác ngộ thành Phật”.
Điều này khai thị cho chúng ta: Tất cả chúng sinh đều có Phật tính, chỉ cần
buông bỏ vọng tưởng phân biệt chấp trước đối với ngũ ấm, đều có thể thành Phật.
Phật Thích Ca Mâu Ni 49 năm bôn ba gian
khổ, không ngại nhọc nhằn, giảng kinh thuyết pháp, giáo hóa điều phục những
chúng sinh cang cường như chúng ta, những gì cần giảng đã giảng xong, chúng
sinh cần độ đã độ hết, thì thị hiện nhập Niết bàn! Nếu Ngài còn trụ lâu ở đời,
đệ tử Ngài sẽ ỷ lại mà chẳng thèm tinh tấn, giống như cha giàu sang còn sống ở
đời, thì con cái hay có tâm ỷ y, không chịu tự lập gánh vác gia nghiệp.
Thực ra Phật chưa từng rời bỏ chúng ta.
Đúng như “Kinh Địa Tạng” từng giải thích: Đến nay Phật Thích Ca vẫn dùng trăm
ngàn vạn ức hóa thân, tại vô lượng thế giới giáo hóa cứu độ chúng sinh, hoặc hiện
thân nam, nữ, thiên long, quỷ thần, thậm chí còn hiện làm núi, rừng, sông,
ngòi, ao, hồ, giếng, suối… để làm lợi ích cho tất cả. Nhưng hạng chúng sinh như
ta bị vô minh che lấp trí huệ, giống như con kiến bò trên đất không nhìn được
bao la. Chư Phật, Bồ-tát xưa nay chưa từng bỏ đi hay lìa xa chúng ta, thậm chí
còn ở lẫn lộn ngay trong đám chúng ta, có nhiều Đại đức đều là Bồ-tát, La hán
tái lai!
Giống như các ngài: Ma Đằng Trúc Pháp
Lan, Tổ sư Đạt Ma, Hòa thượng Hư Vân, Đại sư Hoằng Nhất, Đại sư Ấn Quang v.v…
thậm chí cả trong đám bá tính, những vị vì nước vì dân hy sinh quên mình, tất cả
ngôn hạnh đều nhắm vào làm lợi ích cho người, có thể nói đều là hóa thân chư Phật,
Bồ-tát. Vì vậy, chúng ta nhất định phải có lòng tin kiên cố, phải lấy giới làm
thầy, tu cho đến chứng Bồ đề.
Sám
văn:
Chư
Phật, Bồ-tát chưa bao giờ không lưu tâm hoằng hóa, tế độ, làm lợi ích cho chúng
sinh. Kinh Tam muội dạy: “Tâm chư Phật là tâm đại bi; chỗ tâm của Phật chiếu đến
là nơi chúng sinh thọ khổ”.
Phật
thấy chúng sinh chịu khổ thì đau như tên bắn vào tim, tâm thương xót không yên,
nên muốn diệt khổ ngay cho chúng sinh được an vui.
Chư
Phật hóa độ chúng sinh luôn bình đẳng, Đức Thích Ca ai cũng ca ngợi Ngài là Đấng
dũng mãnh, khéo nhẫn chịu khổ để độ chúng sinh, cho nên phải biết từ ân của Bổn
sư rất sâu nặng. Ngài hay ở nơi chúng sinh khổ đau thuyết pháp, làm lợi ích cho
tất cả.
Giải thích:
Người nghiệp chướng sâu nặng như chúng
ta mãi đến nay vẫn chìm trong biển khổ chưa thoát ra, thảy đềudo nghiệp lực chướng
ngăn… Do tâm ích kỷ tự lợi không có chút từ bi, nên chẳng nghe được một câu từ
kim khẩu Phật thuyết, còn nói chi đến chuyện được chứng kiến cảnh Thế Tôn thị
hiện nhập Niết bàn chói lọi dưới cội Sa la? Mãi đến hôm nay ta mới kết được Phật
duyên hội tụ lễ sám, sinh tâm bi luyến Như Lai, đây thực khiến chúng ta hổ thẹn
đau lòng, ảo não không thôi, xin chí thành đảnh lễ…
Sám
văn:
Nguyện
vì quốc vương chủ nước, nhân dân, phụ mẫu, sư trưởng, tín thí đàn việt, thiện
ác tri thức, chư thiên, chư tiên thông minh chánh trực, thiên địa hư không, hộ
thế tứ vương, chủ thiện phạt ác, thủ hộ trì Chú, ngũ phương Long vương, Long Thần
Bát Bộ… mà đảnh lễ Tam bảo.
Giải thích:
Tín
thí:
Người dùng tài vật cúng dường có lòng tin đối với Phật pháp. Đàn việt: Thí chủ.
Long
Thiên Bát Bộ: Tức Thiên Long Bát Bộ (gồm có 8 loại):
1. Chư thiên Phạm thiên Đế thích, 2. Rồng, 3. Dạ xoa, 4. Càn thát bà (nhạc thần),
5. A-tu-la: Thuộc loài quỷ thần (gần như trời mà không phải trời, vì không có đức
độ lại ưa tranh đấu), 6. Ca lâu la (là Kim Xí Điểu tức chim đại bàng cánh
vàng), 7. Khẩn na la (cũng gọi là phi nhân, trên đầu có sừng, là thần âm nhạc
múa hát của Đế Thích), 8. Ma hầu la già: Tức thần đại mãng xà.
Tám bộ này thường ủng hộ Phật pháp, mắt
người thường không nhìn thấy họ. Dù không thể thấy, nhưng họ thực sự có tồn tại.
Xin
thay hết thảy chúng sinh chí thành đảnh lễ qui y mười phương chư Phật, tôn
Pháp, Hiền Thánh Tăng…
Chư
Phật là bậc đại thánh, thấu rõ hết thảy
pháp, là Đạo sư của Trời người, nên con nguyện qui y.
Tôn
pháp tánh thường trú, tâm địa hằng thanh tịnh, hay trừ bệnh thân tâm, nên con
nguyện qui y.
Đại
địa chư Bồ-tát, Vô trước tứ Sa môn hay cứu hết thảy khổ, nên con nguyện qui y.
Sa môn: Gọi chung người xuất gia.
Tứ Sa môn: Gồm có bốn loại Sa môn:
1. Thắng đạo Sa môn: Chỉ người nghiêm
trì giới luật, khéo diệt phiền não.
2. Thị đạo Sa môn: Là người có thể tuyên
giảng chính pháp, khiến chúng sinh vào đạo.
3. Mệnh đạo Sa môn: Khéo điều phục phiền
não, siêng tu thiện pháp, trí huệ tăng trưởng.
4. Ô đạo Sa môn: Chỉ người xuất gia phạm
giới sát, đạo, dâm, vọng… nhưng lại thọ người cúng dường.
Bốn hạng Sa môn này đều phát huy tác dụng
giáo hóa tha nhân (Ô đạo Sa môn khiến người nhìn ra những tệ lậu mà không làm
giống như họ).
Sám
văn:
Chúng
con tên… ngày nay xin thay các chúng sinh mà qui y Tam bảo. Nguyện nhờ công đức
này khiến các chúng sinh đều được mãn nguyện.
Nguyện
các chúng sinh ở trong loài trời hay tiên… hết nghiệp hữu lậu[3],
ở trong loài A tu la xả bỏ tánh kiêu mạn, ở trong loài người thì không còn khổ
đau. Nếu ở trong địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh thì được tức khắc thoát ly.
Lại
nữa, nguyện hôm nay những ai được nghe và không nghe danh Tam bảo đều nhờ thần
lực của Phật mà được giải thoát, hoàn toàn thành tựu Vô thượng Bồ đề.
Giải thích:
Đoạn văn trên cầu Phật lực gia trì tất cả
chúng sinh trong lục đạo, nhờ quy y Tam bảo mà lìa khổ được vui, chứng đắc trí
huệ sớm thành Phật.
Công đức quy y Tam bảo không thể nghĩ lường,
trong “Chúng Kinh Tạp Thí Dụ” có kể một câu chuyện nhờ quy y Tam bảo mà chuyển
đổi số mệnh như sau:
“Có một vị trời hưởng phúc trời đã hết,
sẽ phải đầu thai xuống nhân gian làm con của một ả heo nái ghẻ chốc nơi một nhà
nghèo nọ. Nhờ các thiên nhân bạn nhắc nhở nên ông vội quy y Tam bảo, nhờ vậy mà
kịp thời sinh vào một gia đình trưởng giả phú quý, thông minh trí huệ, sinh ra
rồi mà miệng vẫn còn niệm: Xin quy y Phật, Pháp, Tăng… và ngay từ thuở bé thơ
đã được gặp Phật, nghe Pháp chứng Vô sinh pháp nhẫn.
Nghe xong câu chuyện thực này, người đã
quy y Tam bảo cần kiên định niềm tin đối với Tam bảo, và người chưa quy y lại
còn do dự hay sao? Là đệ tử Tam bảo, khi gặp những chúng sinh chưa học Phật,
bao gồm súc sinh, quỷ thần v.v… ta cũng có thể truyền Tam quy cho họ, đây gọi
là giúp chúng cùng Tam bảo kết duyên, trồng thiện nhân giải thoát tương lai.
Ắt sẽ có người hỏi: Thay chúng sinh quy
y sám hối, tạo công đức có hiệu quả chăng?
- Có! Trong “Kinh Địa Tạng” nói: - Như có người nam cùng người nữ nào lúc
sanh tiền không tu tạo phước lành mà lại gây lấy những tội ác, sau khi người mạng
chung, hàng thân quyến kẻ lớn người nhỏ vì người chết mà tu tạo phước lợi làm tất
cả việc về Thánh đạo, thời trong bảy phần công đức người chết nhờ đặng một phần,
còn sáu phần công đức thuộc về người thân quyến hiện lo tu tạo đó.
Cho nên, vì quyến thuộc hiện tại hoặc
quá khứ tu phúc, sám hối, lý này cũng giống vậy. Đại sư Ấn Quang tại pháp hội
“Hội Quốc Tiêu Tai” nơi Thượng Hải từng kể một câu chuyện:
“Mẹ cư sĩ Hoàng Hàm ở Thượng Hải, không
thể ăn chay, hơn nữa bà không tin ăn chay là cần thiết cho việc tu học theo Phật.
Hoàng Hàm bèn thỉnh giáo ngài Ấn Quang và được dạy: Hằng ngày nên ở trước Phật,
sớm tối sám hối nghiệp chướng thay cho mẹ. Do mẫu tử tình thâm, nhờ mối tương
quan thiêng liêng cộng thêm lòng chí thành sẽ chiêu được cảm ứng…
Hoàng Hàm vâng lời làm theo. Hơn một
tháng, mẹ ông phát tâm ăn chay trường, năm đó bà 81 tuổi, mỗi ngày bà siêng
năng niệm Phật hai mươi ngàn câu, đến 93 tuổi thì qua đời”.
Mẫu thân Hoàng Hàm vốn là một người
ngoan cố, trước đây bà thà ăn cơm trắng chứ nhất quyết không dùng chay, sau khi
được con tụng kinh sám hối thay cho rồi thì bà bỗng thay đổi, tự phát tâm ăn
chay. Lời thuật của Đại sư Ấn Quang dạy rất đáng để chúng ta noi theo.
QUYỂN
2 – DỨT NGHI
Qui y Tam bảo rồi, trên đường tu hành, cần
đoạn trừ nghi hoặc (là một trong các phiền não: Tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến)
trong tâm, chỉ những người chứng quả dự lưu Tiểu thừa (Bồ-tát sơ địa trở lên, mới
có thể triệt để đoạn nghi). Nghi sẽ khiến chúng ta vô phương phát sinh thiện
pháp, trong “Duy Thức Luận” nói: Nghi là sao? Là đối với chân lý hay do dự nghi
ngờ gây chướng ngại nghiệp thiện, khiến các điều lành chẳng thể phát sinh.
Sám
văn:
Do
chúng sinh, hạnh nghiệp bất đồng nên quả báo trổ không giống nhau. Do nghiệp
thiện ác hỗn tạp, nên quả báo có sai khác muôn vàn. Do không rõ điều này nên mới
loạn khởi nghi ngờ.
Giải thích:
Có nhân ắt có quả, có cảm có ứng. Do
chúng ta chẳng hiểu Phật pháp nên hành vi nghiệp tạo luôn chẳng thanh khiết, vì
thiện ác lẫn lộn cho nên quả báo có nặng nhẹ. Giống như làm ruộng mà bạn gieo đủ
thứ hạt giống lẫn cỏ tạp, thì tương lai sẽ thu hoạch lộn xộn.
Có một cư sĩ nọ, quy y Tam bảo đã lâu rồi
nhưng vẫn còn ăn tam tịnh nhục, chẳng biết ngày xưa Phật cho ăn tam tịnh nhục
là phương tiện tạm hóa độ những người chưa kịp thích ứng để có thể bỏ thịt
ngay, song đây không phải là pháp cứu cánh.
Nếu cư sĩ này đột nhiên sinh bệnh, hoặc
xảy ra nhiều điều nghịch ý bất lợi thì đối với Phật giáo sẽ sinh nghi, hoàn
toàn chẳng biết là: Do ông chưa dứt tuyệt đồ mặn ăn chay trường nên bị quả như
thế.
Còn có cư sĩ nọ, trong nhà đột nhiên bị
cướp, bị mất những vậy quý, tâm cũng sẽ sinh nghi. Ông không hề biết là: Do bởi
quá khứ ông tham chiếm đồ của quốc gia hoặc lấy của người làm của mình. Những
ai tuy đã quy y Tam bảo, nhưng tâm tham chưa đoạn, tất nhiên sẽ có tổn thất cực
lớn đang chờ họ ở tương lai. Vì mùa xuân gieo một hạt, mùa thu gặt vạn hạt, chiếu
theo nguyên tắc: “Trồng một sẽ thu được vạn”, thì việc gieo ác cũng đồng như vậy.
Xin ví dụ: Nếu bạn làm cho nhà nước, khi
cần đi nhà xí bạn tiện tay vơ lấy mấy tờ giấy in trắng sạch trong văn phòng đem
làm giấy vệ sinh. Do đây là vật bạn không có quyền lạm dụng, nhưng bạn lại tự
tiện lấy xài, tiêu hoang làm lãng phí của công, đương nhiên cách hành xử này sẽ bị xếp vào lỗi trộm! Nếu bạn thường
làm như vậy, ắt phải chiêu lấy ác báo là: Sẽ có một ngày bạn bị mất trộm như: mất
xe đạp, xe máy, hoặc những đồ quý khác! Nhân tuy nhỏ song quả hại rất lớn!
Đến khi đó thì bạn lại trách Phật pháp
không bảo vệ bạn ư? Phải biết rõ là nhất cử nhất động của bạn, mỗi một niệm khởi
thiện ác… chư Phật, Bồ-tát đều biết hết, thấy hết!
Còn nữa, có người mặc dù không ra tay
sát sinh, giết vật. Nhưng ở ngay nơi nhà bếp nhà mình họ vẫn đích thân lột da xẻ
thịt, chặt đầu vật… để chưng, quay, nướng, rán… vậy thì trong tương lai sẽ có
lúc họ gặp các tai họa đột ngột như: Gãy chân, tét xương… hay nội tạng đau phải
đi phẫu thuật. Không chỉ tốn tiền thuốc thôi đâu, họ còn phải dâng phong bì,
năn nỉ các bác sĩ, hộ lý nơi bệnh viện nhận giùm và chiếu cố giúp cho, lại còn
phải van xin bác sĩ: “Làm ơn cầm dao mổ xẻ mình giùm”. Đây không phải là Phật
không chúc phúc, mà do bạn tự làm tự chịu.
Phật giáo dạy người tự đoạn ác tu thiện
để chính họ lìa khổ được vui, chứ chẳng hề làm ô dù che chở cho người tạo ác.
Phàm những ai đã quy y Phật giáo, tất phải lấy
giới làm thầy, nếu như ngôn hạnh trái ngược, thiện ác hỗn tạp, lập tức ác
báo ắt sẽ đeo theo. Lúc ác báo ập đến, họ chẳng biết tỉnh ngộ sám hối, lại còn
trách Phật không gia hộ. Lẽ nào như thế?
NHÀ
HÀNG HẢI SẢN
Nơi thành phố X có một nhà hàng hải sản
vừa mới khai trương, rất bề thế, quy mô. Ngay cổng chủ tiệm còn cho dựng đại
tôn tượng Quan Thế Âm Bồ tát, ngày ngày thắp hương nghi ngút… Tuy thờ phụng vậy,
nhưng trong nhà hàng ngày nào cũng giết vô số hải sản tươi sống, thôi thì đủ kiểu:
Chưng, nấu, quay, rán… thậm chí còn làm thịt cả những loài to lớn như: Xuyên
sơn giáp, cá sấu, đà điểu v.v…
Ngay lúc quán này khai trương, tôi đã có
linh cảm, nhìn ra và dự đoán được: Thọ mạng của quán này không dài!
Quả đúng vậy! Chẳng bao lâu, thằng con
chủ quán theo một băng nhóm đánh lộn… làm công tử con của một nhà quyền quý bị
thương phải nhập viện và biến thành người thực vật. Do công tử nằm nơi phòng
cao cấp nên lợi nhuận chủ quán thu được hàng ngày, không đủ để nộp phí chữa chạy
cho nạn nhân. Sau đó ông đành phải bỏ trốn, đến nay thì nhà hàng đã bị xiết trừ
nợ và đổi thành môn đình.
Tuy là ông có thắp hương thờ cúng Phật
nhưng lại chẳng minh lý (mà thờ Phật như thế là mê tín!) vì bản thân chẳng chịu
nghiêm trì giới luật, nên mới chiêu lấy quả báo hiện tiền.
Lại có người sát sinh ăn thịt nhiều năm,
đến nay thấy thân thể mình vẫn không bị chướng ngại gì chẳng hề biết đó là do đời
quá khứ họ từng tạo nhiều phúc lớn, nên tạm thời ác báo chưa trổ, có thể ngày
mai khi họ tiếp tục ăn thịt một chúng sinh nào khác, thì ác báo sẽ ập tới… Chẳng
phải chúng ta thường chứng kiến cảnh: Có người bất ngờ bị tử vong hoặc biến
thành tàn tật hay sao?
Sám
văn:
Nếu
hỏi vì sao những người tinh tấn tu hành, giữ giới trong sạch, đáng lẽ được thọ,
nhưng lại đoản mệnh? Còn có người hàng thịt (đồ tể), đáng lẽ chết sớm, sao lại
sống lâu? Kẻ thanh liêm đúng ra được giàu sang, nhưng sao lại nghèo thiếu? Còn
phường tham lam trộm cướp, đáng lẽ phải nghèo khổ, nhưng lại giàu có phong lưu?
Những
thắc mắc này, ai mà không nghĩ đến. Do không rõ những nghiệp nhân ẩn khuất gieo
trồng, làm ra từ bao kiếp trước…
Giải thích:
Có người còn nói: “Người tốt chẳng thọ,
kẻ xấu sống ngàn năm”, lập luận này có đúng chăng? Đương nhiên là không!
Giáo lý Phật thuyết: “Cho dù trải qua
trăm ngàn kiếp, nghiệp tạo vẫn không mất”…
Như đã giải thích, nếu chúng ta gieo
trong ruộng toàn hạt xấu giống tạp, thì mỗi loại sẽ phát triển khác nhau, thời
gian khai hoa kết quả cũng không đồng. Thêm phần khác địa điểm, phong thổ, việc
chăm sóc cũng khác, nên lúc khai hoa kết quả phải có sai biệt. Việc gieo nhân tạo
nghiệp cũng giống vậy.
Hằng ngày chúng ta tạo bao nhiêu nghiệp
thiện ác, nếu tính trọn cả đời, ta cũng vô phương tính ra. Huống nữa là tính từ
vô thỉ kiếp đến giờ? Vả lại có nghiệp trả báo trước, có nghiệp trả sau (tùy luật
nhân quả quyết định chứ không do chúng ta quyết). Chư Phật, Bồ-tát mặc dù có đại
trí huệ thần thông, thấy biết hết nghiệp thiện ác của chúng ta làm, nhưng không
thể khiến thiện nghiệp chúng ta tăng, hay ác nghiệp giảm đi một chút. Các Ngài
chỉ có thể ngay lúc chúng ta phát nguyện dứt ác hành thiện, chịu sám hối, hồi
tâm quay đầu… mà đến hỗ trợ, giúp chúng ta.
Nghĩa là các Ngài dùng phúc báu, trí huệ
vạn đức trang nghiêm đầy đủ của mình mà gia trì: Khiến chúng ta khi thọ ác báo,
thì hậu báo chuyển thành tiền báo, trọng báo đổi thành khinh báo.
Phật còn bảo chúng ta: Dù tội nghiệp lớn,
chỉ cần thật lòng sám hối sửa đổi, thệ đoạn ác tu thiện thì có thể tiêu trừ dần.
“Họa phúc không cửa, do người tự chiêu”.
Họa phúc xảy ra là do làm ác làm thiện
mà có. Quả báo sớm muộn gì cũng sẽ tới. Nên nhớ kỹ: Chỉ cần lúc nào ta cũng
luôn đoạn ác tu thiện thì hậu phúc sẽ đến.
Sám
văn:
Kinh
Bát Nhã dạy rằng: “Nếu ai đọc tụng kinh này, mà bị kẻ khác khinh chê, là do người
ấy đời trước có tội nặng, đáng đọa vào đường ác. Ngày nay nhờ bị người khinh
chê nên tội đời trước được tiêu diệt”.
Giải thích:
Trong “Kinh Kim Cang” cũng dạy: nếu người
trì giới tu hành, hằng đoạn ác tu thiện mà bị người chung quanh coi khinh, ấy
là do người này nếu đời nay không thân cận
Phật pháp, chẳng tin Phật, thì do nghiệp cực xấu của đời trước, sau khi chết đi
sẽ bị đọa ác đạo. Nhờ họ gặp Phật pháp, biết tu hành, nghiêm trì giới luật,
cho nên nghiệp đáng phải đọa ác đạo nay nhờ bị người khinh khi, nhục mạ, phỉ
báng… mà được tiêu trừ. Vì vậy những người mắng họ, khinh họ là đang giúp họ
tiêu nghiệp”.
Nếu hiểu rõ đạo lý “thay vì trả nghiệp nặng
thì nhờ tu mà chuyển thành trả nhẹ”, thì bạn phải cảm tạ Phật và tri ân những
người đang nhục mạ khinh khi kia mới đúng.
NGƯỜI
MẸ MÊ MUỘI
Có một nữ sĩ ở Đài Loan, thời trẻ tại
quê nhà bà từng hạ sinh một bé gái. Bởi vì năm đó là năm dê, bà cho rằng sinh
gái là không cát tường, nên đã nhấn con gái vào thùng nước dìm cho chết. Kể từ
đó, toàn thân bà đau đớn không ngừng. Sau này trong pháp hội nơi xứ nọ, bà bị
Chu cư sĩ ngồi cạnh tôi, nói một câu vạch trần ra hết chuyện này. Lập tức người
mẹ từng giết con tàn nhẫn kia bị hàng trăm người tại hiện trường xúm nhau trách
mắng.
Nửa tiếng sau, đột nhiên căn bệnh đau đớn
của bà tiêu hết. Bà vô cùng cảm tạ Chu cư sĩ.
Chu cư sĩ bảo bà:
- Bà phải cảm tạ những người vừa chửi mắng
bà, chính họ đang giúp bà tiêu nghiệp đó.
Do vậy chúng ta đối với người chửi mắng
mình không nên sinh tâm sân hận, mà phải dùng tâm thức tỉnh cảm tạ tri ân mới
đúng. Vì có thể chính nhờ người mắng ta (ngay mặt) hoặc thóa mạ (sau lưng), mà
các bệnh khổ của ta mới mau tiêu trừ.
Còn có nhiều người, trước khi tin Phật
thì không bị gì, nhưng sau khi thờ Phật trì giới tụng kinh rồi, lại phát bệnh nặng.
Đây chính là: “Hậu báo chuyển thành tiền báo” nghĩa là báo ứng đời sau được trổ
sớm ngay trong đời này và “Trọng báo đang chuyển thành khinh báo” chính nhờ họ
lễ Phật, niệm Phật mà được tiêu nghiệp.
Nếu như vì phát bệnh mà khởi niệm không
tin Phật, thì giống như đã vào núi báu mà không thấy trân bảo, lại quay về tay
không, thực rất đáng tiếc vậy!
Sám
văn:
Bởi
chúng sinh không tin lời Phật dạy, mới khởi tâm nghi. Do bị vô minh che mờ, vọng
khởi điên đảo, không tin ở trong ba cõi là khổ, ra khỏi ba cõi là vui. Những
người say đắm thế gian ai cũng nói đời là vui.
Nhưng
nếu đời thật vui, vì sao lại có khổ? Chẳng hạn như ăn uống quá độ thì sinh bệnh.
Còn về y phục: Lạnh mà gặp áo mỏng, trong lòng khổ sở. Nóng gặp áo dày, phiền
càng nhiều. Nếu y phục là vui, cớ sao lại sinh khổ? Nên biết ẩm thực, y phục,
thực sự không vui.
Giải thích:
Chúng sinh sở dĩ không tin Phật pháp,
sinh nhiều nghi ngờ, toàn là do gốc phiền não vô minh, thấy biết vọng khởi điên
đảo, nên mới cho khổ là vui. Không hề biết vui này chỉ là tạm, là vui trong chớp
mắt thôi. Và loại vui này, hễ có thân thì có khổ. Giống như kẻ nhậu nhẹt nhiều,
cảm thấy sướng vui, nào biết gan đã bị tẩm rượu, lâu dần sẽ mắc bện xơ gan
phình trướng. Còn người hút thuốc nhả khói thấy đầu óc lâng lâng sảng khoái cho
là như thần tiên, nhưng lâu dần phổi bệnh nặng. Người ưa ăn thịt chúng sinh,
đem thi thể chúng sinh bị giết tẩm ướp gia vị cho át mùi xú uế, chế thành mỹ vị
để tự lừa mình, đó thực là ngu si đáng thương, càng chẳng biết trong chữ 肉 nhục (thịt) là hình ảnh tượng trưng cảnh người nuốt
người, bạn xem chữ 肉
nhục có hình miệng người há ra nuốt người vào trong. Chữ Hán (bản gốc) này là
do đại Bồ-tát đến nhân gian tạo thành, nhằm khai mở điểm hóa tâm vô minh của
chúng sinh. Nhưng chúng ta không có chút tỉnh ngộ, cứ cho giả là thật, lấy khổ
làm vui. Còn nói chi đến những người mê sắc dục, cho đó là vui.
Họ sống buông thả thích nhiều tình lắm
ái; giữa nam nữ, hàng ngày phóng túng gần gũi bất đoạn, chẳng hề biết tinh nam
dịch nữ là tinh hoa của mỗi người. Nếu ngày ngày cứ để chúng mặc tình rò rỉ tiết
lậu, thất thoát không khống chế nổi, tức là bị bệnh rò rỉ tinh dịch.
Như vậy vẫn chưa đủ, người ta còn săn
tìm, dùng đủ loại thuốc tráng dương cường âm ép thân phải rò rỉ nhiều thêm, vì
ngày nào cũng muốn làm “tân lang tân nương”, muốn hưởng thụ nhục dục cho thật
nhiều vì nghĩ đó là khoái lạc. Họ nào biết tinh hoa chính là sinh mệnh, nếu để
rỉ ra thường xuyên sẽ khiến tinh thần mỏi mệt, sức lực cạn kiệt, chưa kể thuốc
tráng dương là chất kích thích, nếu dùng thường sẽ di hại cho tim, gan, thận… tạo
thành tai ương họa bệnh.
Hiện nay Phật giáo và khoa học đều nói
thọ mệnh con người đúng ra được sống đến 120 tuổi, nhưng vì sao chẳng thọ tới
đó nổi? Khoa học bảo là do con người ăn phải thức nhiễm độc mà thành vậy. Nhưng
Phật giáo thì nói “Đó là do sát sinh giảm thọ, dâm dục tổn thân!”. Vì mỗi ngày
khi con người ăn thịt chúng sinh, sẽ bị giảm đi một phần thọ mệnh của mình. Nếu
đích thân tự giết, đoạn mạng vật đang sống, thì mức giảm thọ lại càng nhiều. Bạn
“đoạn mệnh chúng sinh tức là đang làm ngắn lại tuổi thọ của mình” mà bạn hoàn
toàn không hay biết, thậm chí cũng không tin vào lý này!
Ngài Tuyên Hóa giảng, người sống đến 70
tuổi gọi là “tuổi cổ lai hy” xưa nay hiếm, trừ đi tuổi thơ ấu và lão niên, thì
khoảng thời gian để dùng đâu có nhiều? Bởi một nửa đã chìm trong ngủ nghỉ. Thế
nên ngoại trừ công tác, ăn, ngủ ra, bạn phải lo tranh thủ tu hành để cứu pháp
thân huệ mệnh của mình. Cần tinh tấn như cứu lửa cháy đầu, luôn cảnh giác vô
thường ập đến.
Bạn cho rằng con cái đầy nhà là vui ư?
Nhất là vào thời “chữ hiếu bị thiếu” như hiện nay, hãy kiểm xem: Ta thấy có bao
người con thực sự hiếu thuận? Đã chứng kiến qua bao cảnh người già được hạnh
phúc sướng vui?
Trái lại, ta nghe kể rất nhiều về chuyện
cha mẹ bị nghịch tử ngược đãi, thậm chí chúng còn muốn giết cha mẹ. Mới đây đài
truyền hình đưa tin: Có một đôi vợ chồng già khóc ngay trại tạm giam, kể rằng:
Họ bị con cái ngược đãi, cuối cùng do hết chịu nổi nên đã làm con tử vong.
Nếu không phải con ép cha mẹ vào đường
cùng, thì sao cha mẹ lại hành động như thế? Vì sao mà đến nước này? Bởi những
nghịch tử ấy, có thể chính là trước hoặc sau khi cha mẹ kết hôn hay ngay trong
đời trước, chúng từng là những loài vật mà họ đã giết, ăn qua, hoặc là những kẻ
cừu nghịch khác quyết tìm đến đầu thai làm con để báo thù họ.
Nguyên nhân chính là “do thiện duyên hay
ác duyên, vì thiếu nợ nên bị đòi”. Ngay cả khi ta được sinh lên trời hưởng
phúc, thì khi phúc hết cũng phải sa xuống đọa vào ác đạo, thân bị giam hãm
trong tam đồ. Nếu thực sự đã minh bạch lý này rồi, bạn còn cho tam giới là vui
hay sao? Do vậy mà Phật bảo chúng ta nên: Lấy
giới làm thầy, phải nghiêm trì giới luật, mới có thể ra khỏi tam giới, lìa
khổ được vui.
CON
CHIM KHÁCH
Mùa thu năm 1996, Duyệt cư sĩ dẫn một
thiếu phụ đến nhà tôi. Thiếu phụ đi cùng mẹ chồng, tay bế một bé trai chưa tròn
một tuổi. Cô khóc lóc kể rằng khi đưa con trai đến bệnh viện khám, mới phát hiện
ra nó bị tim khiếm khuyết bẩm sinh. Cô rất khổ tâm vì không biết đào đâu ra số
tiền lớn để phẫu thuật cho con, vì giá chữa trị quá đắt đỏ.
Con gái tôi là Quả Lâm bảo họ rằng:
- Phụ thân thằng bé vào thuở 16-17 tuổi,
đã từng dùng ná bắn trúng một bên tim của con chim khách khiến nó rơi xuống chết
đi. Thằng bé này chính là con chim khách đầu thai. Hiện giờ khởi đầu chỉ là buộc
bọn họ phải tốn tiền chữa trị tim cho nó, nhưng trong tương lai e rằng họ sẽ bị
nó làm khổ dữ tợn hơn, thậm chí “cha của
nó có thể sẽ phải mất mạng về tay con mình”.
Quả Lâm bảo toàn gia họ nên ăn chay và
hãy vì con chim khách ấy tụng “Kinh Địa Tạng”. Còn nữa, cha đứa bé cần ở trước
Phật hướng con chim khách ấy sám hối, xin lỗi nhận tội, phải vì con chim khách
tụng ít nhất 108 bộ “Kinh Địa Tạng”, càng nhiều càng tốt. Như vậy chẳng những
được đối phương tha thứ, mà còn chiêu cảm được Phật lực gia trì, như vậy thì bệnh
thằng bé có thể không trị mà lành, sau này lớn lên nó sẽ thành một đứa con hiếu
thuận.
Mẹ chồng và nàng dâu sau khi quay về
nhà, liền chất vấn cha thằng bé. Quả nhiên: Hồi anh ta 17-18 tuổi đang học
trung học, nhân dịp cùng bạn bè đi dã ngoại, đã từng dùng ná của bạn bắn một
con chim khách khiến nó chết ngay. Anh còn nhớ rất rõ, viên đạn là bi của xe đạp.
Việc này khiến toàn gia phát tâm tin Phật,
từ đó họ thề dứt tuyệt đồ mặn ăn chay trường, mỗi ngày vì thằng bé quỳ tụng
“Kinh Địa Tạng”.
Một thời gian rất lâu trôi qua, họ phát
hiện hơi thở thằng bé trở nên điều hòa rất nhiều. Lúc đi bệnh viện khám, ngay cả
bác sĩ cũng kinh ngạc khôn tả khi thấy nơi chỗ tim khuyết đã mọc ra mầm thịt,
khiến trái tim nhanh chóng phục hồi thể trạng như người bình thường. Điều này
khiến mọi người kinh ngạc chấn động, tinh thần phấn chấn, càng thêm kiên định đạo
tâm. Toàn gia trở thành một gia đình Phật hóa.
Sau này thằng bé phát triển như bình thường.
Tin này đến giờ tôi biết được thì đã mười năm trôi qua, do chính miệng Duyệt cư
sĩ (người đã dẫn họ đến gặp tôi thuở xưa) đích thân mục kích và kể lại tình
hình”.
Qua đây đủ chứng minh: Chỉ có học Phật mới
giúp chuyển biến mệnh vận mình. Chỉ có sám hối mới khéo hóa giải oán hận kiếp
xưa. Nhân quả không nhất định là phải trả báo. Chỉ cần bạn chịu dứt tuyệt đồ mặn
ăn chay trường, chân thành sám hối sát nghiệp đời này và thường vì chúng sinh tụng
kinh niệm Phật, hi vọng chúng sinh đều lìa khổ được vui, thì tội nghiệp đã tạo
trong quá khứ có thể dần tiêu trừ.
Lưu ý là: Không nên vì niệm Phật hay đọc
vài bộ kinh một thời gian mà thấy không có cảm ứng chi thì vội sinh tâm nghi ngờ
đối với Phật pháp. Phải biết cầu cảm ứng là tâm ích kỷ, tâm này không thể chiêu
cảm ứng cùng Phật và chúng sinh. Chỉ có cái tâm vị tha, vì chúng sinh không vì
mình, mới là tâm đại từ bi, thì nghiệp chướng dần tiêu trừ, tự nhiên cảm ứng
tương thông, lìa khổ được vui.
Sám
văn:
Nếu
cho gia đình quyến thuộc là vui, lẽ ra phải cùng nhau vui mãi, hoan lạc ca cười
không dứt, thế sao thoắt cái đã vô thường, bị tử biệt trong nháy mắt! Vừa có đó
đã thành không, sớm còn tối mất, niềm đau sinh ly tử biệt khiến người đau xót
tâm can, khóc than vang trời đất. Ta cũng chẳng biết sinh từ đâu đến? Chết rồi
về đâu? Chỉ biết ngậm sầu chia xa, tiễn nhau đến mồ, chắp tay tạ từ, vĩnh biệt
nghìn thu, cảnh nhân gian diễn mãi như thế, khổ kia cũng vô lượng. Chúng sinh
mê, nên cứ cho đời là vui.
Giải thích:
Mọi người đều cho rằng: Cả nhà chung sống
hòa thuận là vui, chẳng hề biết lòng ái càng sâu, thống khổ càng dữ. Bởi đâu biết
lúc nào, người mà ta yêu thương nhất sẽ đột nhiên chết đi, thậm chí còn gặp cảnh
“kẻ tóc bạc khóc người tóc xanh”, cho nên tình ái trong nhân gian đều không thật,
chẳng bền, nó giống như bọt bóng ánh màu ngũ sắc, trông diễm lệ nhưng rất dễ vỡ
tan, khi ái sản sinh, hạt giống khổ cũng đồng thời gieo xuống.
Tình ái kết tinh khiến sinh ra con cái,
nhưng “có sinh thì phải có tử”, song ta chẳng biết lúc nào cái chết đến, mà “có
sinh tử thì có đủ loại khổ”. Nếu chúng ta chịu y theo Phật pháp trì giới tu
hành, thì đời này có thể liễu sinh thoát tử, tương lai hạnh phúc, vĩnh viễn lìa
khổ được vui.
Sám
văn:
Trái
lại, khi gieo nhân vui xuất thế, chúng sinh đều cho đấy là khổ. Thấy người trai
giới tương dưa, ăn mặc thanh đạm, chúng sinh đều cho đó là ép xác tự làm khổ
mình, không hiểu đây là gieo nhân giải thoát, an vui.
Hoặc
thấy người bố thí trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, kinh hành lễ bái, tu tập
chuyên cần, chúng sinh đều cho đó là khổ; không biết làm như vậy là tu xuất thế
để được an vui.
Nếu
thấy họ bị bệnh mà chết, liền khởi ý nghi, cho rằng: Tại họ bắt thân tâm làm việc
quá độ, không nghỉ, nên thành vậy.
Giải thích:
Tu pháp xuất thế là gieo nhân lìa khổ được
vui, có người lầm cho đó là khổ. Nếu thấy người trai giới tương dưa, ăn mặc
thanh đạm không ham tiền tài, không cầu hưởng lạc, thì họ cho người đó là tự
tìm khổ hành thân. Nhưng họ nào biết, đây chính là tuân theo pháp liễu sinh
thoát tử thành tựu Bồ đề của Phật dạy. Khi thấy người tu hành bị bệnh chết, họ
liền sinh tâm nghi, phỉ báng, lầm tạo nghiệp địa ngục. Đây là người mê, tự cho
mình tối thông minh, dùng tri kiến của mình làm thước đo phán đoán chuyện đúng
sai của người. Chẳng hề biết thông minh như vậy là bị thông minh hại.
Năm 2006, những thương lái vô lương tâm ở
Hà Bắc lấy thuốc (苏丹红)
“Su Đan Hồng” trộn vào thức ăn chăn nuôi vịt, khiến vịt bệnh ác tính, người xứ
đó lập tức đem vịt giết đi, lỗi không phải do những con vịt bất hạnh này, mà do
nơi người.
Còn nữa, khi thế gian phát hiện ra nhiều
ôn dịch, như bệnh SARS, cúm gia cầm, bò điên v.v… thì người ta vội đem các động
vật đó giết hết để tránh bệnh lan truyền, đây là việc “khoét thịt làm thương
tích” điển hình. Bởi những bệnh này là do nhân loại sát sinh quá mà chiêu cảm
quả báo. Nhưng người ta chẳng những không biết phản tỉnh, ngược lại còn muốn giết
thêm nhiều chúng sinh, há chẳng phải làm vậy sẽ càng chiêu thêm nhiều họa bệnh
nữa hay sao?
Về nông nghiệp, nhiều người cho rằng chỉ
có nhờ thuốc trừ sâu mới giúp giảm thiểu côn trùng phá hoại, thu hoạch tốt,
nhưng kết quả là: Tùy theo nông dược phát triển, trùng hại mỗi năm càng tăng
nghiêm trọng. Trùng ăn nông sản nhà nào thì đó cũng là túc nhân, nếu như túc
nghiệp mỗi người trả xong rồi, không còn nợ cùng sâu trùng nữa, thì một chút
nông sản của họ, sâu trùng cũng không ăn!
Câu chuyện của nữ cư sĩ Quả Nghĩa (đệ tử
ngài Tuyên Hóa) ở Mỹ đã chứng minh rất rõ điều này:
Tại Mỹ, trong vườn nhà cô trồng rất nhiều
rau trái như: Cà, cải trắng, cải xanh, đậu cô ve, mướp, dưa v.v… cô không hề
dùng phân hóa học hay xịt thuốc trừ sâu chi. Cũng không thực hiện bất kỳ phương
pháp ngăn côn trùng nào, vậy mà rau trái trong vườn cô tăng trưởng rất tốt. Điều
khiến các thân quyến bạn bè nhà nông cũng trồng trọt giống cô cảm thấy kinh ngạc
cực kỳ là: Khu vực rau củ quả thuộc cô sở hữu không hề có dấu vết bị côn trùng
ăn qua, mặc dù trong vườn cô có rất nhiều hang ổ ốc sên. Nhưng nơi trồng rau
không có con ốc sên nào phá. Trong vườn cô còn có rất nhiều kiến, sóc, chim và
động vật nhỏ v.v… nhưng chúng không hề ăn phá rau này.
Anh rể mà chị cô cũng trồng rau giống vậy,
nhưng mầm vừa mới nhú lên thì đã bị côn trùng ăn sạch. Cô tuyệt không hề vì vườn
rau niệm Phật hồi hướng, nhưng tại sao côn trùng chẳng ăn rau cô?
Thực ra rất đơn giản: Tất cả đều nằm
trong hai chữ “nhân duyên” nếu bạn thực tâm tu hành, cùng côn trùng túc nghiệp
đã hết, đời này lại còn giữ giới bất sát không làm hại chúng, thì côn trùng sao
có thể tìm bạn quấy rầy được chứ?
Quý vị đừng nghĩ chuyện của Quả Nghĩa là
hy hữu độc nhất – chỉ cần quý vị y theo
Phật pháp tu hành, thì bất kỳ ai cũng có thể kết thiện duyên cùng chúng sanh.
Ngày 14 tháng 8 năm 2007 Nhật báo Thiên
Tân đã đăng một chuyện lạ khó tin như sau:
Trong khi giới Nông nghiệp Trung Quốc mở
hội “Nông nghiệp hiện đại hóa” áp dụng kỹ thuật lai giống hoặc chuyển biến
gien, cho dùng phân hóa học, thuốc tăng trưởng, thuốc diệt cỏ và cơ giới hóa
quy mô, thì ông An Kim Lỗi ở thôn Đông Tử Long, thị trấn Mã Đồn, huyện Táo Cường,
tỉnh Hà Bắc lại thực hành trái ngược.
Ông khởi nghiệp tại vùng hoang sơ này,
chỉ dùng hạt giống của mình gieo trồng không
hề áp dụng kỹ thuật biến đổi gien hay cho lai giống hoặc xài phân hóa học, nông
dược chi. Ông chẳng giết côn trùng, không làm bù nhìn đuổi vật, mà còn dành ra
một vùng trồng riêng dành cho hơn năm trăm con chim sẻ ăn. Cả chó trong nhà ông
nuôi cũng cho ăn chay. Mọi người thấy vậy đều cho là kỳ quái, không ai hiểu được
ông.
Kết quả thế nào? Các ruộng bông nông
nghiệp hữu cơ của ông phát triển rất tốt, sản lượng tăng cao, chi phí thấp,
sinh thái bình ổn. Còn các vùng dân làng trồng theo kỹ thuật nông nghiệp hiện đại
thì cây mọc không tốt, sản lượng chẳng cao, chi phí rất tốn kém, môi trường
sinh thái ác hóa (bị xấu tệ).
Quan trọng hơn nữa là, vùng đất của An
Kim Lỗi canh tác không hề sử dụng thuốc, vậy mà ruộng vườn sinh thái quân bình,
hài hòa thấy rõ: Một vùng xanh tươi căng tràn sức sống, không giống như các
cánh đồng xịt đầy thuốc sâu.
Đấy là, dưới nguyên tắc: “Tự mình sinh tồn
còn giúp cho kẻ khác sinh tồn”, các sinh vật hiện hữu đều cảm ân, tợ như ngầm
giúp đỡ cánh đồng hoa màu của An Kim Lỗi được tăng gia sản lượng. Cây bông vải
của An Kim Lỗi không hề dùng thuốc sâu và phân hóa học, vậy mà khối lượng thu
hoạch vượt xa mọi người, đồng thời còn đem lại thu nhập cực cao, làm chấn động
cả dân làng vùng đó.
Cánh đồng bông của An Kim Lỗi mượt óng,
nhìn ưu việt vượt trội hẳn mọi người, vì vậy mà năm nay trang trại ông được một
nhà máy dệt để mắt đến, xin ký hợp đồng và thu mua hết. Hàng ông tốt đến nỗi mỗi
cân bán được 4.5 đồng trong khi giá thị trường mỗi cân chỉ có 2.7 hoặc 2.8 đồng.
Không những thế, hạt kê và các loại nông sản khác của ông trồng cũng cho sản lượng
cực cao và ưu việt, hơn nữa môi trường sinh thái rất tuyệt hảo.
Chuyện này không có gì là ngẫu nhiên, tại
Hà Nam tôi gặp một nông dân trẻ tên Quốc An. Lúc đó những người trồng bắp ở đây
đều dùng thuốc diệt côn trùng, riêng anh lại quyết định niệm “Chú Đại Bi” cho
đám sâu trong hai mẫu bắp của mình. Mỗi ngày anh tụng hai trăm biến, hy vọng
hoa màu tăng trưởng phát tốt, năm ngoái khi chưa biết đạo, anh còn dùng cái
bình to phun thuốc giết chết côn trùng vô số. Anh kể tôi nghe chuyện trồng trọt
của mình như sau:
“Từ khi học Phật hiểu nhân quả rồi, tôi
nguyện thà cam chịu hai mẫu bắp kém thu hoạch chứ nhất quyết không sát sinh giết
côn trùng nữa.
Sau đó thấy côn trùng trong vùng càng
lúc càng nhiều, cư dân láng giềng sợ ruộng bắp bị côn trùng phá hư nên xúm nhau
góp ý kiến nghị với tôi. Gặp tình huống “chẳng đặng dừng” này, tôi đành đeo
bình thuốc lên vai cho dân làng nhìn thấy yên lòng nhưng thực ra bên trong chứa
toàn nước lã, tôi vừa xịt nước vừa tụng “Chú Đại Bi” liên tục, còn âm thầm khấn
vái chư Bồ-tát gia hộ, đừng để côn trùng kéo đến đất mọi người.
Được một thời gian, đột nhiên trong một
đêm, những côn trùng hiện hữu bỗng nhiên biến mất tăm mất tích. Rẫy bắp tăng
trưởng cực tốt, toàn thôn cuối cùng cũng thu hoạch sản lượng rất cao, khiến tín
tâm học Phật của tôi càng thêm kiên định”.
Xem qua mấy câu chuyện các nông dân Phật
tử kể ra như thế rồi, bạn có muốn thử chăng? Đầu tiên bạn phải thành tâm sám hối
những lỗi sát sinh trước đây của mình, thề không phạm lại nữa. Bạn phải thệ
nguyện từ nay nghiêm trì giới cấm của Phật, và hãy dùng nước “Chú Đại Bi” thay
cho nước thuốc trừ sâu, chân thành tụng kinh hồi hướng cho những chúng sinh đến
quấy phá. Thời kỳ đầu có thể côn trùng vẫn còn tái tới lui. Nhưng nếu bạn nhất
định kiên trì thực hành theo cách này, thì sẽ nhanh chóng phát hiện: Việc thế nhân cho rằng không bao giờ có thể
xảy ra sẽ hiển hiện đành rành trước mắt bạn vô cùng kỳ diệu. Bởi Phật pháp
vốn là thuốc hay chữa trị tốt cho mọi vấn đề. Chỉ cần bạn có lòng tin và kiên
trì thực hành.
Sám
văn:
Có
người chấp chặt luận thuyết của mình, khư khư cho là đúng, không biết động não
suy tìm nhân quả, cứ theo kiến chấp mê, làm chuyện sai lầm. Nếu gặp được Thiện
tri thức chỉ giáo may ra có thể giúp họ giải mê. Nhưng nếu gặp phải bạn ác thầy
tà, ắt si mê càng nặng.
Giải thích:
Nếu chẳng như pháp tu hành thì chẳng ra
khỏi tam giới, tự làm lãng phí kiếp người. Hoặc cứ kiên trì với tà kiến của
mình, không hiểu nhân quả, bị vô minh che trí. Nếu tình cờ gặp Thiện tri thức
hướng dẫn mà chưa thể cải tà quy chính, khi vô thường tới, hối hận đã muộn.
Tập khí nghi này, hàng Bồ-tát xuất tam giới
đều chưa đoạn tận, huống nữa phàm phu chúng ta, sao có thể trong chốc lát mà trừ
sạch hết? Nhưng nếu đời này chúng ta không đoạn nghi, đời sau tái sinh luân hồi
trong lục đạo, tật nghi sẽ tăng thêm. Vì vậy khi chúng ta bước trên con đường
tu hành dài đăng đẳng này, nhất định phải y theo lời Phật thuyết, nỗ lực tu
hành, không nên khởi nghi bất định, cuối cùng lăn lộn mãi trong luân hồi sinh tử.
Chúng ta phải khéo quán sát các hiện tượng
nhân quả luân hồi xảy ra quanh mình, nếu còn không tin nhân quả, tất sẽ gặp ác
duyên. Những người đa nghi hay luận tam thuyết tứ, nói đủ điều bên tai mong kéo
bạn bội giác hiệp trần theo họ, mà tâm chí bạn lại bất định, niệm niệm thường
theo ác duyên.
Đời này nhất định phải như pháp tu hành
mới có thể xuất ly biển khổ tam giới, phải siêng năng chịu khó, tập làm một người
dốc tâm ý phục vụ, không mảy may lợi ích, biết vì người. Có kham nhẫn được khổ mới mong thoát khổ, vì khổ tận cam lai.
Hiện nay mọi người không ngại gian lao lặn
lội từ xa đến tham dự đạo tràng này, chịu cực nhọc bái Phật lễ sám, phải biết lễ
Phật một lễ tội diệt hằng sa, tụng một bộ kinh độ chúng vô lượng. Vì sao thế?
Bởi vì khi đại chúng cùng nhau lễ Phật sẽ
chiêu cảm vô số quỷ thần và chúng sinh trong cõi vô hình đến tham gia bái sám,
đồng thời những chúng sinh đang bái Phật kia, ngay đây cũng được thọ ích. Những
loài ngạ quỷ sẽ được khai mở yết hầu, nếu khởi ý muốn ăn, liền được no đủ. Loài
quỷ xấu xí sẽ lập tức có được hình dung tốt.
Khi pháp hội viên mãn, những quỷ thần hiện
đang tham dự đều có thể tức khắc chuyển thế đầu thai, sinh vào thiện đạo. Từ đó
họ cùng Phật kết thiện duyên nên chuyện ra khỏi tam giới chỉ là sớm muộn mà
thôi. Giúp nhiều chúng sinh thọ ích, đều
nhờ người bái sám thành tâm mà chiêu cảm nên. Vì vậy mà công đức lễ Phật
sám hối này rất lớn, đủ để diệt vô lượng tội.
Đại chúng nhất định phải y theo Phật dạy,
như pháp tu hành. Ngàn vạn lần không nên vì sợ mệt nhọc mà không bái sám, làm mất
đi dịp may ngàn năm có một, xin hãy khắc ghi nhớ kỹ: “Chịu khổ thì dứt khổ, hưởng
phúc là tiêu phúc”.
Xin kể câu chuyện xảy ra đầu năm 2000 để
giải thích cho câu: “Tập khí xấu đời này không đoạn trừ, kiếp sau sẽ càng
tăng”.
TIÊU
TIẾU
Ở Bắc Kinh có Lê nữ sĩ, chồng bà họ
Tiêu, có con tên Tiêu Tiếu, được mười ba tuổi. Từ khi Tiêu Tiếu sinh ra, thị lực
đôi mắt rất kém chỉ được 0.1.
Vì vậy lúc học tập hầu như Tiêu Tiếu phải
dán mắt sát tập mới thấy chữ. Hơn nữa nhãn cầu loạn động không ngừng. Bác sĩ chẩn
đoán do tròng đen bị tổn thương lại mang khuyết tật bẩm sinh, thêm phần nhãn cầu
thường rung động nên không thấy rõ. Tiêu Tiếu tuy thị lực kém, nhưng bản tính rất
tự cao, hung hãn. Nếu gặp ai tỏ thái độ khinh khi là nó lập tức tung chưởng, ra
đòn thần tốc, nó hay đấm vào mặt bạn học, làm nạn nhân bị thương nơi mắt, cha mẹ
nó thường vì chuyện này mà bị trường mời tới mắng vốn hoài.
Còn một chuyện khiến mẹ nó rất phiền muộn
là, Tiêu Tiếu thường bất hòa hục hặc với cha, phụ thân cũng chẳng ưa con trai.
Hai cha con hễ gần nhau là gây chuyện ầm náo không dứt. Nếu con trai ra ngoài
đánh đấm gây họa, về nhà tất nhiên sẽ bị cha thịnh nộ quát mắng. Mỗi lần như thế,
Tiêu Tiếu thường căm phẫn nói:
- Đợi tôi lớn khôn rồi, sẽ tính sổ với
ông!
Bà Lê là người hiền huệ thiện lương, hết
dạ kính chồng yêu con, bà đứng ở giữa không biết làm sao, do vậy mà ngày ngày sầu
muộn khôn nguôi.
Một hôm bà xem cuốn “Báo ứng Hiện đời”
trải qua bao kiếm tìm vất vả, cuối cùng cũng điện thoại được cho tôi. Bà thống
thiết kể lể bao khổ não của mình, cầu xin giúp đỡ.
Tôi bảo:
- Con trai bà ra đòn, toàn đánh vào mặt
đối phương, đó là tại “cha nó truyền dạy cho nó”. Hơn nữa chồng và con bà cực kỳ
ưa xem phim võ thuật đấm đá.
Nghe tôi nói bà lộ vẻ rất ngạc nhiên rồi
gật gù xác nhận:
- Dạ đúng! Đúng thế ạ!
Sau đó cả nhà bà đi xe hỏa đến gặp tôi, tôi
kể cho họ nghe câu chuyện xa xưa:
“Vào thời Minh có đôi vợ chồng là võ sư,
do không có con, nên họ thu nhận một ái đồ làm con nuôi và cưng yêu như con đẻ.
Sư phụ bèn truyền cho con nuôi thế võ tuyệt kỹ gia truyền có tên là “Ưng trảo
công”, chuyên móc mắt đối thủ.
Sau này, đệ tử vào làm cho một tổ chức nọ
(giống như Cẩm Y Vệ hoàng cung), chuyên thay chủ đi ám sát những kẻ đối nghịch
bất đồng chính kiến, anh làm nhiều người bị mất đi tròng mắt, sống không bằng
chết. Vì vậy đã khiến cho giới võ lâm phẫn nộ, họ hợp lại cùng bày mưu và bắt
được anh, sau đó dùng cực hình bức cung, ép anh rằng: Nếu đồng ý khai ra tên sư
phụ, thì sẽ được tha mạng. Anh đệ tử (cũng là con nuôi) do bị cực hình tàn khốc
nên chịu hết nổi, bèn khai tên sư phụ ra, giới võ lâm giữ đúng lời hứa, cho anh
lưu lại mạng tàn nhưng họ phế hết võ công và đánh trọng thương hai mắt anh.
Riêng sư phụ, sư mẫu anh nhờ võ công cao
cường, nên họ trốn thoát được cuộc truy sát của giới võ lâm và phải ẩn cư tận
chốn thâm sơn. Sư phụ biết được do đệ tử đã khai tên mình ra nên căm phẫn ngút
trời, mặc dù sư mẫu khuyên can hết lời, song ông khó thể nguôi ngoai.
Phần đệ tử sau khi chữa lành vết thương
thì hai mắt cực yếu, qua bao cố gắng, anh tìm được sư phụ sư mẫu, nhưng bị sư
phụ căm hận báo thù bằng cách: Dùng độc dược hại chết anh.
Đệ tử chết rồi thì vào địa ngục chịu vô
lượng khổ, thoát khỏi địa ngục thì đầu thai làm rắn mắt kính, mãn kiếp rắn thì
sinh vào nhân gian, có thị lực yếu kém, là do phải thọ dư báo của ác nghiệp xa
xưa.
Riêng sư phụ sư mẫu anh, trải qua bao kiếp
luân hồi cũng đầu thai vào nhân gian, do nghiệp lực chiêu dẫn, nghịch duyên xui
họ tìm tới nhau! Anh đệ tử quá khứ kiếp này sinh làm con ruột, nhưng oán hận xa
xưa vẫn còn, mới khiến cha con đối nghịch nhau như kẻ đại thù ngay trong đời hiện
tại. Còn cái thói hễ đánh lộn là cứ nhè mặt người mà đánh, khiến họ bị thương
nơi mắt, là tập khí ác mấy kiếp trước anh đệ tử còn mang theo qua đến đời này.
Nếu hiện đời không biết ăn năn sám hối, cùng nhau hóa giải oán hận thì kiếp sau
hai cha con sẽ gặp lại nhau trong cõi súc sinh và cùng ăn nuốt lẫn nhau, khi đó
có muốn mang thân người lại cũng là chuyện “vạn kiếp khó được”.
Tiêu Tiếu nghe xong thì rất tin, không
chút nghi ngờ, vội hướng tôi tha thiết hỏi cách làm sao để diệt tội?
Tôi đáp:
- Hiện nay con đã là phận con, lại dám
cùng phụ thân gây cãi đánh mắng tay đôi, còn phát thệ lớn lên sẽ báo thù, thêm
tật bướng lì không nghe lời mẹ khuyên, như vậy là phạm tội bất hiếu ngỗ nghịch
với cha mẹ, nếu chẳng mau sám hối, thì ngay trong đời này sẽ thọ khổ vô tận, rồi
tương lai sau khi chết đi sẽ đọa vào địa ngục vô gián.
Tiêu Tiếu nói:
- Con đã biết lỗi rồi, giờ phải sám hối
như thế nào?
Tôi quay qua chỉ vào phụ thân cháu bảo:
- Đây là phụ thân, người sinh dưỡng ra
con hiện đang ở trước mặt, nếu con muốn bày tỏ tâm ý chân thành sám hối, thì
hãy tự nghĩ xem mình phải làm sao và nói như thế nào để cầu xin cha tha thứ
cho?...
Tiêu Tiếu thưa:
- Con sẽ quỳ xuống xin lỗi…
Tôi bảo:
- Thế thì còn đợi gì nữa mà không làm
ngay?
Tiêu Tiếu thật ngoan, cháu lập tức quỳ
xuống trước mặt cha và thưa:
- Cha ơi, do trước đây con không hiểu
chuyện, nên mới đánh cãi với cha, làm cha giận, con biết mình sai rồi, cầu xin
cha hãy tha thứ cho con. Từ nay trở đi, con nguyện làm đứa con hiếu thuận vâng
lời.
Những người có mặt tại đó đều bị lòng
thành của thằng bé làm cho cảm động, thảy đều vỗ tay khích lệ. Nhưng người cha
chẳng thèm nói năng chi, mặt lộ vẻ không thoải mái. Rất dễ hiểu, oán hận trong
lòng ông chưa thể tiêu tan.
Thấy vậy, tôi liền bảo Tiêu Tiếu và mọi
người:
- Tiêu Tiếu đã nhận ra lỗi, thành tâm sám hối giữa chúng, nên không tội nào mà
không tiêu. Từ nay về sau chỉ cần cháu chân thành sửa lỗi, không ôm lòng hận
cha nữa, thì mối oan nợ với cha xem như ngay đây được xóa sạch! Từ rày phải phụ
giúp những gì mẹ làm không kịp, lo chăm chỉ học tập, không được đánh chúng bạn
nữa. Nếu bị người đánh mắng, phải biết tự kềm chế không được tung đòn, vì đó là
ác nghiệp quen tạo trong kiếp xưa còn mang theo đến giờ. Từ nay về sau, sáng hoặc
tối, nên tranh thủ những lúc rảnh, rót một ly nước cúng trước Phật, quỳ tụng từ
bảy đến 21 biến “Chú Đại Bi”. Trước khi đi ngủ hãy dùng nước này rửa mắt, thị lực
sẽ dần chuyển tốt. Đương nhiên là phải
ăn chay trì tụng “Chú Đại Bi” mới được gia trì không chướng ngại.
Từ nay về sau hằng ngày phải tụng từ 7 đến
21 biến “Chú Đại Bi”, thì con sẽ ngày càng thông minh, có tương lai tốt. Còn nữa,
con phải thường phóng sinh để sau này thân thể khang kiện, chẳng bệnh nặng mà
còn được trường thọ.
Con chỉ cần tu hành cho tốt, đợi khi tội
nghiệp đời này tiêu tan, tương lai sẽ được vãng sinh thế giới Cực Lạc. Ta nói vậy,
con có tin chăng?
Tiêu Tiếu thưa:
- Dạ tin ạ! (Lúc này Tiêu Tiếu vẫn còn
quỳ trước mặt cha).
Tôi bảo cha hắn:
- Vừa rồi tôi đã kể chuyện nhân duyên kiếp
trước cho ông nghe. Do ông truyền dạy võ độc cho đồ đệ nên hắn mới tạo ra lắm tội.
Còn chuyện hắn khai ra tên sư phụ, là do bị nhục hình bức cung. Bản thân ông chẳng
những không biết sám hối, ngược lại còn ra tay hạ độc giết chết đệ tử. Thù ấy hận
này, nếu đổi lại là ông, ông có oán hận hay không? Đời này nhờ vợ ông mộ đạo
thành tâm, gieo duyên sâu với Phật, cũng nhờ Phật lực gia trì, mà ông mới có cơ
hội biết rõ nhân duyên túc nghiệp ân oán kiếp xưa của mình. Thế mà ông không biết
cảm tạ ân Phật và hiền thê, ngược lại còn đối với đứa con đang thành tâm quỳ
trước ông tạ lỗi kia, không chút mềm lòng. Hiện tại con ông tội nghiệp đã tiêu.
Phần ông nếu không biết sám hối ăn năn những tội lỗi mình đã làm, thì tôi vẫn
có thể cho phép con ông đứng dậy. Từ nay về sau, đến lúc nghiệp báo ông trổ,
thì đừng có hối!
Lúc này người cha đã nghe và hiểu minh bạch,
mặc dù không muốn, song ông vẫn ráng nói một câu: Ba cũng có chỗ không đúng! Rồi
đưa tay đỡ con đứng dậy.
Thấy cảnh này, mọi người đều vỗ tay tán
thưởng.
Hôm sau, bà Lê gọi điện tới, mừng rỡ kể
lể:
- Vừa lên hỏa xa thì hai cha con đã chịu
ngồi chung bên nhau, câu chuyện đời trước và tập quán đời này, trở thành đầu đề
bàn luận cười vui của cả nhà.
Nghe vậy, tôi cũng mừng cho họ.
Vừa rồi có vị cư sĩ mách tôi:
- Tiêu Tiếu đã thi đậu trung học, thành
tích đứng hạng nhì toàn trường. Em cũng không còn đánh bạn, quan hệ hai cha con
đã chuyển tốt.
Tôi nghe xong cảm thấy rất an ủi, thầm tạ
ân Phật pháp đã cứu độ vô lượng tín chúng lìa khổ được vui.
Trong sám văn nói: “Tập khí xấu đời này
không đoạn, kiếp sau sẽ càng tăng” là có thực không dối. Phàm là đệ tử Phật,
thì phải nỗ lực hành trì cho thấu đáo, “nghĩa là danh hiệu Phật cần niệm vang
vang nơi miệng, thầm thầm nơi tâm”. Như vậy bao nghịch duyên thâm tình, sẽ được
ân tăng oán diệt đời sau không còn khổ não ở Ta bà.
Sám
văn:
Chư
Phật thánh nhân sở dĩ ra khỏi sinh tử, là nhờ công tích thiện nên được quả giải
thoát vô ngại tự tại. Chúng con ngày nay chưa lìa khỏi sinh tử, đã rất đáng
thương; sao còn ham trụ trong đời ác này nữa? Nay còn may được ngũ phước thịnh,
tứ đại chưa suy; có thể tới lui thong thả, cử động tự do, thế mà không nỗ lực
tu hành tham dự bái sám, còn đợi đến bao giờ?
Đời
trước đã không thấy đạo; đời này cũng để qua suông không chứng ngộ gì, đời sau
làm thế nào độ chúng sinh? Tự kiểm càng thấy đau lòng, một khi mất thân người,
vạn kiếp khó mang lại. Vậy rất bi thảm đáng thương.
Ngày
nay đại chúng cần nỗ lực siêng tu, không nên nói: “Phải có tin chứng ngộ gì mới
chịu tu”. Bởi đường tu lâu dài, không thể trong một sớm mà làm xong. Nếu cứ để
ngày tháng trôi suông, biết bao giờ mới tu thành?
Giải thích:
Chúng ta đời này cần chịu khó siêng tu
ra khỏi tam giới, thành tựu Phật đạo. Hãy xem chữ đạo (道) phía trên có hai điểm: Chính là chữ người (nhân 人) đảo ngược, hàm ý rằng: Muốn tu thì cần phải làm
người lội ngược dòng, đi ngược lại thế
nhân. Vì sao phải hành ngược lại? Bởi phải vượt thoát tam giới mới thành
thánh nhân. Ngài Tuyên Hóa dạy: Muốn xuất ly tam giới thì phải tu, tu thì phải
làm ngược lại thế nhân, nghĩa là làm người đảo ngược, mới là diệu pháp xuất tam
giới, mới có thể mở ra cánh cửa liễu sinh thoát tử, đây là chân lý trong vũ trụ.
Ví như mọi người đều tham tài sắc danh lợi, riêng bạn không tham, lại còn làm
việc lợi ích cho chúng sinh, thế thì nhân sinh quan của bạn không giống người
bình thường, không đồng ắt là dị, ý tưởng quá khác! Người có ý nghĩ khác lạ
này, tam giới trói y chẳng nổi, vì y đã mở được cánh cửa giải thoát!
Thí như kẻ chỉ biết đấu đá tranh giành,
sống tự lợi ích kỷ, toàn làm tổn người lợi mình, thì sẽ bị giam hãm trong bốn bức
tường lao ngục. Nhưng một khi phạm nhân đã quyết tâm cải tà quy chánh, chịu lập
công, bồi đức thì cánh cửa nhà giam sẽ mở ra cho y, đây gọi là “dị tưởng thiên
khai” từ ngữ này chính là Bồ-tát điểm hóa chúng ta. Ngôn hạnh chúng ta nếu siêu
xuất phi phàm – thì ắt phải nhập vào dòng thánh – cho nên mới có từ: “Siêu phàm
nhập thánh”.
Lại có câu: “Người không vì mình trời
tru đất diệt”. Ý câu này là: “Nếu người không mưu đồ lợi ích cho mình, thì trời
và đất đều không còn tồn tại”. Chữ (誅)
tru là chết (tử tức thành không, diệt cũng thành không), đã siêu xuất ra ngoài
tam giới, thì trời và đất chẳng quản nổi bạn. Thiên vương tam giới, Diêm La
Vương v.v… cũng quản chẳng nổi người siêu phàm, nên bạn tự nhiên được tự tại vô
ngại.
Vạn
vật nhân nơi đạo sinh,
Người
đắc đạo tự thông linh.
Triệt
ngộ thể bản lai,
Một
thông tất cả thông.
Bốn câu này là của ngài Tuyên Hóa dạy.
Trong đây nói “vạn vật nhân nơi đạo” chữ đạo này là từ ngữ (trong Thiên đạo, Nhân đạo, Súc sinh đạo, Ngạ
quỷ đạo, Địa ngục đạo…), là tùy tâm sở hiện. “Thông linh”
là chỉ người tu hành đắc đạo, thông suốt tất cả vô ngại. Thứ bậc của thông có
nhiều tầng lớp, bao gồm: Đạo thông, Thần
thông, Y thông, Báo thông, Yêu thông.
Thông linh mà ngài Tuyên Hóa đề cập
chính là người ngộ đạo rồi thông tất cả, vô ngại. Đạo thông có diệu dụng vô biên, đây là tối cứu cánh, chỉ bậc thánh
nhân ngộ đạo chứng quả mới đạt đến cảnh giới này.
Thần
thông: là do tu định mà được, có thiên nhãn thấy khắp,
thiên nhĩ nghe khắp; thấu rõ tâm người (tha tâm chiếu kiến), túc mệnh thông đạt,
thần túc vô ngại… ngoại trừ bậc thánh có thần thông không bị mất đi, thì thần
thông phàm phu có thể do tâm tham, sân, si… khởi hừng thịnh mà bị mất đi định lực
và thần thông.
Thời Phật, Đề Bà Đạt Đa nhờ Thập Lực Ca
Diếp dạy ông tu đắc sơ thiền và phát thần thông rồi, thì ông bắt đầu tự kiêu
ngông cuồng, nói lời bội ân vong nghĩa:
- Nhờ ta ngày đêm tinh tấn, nên mới đắc
thiền, có định lực đệ nhất, là do ta, chẳng liên can gì đến Thập Lực Ca Diếp! Kết
quả: Ông vừa nói xong, thần thông bị mất hết (Phá Tăng Sự quyển 13).
Y
thông: Tức là y theo, dựa pháp thuật và “thông”của ngoại lực,
như một số đảng phái đạo gia Trung Quốc học phù chú. Ngoài ra các dạng ông bà đồng, những kẻ xưng thánh, lên đồng làm các việc
linh dị là họ nương vào ngoại lực quỷ thần, yêu tiên bên ngoài, chẳng phải thực
lực của chính mình, đây cũng gọi là Y thông.
Chẳng hạn như mấy năm trước xuất hiện vị
sư khí công như Trương Hương Ngọc v.v… chính là nương quỷ thần gá dựa mà làm ra
những việc kỳ dị, nhưng khi quỷ thần rời đi thì cái gì cũng không linh.
Báo
thông: Là người sinh ra đã có khả năng đặc biệt, thần thông
này là do phúc báo mà có, như các khả năng biến hóa của Thiên Long Bát Bộ, cho
đến thân trung ấm có thể tới lui qua lại di chuyển vô ngại.
Trong nhân đạo cũng có một số người sở hữu
báo thông, họ sinh ra đã có khả năng đặc biệt siêu nhiên là do kiếp trước họ có
tu nên chiêu cảm quả báo này. Nhưng báo thông vẫn không phải là cứu cánh, họ
cũng rất dễ ngộ nhận đưa ra kết luận sai lầm (do quán sát không thấu đáo). Chẳng
hạn như trong “Chúng Kinh Tuyển Tạp Thí Dụ” kể: Có một đồ tể thấy được nhiều đời
sau, nhưng lại khởi kiến giải sai lầm cho rằng: “Sát sinh sẽ được sinh thiên”
bèn yêu cầu khắp nơi giết dê để “tích lũy phúc báo”.
Cho nên người tu hành nhất định phải
minh lý, chẳng nên lỗ mãng bất minh quả báo, cho dù có thần thông chân chính
cũng không được chấp trước, tôn giả Mục Kiền Liên là bậc đại A la hán có thần
thông đệ nhất, cũng từng có lúc nói sai, cho nên mặc dù có thể dùng thần thông
độ người, nhưng người tu nhất quyết không được chấp vào thần thông.
Yêu
thông: Là chỉ hồ ly lâu năm biến hóa, cây đá thành tinh biến
thành, thần thức gá dựa người, thông minh kỳ dị v.v… những tình huống này rất
thường thấy. Trong dân gian Trung Quốc thường hay thờ cúng Ngũ Đại Tiên (Hồ ly,
Chồn, Nhím, Rắn, Chuột). Do các loài này trong tĩnh lặng phát sinh một số năng
lực phi thường, nên có thể gá nhập vào đồng cô bóng cậu nói ra vài tiên đoán
lành dữ họa phước cho phàm nhân. Trong số Yêu thông này có thiện lẫn ác, thiện
thì giúp người giải quyết một số bệnh tật tai ương, nhưng nếu gặp người tu hành
hoặc bàn đến đại sự thì không linh. Loài ác thì ham mê tài vật mỹ sắc, thường
gây vạ cho nhân gian. Người ta thường gọi là “hồ ly tinh, xà tinh hại người” đều
thuộc dạng này.
Thần y Trung Quốc Lý Thời Trân (sinh năm
1518) từng viết quyển “Bổn thảo cương mục” liệt kê tổng cộng có 1.892 loại dược
thảo, tả rõ tỉ mỉ công năng từng loại. Tôi nghĩ nhờ ông có thể cùng thảo mộc
giao lưu nên mới thông hiểu được. Do ông muốn cứu tử hộ sinh, làm lợi cho mọi
người, nên thần thảo mộc đã tình nguyện cùng ông giao lưu. Bởi thần gá dựa thảo
mộc, nếu giúp giải trừ bệnh khổ cho người, thì đây là công đức của thần, khi thảo
mộc chết rồi, thần cũng được chuyển sinh thiện đạo.
Còn những vị khai ngộ chứng quả thì trên
ắt thông Phật, Bồ-tát, dưới thông khắp quỷ thần, triệt ngộ thấu suốt bản thể,
nên gọi: Một thông tất cả thông. Nếu như thể ngộ tâm tính chúng ta cùng Phật đồng
nhau, đấy là hoạch đắc đại trí huệ, một thông thì tất cả minh bạch hết.
Chư Phật, Bồ-tát thấu đạt đến tận cùng
là vì muốn chúng ta thắp hương thờ phụng cúng lễ ư? Không phải vậy! Nếu cho rằng:
Hễ ai thắp hương lễ lạy cúng dường, thì chư Phật, Bồ-tát sẽ che chở, ban vinh
hoa phú quý, cho xuất ly tam giới, còn ai không cúng dường lễ lạy thì không được
ban phúc, nếu nghĩ vậy thì chẳng phải Phật, Bồ-tát cũng giống như tham quan ư?.
Như trên đã giảng, quỷ thần thường nương
theo người tu hành trì giới, tập tu, bái Phật niệm kinh theo, nhờ vậy mà được lợi
ích. Cho nên khi ta thắp hương lễ Phật cúng dường, không những biểu thị lòng
cung kính đối với Phật, mà còn có thể khởi tác dụng giáo hóa, độ những chúng
sinh mà mắt phàm không thể nhìn thấy.
Hễ
bạn trì giới càng tinh nghiêm, lễ Phật càng tinh tấn, thì hiệu năng hóa độ
chúng càng nhiều, tất nhiên là có công đức vô lượng, tội
cũng diệt vô lượng. Chữ (道)
đạo có một nét ngang (一),
phía dưới là chữ (自)
tự, ngụ ý bảo chúng ta rằng: Phải nương vào chính mình, đi cho tốt con đường
nhân sinh, vì vậy mà cuối cùng hoàn thành chữ đạo chính là chữ (走) tẩu thuộc bộ (辶)
sước, có nghĩa là: Đi! Chỉ có đi, tự thân thể nghiệm thực hành, mới có thể được
chư Phật, Bồ-tát gia trì và chứng minh.
Nếu chúng ta chẳng chịu bước đi, tu
hành, thì những nghiệp sát, đạo, dâm, vọng… ta đã tạo sẽ tích tụ thành cái ô
che phủ trên đầu ta, chúng tích tụ mỗi lúc càng lớn, làm ngăn cản ánh Phật
quang phổ chiếu khắp nhân gian, khiến chúng ta không thể nhìn thấy ánh sáng
quang minh và không có trí huệ. Đây gọi là: Bị vô minh che huệ. Vô minh giống
như bệnh đục thủy tinh thể ngăn cản ánh sáng vốn có, khiến người mù không thể
nhìn thấy gì, thực rất đáng thương.
Khi nào có vị thần y đến chữa mắt miễn
phí, mổ trừ bệnh đục nhân mắt cho, giúp bạn hồi phục ánh sáng vốn có. Ánh sáng: Tức là giác ngộ, là thành Phật.
Miễn phí: Là công đức đoạn ác tu thiện.
Danh y: Là Phật pháp. Quá trình mổ trừ bệnh mắt: Là quá trình
tu hành từ bỏ tham sân si tu giới định huệ. Quá trình này rất gian nan thống khổ,
thậm chí khó thể chịu nổi.
Tôi đã phí biết bao bút mực để giải một
chữ (道) đạo, chính là muốn nhấn
mạnh: Người học Phật cần phải “hành những
điều khó hành, nhẫn những điều khó nhẫn”,chịu nhọc thay người để thành nhân
chi mỹ. Thấy tất cả đều là Bồ-tát chỉ có mình là phàm phu, đây chính là làm
“người đảo ngược”, chỉ kẻ hành ngược với thế gian kiểu này mới có thể đạt đạo.
Đây chính là điểm huyền diệu của Phật pháp, cũng là chỗ khó tin khó hành.
Có thể tin và thực hành thì mới có thể đạt
đạo. Người đắc đạo tức có trí huệ, đắc ngũ nhãn lục thông. Nếu đã xả được, rủ bỏ
được mọi hưởng thụ hoan lạc ngắn ngủi hư ảo nhân gian, ắt có thể đắc được trí
huệ Phật, Bồ-tát… Hễ vô minh tiêu tan thì tự nhiên trí huệ hiện. Nếu không tu
như thế mà muốn đạt đạo, thì còn khó hơn lên trời. Mà hễđạt đạo thì được “đa hỗ trợ”, còn thất đạo thì bị “cô trợ”, nghĩa là người đắc đạo không những được
chư Phật, Bồ-tát chúc phúc mà ngay cả quỷ thần cũng xúm vào hỗ trợ người đắc đạo.
Cho nên người đắc đạo “kêu trời: trời
đáp; gọi đất: đất linh”. Đây chẳng phải là điều mê tín chi, Phật, Bồ-tát đều
dùng đại trí huệ, lực thần thông mà giáo hóa chúng sinh. Nếu phàm phu khéo đoạn
dục khử ái, tu tinh tấn để minh tâm kiến tính, thì cuối cùng sẽ có một ngày tự
hồi phục đủ thần thông trí huệ vốn có của mình. Lúc đó bạn sẽ kinh ngạc thốt rằng:
- Chà! Thế giới xưa nay vốn đã như vậy!...
Tâm phàm phu giống như mặt gương dính đầy
bụi dơ, gì cũng không thể chiếu hiện. Người bắt đầu chùi bụi dơ thì chỉ cần làm
bền bỉ, bất kể gương bị bụi bẩn bám dày đến đâu, cũng sẽ được sạch và sáng rỡ lại,
đến mức có thể chiếu soi cho mình lẫn người. Tôi nói gương: Tức là tâm. Những
ai không chịu lau chùi tâm, để tham, sân, si, mạn, nghi… che lấp thì đương
nhiên không thể có thần thông, nên họ không thể chiếu sáng mình, cũng không thể
chiếu soi cho người. Vì vậy tạm thời người không có thần thông chẳng nên vì thấy
người khác có thần thông mà tật đố phỉ báng, làm thế chỉ khiến bạn đọa vào địa
ngục thôi. Chỉ cần mau mau tu, lo tịnh hóa thân, khẩu, ý và sửa mình cho ráo riết,
rồi có ngày bạn sẽ minh bạch hết.
Chúng sinh nếu không y theo lời Phật dạy
tu hành, thì không thể thoát ly tam giới, nên phải y theo pháp Phật mà tinh tấn
tu hành như cứu lửa cháy đầu, gấp rút dốc toàn lực, tha thiết hành trì. Nếu
không như vậy là để đời mình trôi qua uổng phí vô ích.
Sám
văn:
Ngày
nay Đại chúng nhiếp tâm, suy nghĩ cho kỹ:
Đã
sinh lòng tin rồi thì nên giữ ý thanh tịnh, lấy đó làm nẻo quy hướng, đối với
các pháp chớ để chướng ngại. Nếu bất minh bản thể, tự mình không thể làm việc
phước thiện, thì khi thấy người làm thiện nên chắp tay khuyến khích, tán thán
công đức, đừng sinh tâm cản trở khiến người nản chí. Nếu người không thối tâm vẫn
cứ tinh tấn, thì người không tổn giảm gì, chỉ có mình bị tổn phước, do phí công
gây chuyện, đâu có ích gì cho bản thân?
Nếu
đời này mình gây trở ngại cho người thì đời sau khó thông đạt được Phật đạo.
Theo
đó mà suy, tổn hại này rất nặng. Vì ngăn trở thiện căn của người là tội rất lớn.
Giải thích:
Trong Kinh Lăng Già, Phật bảo A Nan:
“Nhiếp tâm là giới, nhân giới sinh định, nhân định phát huệ”, đây gọi là “Tam
vô lậu học”.
Vì vậy đối với người tu hành chân chính,
cần làm chủ tâm mình, khiến tâm luôn bảo trì chánh niệm, nếu tâm chạy lệch, phải
kéo về chính niệm ngay, nếu giữ được tâm không lăng xăng tà vạy, ắt là không tạo
nghiệp. Pháp môn tu hành tuy có vô số,
nhưng chỉ cần làm chủ mình, quản tâm không hướng ác,bảo trì chính niệm (tạo
thập thiện nghiệp) thì tu pháp gì cũng đúng. Ngược lại, nếu chỉ chú trọng tu
ngoài miệng mà tâm không tu, nghĩa là tuy miệng có niệm Phật, trì chú, tụng
kinh… mà không lưu ý điều tâm ly ác hướng thiện, bội trần hiệp giác, thì cho dù
có tu pháp gì cũng vẫn là sai, vì đây gọi là ngoài tâm cầu pháp, nên muốn thành
tựu thì không có lý đó. Trong Phật môn có câu: Tâm chánh tu tà pháp, tà cũng biến
thành chánh. Tâm tà tu chánh pháp, chánh cũng biến thành tà.
Lục
độ vạn hạnh: Chữ lục độ nằm ở trước, hàm nghĩa: Đây
là nền tảng căn bản mà người tu cần phải hành trì cho được, chữ vạn hạnh nằm ở
phía sau; là ý nói khéo nghiêm trì lục độ, thì tu pháp gì cũng đều được.
Đương nhiên chúng ta cũng không thể chỉ
chú trọng tạo phúc điền (bố thí, phóng sinh, in kinh v.v…) mà cần phải nghiêm trì giới luật, dứt tuyệt đồ
mặn, ăn chay trường, tự thanh tịnh tâm ý. Có nhà phê bình: “Đó là ngoài tâm
cầu pháp không thể thành tựu”. Bởi căn cơ người ta có lanh có khờ, còn tùy thuộc
thời cơ. “Ngoài tâm cầu pháp” cũng là con đường tắt của đa số người tu, ngoài
tâm cầu pháp chung quy cũng là niệm Phật tụng kinh, nhất định sẽ được Phật từ
bi gia trì. Đến một khi nào đó do nhờ Thiện tri thức khai thị hoặc nhìn thấy một
đoạn kinh hay lúc đả tọa, hoặc trong mộng được chư Bồ-tát điểm hóa, bấy giờ họ
có thể đột nhiên minh bạch lý đạo, quy hướng chánh đạo. Xin quý vị hãy an tâm,
Phật, Bồ-tát xem chúng sinh như con, không từ bỏ một chúng sinh nào, các Ngài
luôn có đủ phương tiện để tiếp dẫn hóa độ, quan trọng là chúng ta có tiếp nhận
sự giáo hóa chăng, nếu có thể y theo giáo pháp Ngài dạy mà tu, thì chuyện khai
ngộ chỉ là sớm hay muộn mà thôi.
Sám
văn:
“Kinh
Hộ Khẩu” ghi: “Có một ngạ quỷ thân hình xấu ác, nhìn là nổi ốc, ai cũng kinh sợ.
Thân phát lửa dữ. Miệng đầy sâu dòi lúc nhúc, cả thân đầy máu mủ tanh hôi, mùi
thối bay nồng, không ai dám đến gần. Miệng khạc ra lửa, thân bị lửa đốt, cất tiếng
kêu khóc, rảo chạy cùng khắp.
Lúc
đó ngài Mãn Túc La hán hỏi Ngạ quỷ:
-
Xưa kia ngươi tạo tội gì mà nay phải chịu khổ như thế?
Ngạ
quỷ đáp:
-
Kiếp xưa tôi từng làm sa môn, chẳng giữ oai nghi, nói năng thô ác, sống tham
lam, keo xan không biết cho ra.
Hễ
thấy người giữ giới tinh tấn thì mắng nhiếc, mạ nhục, ác kiến liếc nguýt, còn ỷ
mình giàu mạnh, cho là sống lâu không chết nên tạo ra vô lượng tội ác. Bây giờ
nhớ lại, có hối cũng chẳng thể cứu chuộc lỗi lầm xưa. Vì vậy, thà là cam tâm chịu
khổ tự cầm dao bén cắt lưỡi mình kiếp này sang kiếp khác, chứ tuyệt đối không
nên thốt lời phỉ báng việc lành của người!
Mong
ngài trở về cõi Ta bà, kể lại quả báo và tình trạng ghê khiếp của tôi để răn dạy
chư tu sĩ và các Phật tử, cảnh báo họ phải cẩn thận giữ khẩu đức, chớ tùy tiện
buông lời nói ác. Dù thấy người giữ giới hay không cũng chỉ nên nói đức tốt của
người.
Tôi
làm quỷ đói đã mấy ngàn kiếp, ngày đêm chịu đủ đau khổ. Thọ hết quả báo này thì
phải vào địa ngục.
Ngạ
quỷ nói xong thì bật khóc to, ngã nhào xuống đất như Thái Sơn đổ.
Giải thích:
Đoạn văn tả ngạ quỷ này, là cảnh báo cho
người chẳng nghiêm trì giới luật, chẳng giữ oai nghi, không gìn khẩu đức, mạ nhục
người trì giới.
Ngạ quỷ hướng vị La hán sám hối, cũng diệt
vô lượng tội nghiệp, có thể giúp y thoát khỏi biển khổ. Sở dĩ La hán đến độ ngạ
quỷ, là nhờ lúc ngạ quỷ làm Sa môn từng có niệm Phật tụng kinh (Phật tuyệt đối
chẳng bỏ rơi một chúng sinh nào).
Sám
văn:
Ngày
nay đại chúng nghe kinh dạy như vậy, rất là đáng sợ.
Chỉ
vì lỗi của miệng mà mang tội nhiều kiếp, huống chi là còn bao nhiêu tội ác khác
nữa? Xả thân thọ thân không ngừng chịu khổ, đều do nghiệp ác của mình đã tạo. Nếu
không gây nhân thì đâu phải chịu quả. Đã gieo nhân quyết định phải gặt quả.
Chưa từng thấy ai tu hành buông lung, lười biếng mà được giải thoát. Trái lại,
người hay tinh tấn cẩn trọng tu hành, được phước đức vô lượng.
Đại
chúng nên biết hổ thẹn, tịnh hóa thân tâm, sám hối lỗi cũ. Tội xưa hết rồi,
không gây thêm tội mới nữa thì được chư Phật khen ngợi.
Từ
nay trở đi, nếu thấy người làm thiện, chớ bàn tán phê bình thành bại, lâu mau.
Dầu họ chỉ làm lành trong một niệm, một giờ, một khắc, một ngày, một tháng, nửa
năm hay một năm thì vẫn tốt hơn là không làm.
Vì
vậy kinh Pháp Hoa dạy: “Nếu có người tâm tán loạn vào trong tháp miếu, niệm một
câu Nam mô Phật, thảy đều thành Phật đạo”. Huống chi là người phát tâm rộng lớn,
siêng năng tu phước thiện, mà ta không tùy hỷ, thì rất đáng thương.
Chúng
con từ vô thỉ đến nay, ắt đã có vô lượng ác tâm cản trở việc lành tốt đẹp của
người. Vì sao mà biết? Bởi nếu không như vậy, thì cớ sao ngày nay bao việc lành
của chúng con đa phần đều gặp khó khăn: Tự thân không giỏi tu Thiền định, trí
huệ. Hễ vừa lễ bái chút ít đã than khổ, vừa cầm đến kinh, liền sinh nhàm chán.
Cả ngày toàn tạo nghiệp ác, khiến không thể giải thoát.
Giải thích:
Chỉ một tội không giữ miệng, chiêu nhiều
ác báo đáng sợ như thế, huống chi là tạo nhiều tội khác nữa? Đã hiểu điều này rồi,
mỗi người chúng ta cần sinh tâm hổ thẹn ăn năn. Trên thế giới hiện nay, vật dục
bành trướng, vì mưu lợi người ta không từ thủ đoạn chi, thậm chí giết người cướp
của, tạo ác đủ dạng, đủ kiểu… chúng ta thấy báo chí truyền hình đưa tin dẫy đầy.
Nếu gặp người bố thí phóng sinh, in kinh tặng người, thậm chí khởi một niệm làm
lợi cho đại chúng, thì ta phải tán thán tùy hỷ, tuyệt không được gièm chê hay bình
luận thị phi. Phật nói: “Niệm một câu “Nam mô Phật” là đã kết duyên cùng Phật,
cuối cùng cũng sẽ tu thành Phật”, huống nữa là tạo nhiều thiện hạnh.
Người có trí huệ, phải mau sớm hồi đầu,
hễ có thời gian thuận tiện, thì chịu khó lễ bái, tụng kinh cho nhiều vào, thậm
chí có đả tọa tĩnh tâm, cũng đừng sinh chán mệt. Phải biết rõ: “Chịu khổ chính
là dứt khổ, vì: Khổ tận cam lai!”
Xin kể một câu chuyện có thực để chứng
minh uy lực vi diệu của việc niệm Phật:
TƯỚNG
QUÂN KHÔNG ĐẦU
Vào năm 1992, khu cư trú chung quanh
thành phố Bắc Kinh mới lập, có một hộ ba người dời đến đây chưa bao lâu. Vào buổi
chiều nọ khoảng hơn 6 giờ tối, cặp vợ chồng đang dùng cơm tại nhà bếp, thì bỗng
nhiên nghe có tiếng gõ cửa.
Con gái họ liền ứng thinh hỏi:
- Ai đó? (và chạy ra mở cửa).
Sau khi cô gái mở cửa xong thì bỗng thét
lên một tiếng “Á!”, kinh hoàng, rồi té nhào xuống ngất xỉu, mặt lộ vẻ hãi hùng.
Cha mẹ vội chạy ra cứu tỉnh con.
Khi cô gái tỉnh dậy kể:
- Con thấy ngoài cửa có một tướng quân mặc
khôi giáp thời cổ đại nhưng không có đầu, làm con sợ chết khiếp!
Người cha nghe vậy nghĩ thầm: “Chắc là bọn
xấu nào giả dạng như thế để hù dọa đây”, thế là ông liền cầm dao xông ra ngoài
xem, nhưng không thấy ai. Ông liền chạy lên sân thượng quan sát kiếm tìm, cũng
không thấy gì.
Thế là ông trách con hoa mắt nhìn sai.
Nhưng hôm sau con gái ông tan học xong, do quá sợ nên không dám về nhà, cô đành
qua nghỉ nhờ bên nhà bà ngoại. Đêm đến, khi ngủ cô vẫn còn bị ám ảnh nên thấy
ác mộng kinh hoàng, hãi hùng tỉnh giấc.
Cha mẹ bèn dẫn cô đi khám bệnh, nhưng
không tìm ra nguyên nhân. Trong lúc bối rối không biết làm sao, thì họ chợt nhớ
đến người bà con là Bác sĩ Hoàng (vai chính trong câu chuyện “Phụ Thân Cầu Siêu
Độ” nơi cuốn “Báo Ứng Hiện Đời 1-2) ông này cũng từng bị quái bệnh, nhờ được hướng
dẫn tụng kinh mà trị lành.
Bác sĩ Hoàng liền gọi điện cho Quả Lâm
(con gái tôi), kể rõ tình hình, ông vừa thuật xong thì Quả Lâm đã bảo ông:
- Lúc chú đang kể thì vị tướng quân
không đầu này đã tìm tới đây, hiện đang quỳ trước mặt con nè!
Quả Lâm liền hỏi tướng quân vì sao lại
hiện ra khiến người sợ chết giấc? Ông bèn kể mình từng ở địa phương này đánh trận,
bị địch bắt cắt mất đầu, nên rất cần tìm ra đầu để đầu thai chuyển thế.
Quả Lâm bảo:
- Ông bị chặt đầu từ thuở đó tính đến
nay đã mấy trăm năm trôi qua rồi, đầu bây giờ cũng đã hóa thành bụi đất, làm
sao mà tìm được?
Tướng quân không đầu nghe nói vậy thì bật
khóc to, lộ vẻ sầu khổ thảm thiết và than là xem như ông vĩnh viễn không có
ngày được đầu thai nữa!
Quả Lâm bảo ông:
- Đừng khóc, chỉ cần ông niệm Phật theo
tôi, thì Phật sẽ gia hộ giúp cho ông.
Rồi nó dạy ông niệm: “Nam mô A Di Đà Phật!”
Vị tướng quân kia chỉ niệm một câu “Nam
mô A Di Đà Phật!” thì thấy một cái đầu kim sắc liền hiện ngay trên cổ ông, ông
mừng rỡ đưa hai tay lên ôm đầu và nhảy cỡn lên, sau đó thì mọp xuống lạy Quả
Lâm ba lễ tạ ân, rồi đi đầu thai làm người.
Sau này đứa bé lớn lên, nhất định sẽ tìm
đến Phật môn quy y tu hành, bởi tướng quân không đầu kia kiếp trước từng đã có
cúng dường Phật, lễ Phật; nhờ nhân lành này mà trong giây phút tuyệt vọng, đã gặp
được Thiện tri thức chỉ ông niệm Phật, nhờ đó mà được tái sinh.
Quả Lâm bảo Bác sĩ Hoàng:
- Cô gái kia hiện thời lòng đã hết hoảng
sợ, tối nay sẽ về nhà cha mẹ mình.
Quả nhiên, tối đó gia đình họ gọi điện
báo tin cho Bác sĩ Hoàng hay là: Con gái họ đã về nhà rồi.
Qua câu chuyện này có thể thấy, chí
thành niệm một câu Nam mô A Di Đà Phật! Uy lực cảm ứng rất không thể nghĩ bàn,
nếu thường niệm danh hiệu Phật, công phu chẳng uổng, phúc chẳng mất, gặp lúc
nguy nan ắt được Phật gia hộ.
Xin kể thêm câu chuyện nữa:
Có bà X là Phật tử nhưng còn ăn tam tịnh
nhục, cùng nhóm bạn đồng nghiệp hai mươi mấy người đi du lịch Hoàng Sơn. Đến
khi xuống núi quay về, thì họ bị một đám thổ phỉ chặn lại, ra lệnh dừng xe.
Do vậy, tài xế lúc dừng xe đã nhắc nhở mọi
người nên sẵn sàng xả bỏ tài vật để bảo toàn mạng sống. Họ thấy sáu tên cướp
xông lên xe, tay cầm khí giới sáng lòe, trừng mắt quan sát khắp xe rồi nhảy xuống,
dõng dạc bảo tài xế:
- Cút xéo cho mau!
Mọi người đều ngạc nhiên vì thấy một xu
chúng cũng chẳng lấy. Sau khi thoát hiểm, biết bà X rất kính tin Phật, họ bèn hỏi
thăm:
- Hồi nãy thấy bà cúi đầu đọc niệm thầm
cái gì vậy?
Bà đáp:
- Tôi niệm “Nam mô Quan Thế Âm Bồ tát!”.
Qua việc này, nhiều đồng nghiệp bà phát
tâm qui y kính tin Phật giáo, bà X tín tâm càng kiên định, thệ dứt tuyệt đồ mặn,
nguyện ăn chay trường, hiện giờ là một người nghiêm trì giới luật, tu hành tinh
tấn.
Sám
văn:
Những
chướng ngại ấy đều do ác tâm phỉ báng việc thiện của người. Hôm nay tỉnh ngộ,
lòng rất hổ thẹn ăn năn, chúng con xin cúi đầu thành tâm sám hối lỗi kia.
Nguyện
nhờ công đức sám hối này mà tất cả chướng ngại, vô lượng vô biên tội nghiệp đều
được tiêu sạch hết. Chúng con nhất tâm thống thiết đầu thành đảnh lễ…
Giải thích:
Hôm nay đã hiểu minh bạch, thì phải sám hối,
ngay đây minh bạch thì tức khắc phải hồi tâm chuyển ý, phát nguyện từ nay trở
đi tuyệt đối chẳng tạo ác nghiệp nữa. Đã có lòng hướng thiện sửa đổi, nhất định
sẽ được chư Phật, Bồ-tát gia trì, đời này được gặp Phật pháp, giống như vào tới
núi báu, nếu cứ lười biếng sợ khổ không lấy báu vật ra, há chẳng phải là uổng
công đến núi báu hay sao? Tương lai đến kiếp nào, đời nào mình mới có thể sinh
vào nhân gian gặp lại Phật pháp, điều này không dễ có được đâu!
Sám
văn:
Đệ
tử chúng con tên… từ vô thì đến nay, chưa thể đắc đạo, vì tham cúng dường chưa
từng xả bỏ. Tham sân tật đố, tam độc hừng thịnh, tạo nhiều ác nghiệp. Thấy người
tu bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí huệ… thì tự mình
không làm, lại không tùy hỷ. Những tội như vậy, vô lượng vô biên, ngày nay sám
hối, nguyện xin trừ diệt.
Giải thích:
Chúng ta phải tùy thời tùy chỗ tuyên
dương đức hạnh người, tán thán khuyến khích việc tốt khiến nhiều người hướng
thiện. Vì nếu có nhiều người hướng thiện sẽ giúp bảo trì tốt xã hội, hơn nữa
công đức tùy hỷ tán thán ngang bằng công đức của người hành thiện.
“Thời hậu Hán có một người tên Bàng Thống,
đối với việc hành thiện phúc lành của người, luôn khuyến khích tán trợ. Người
ta hỏi ông vì sao làm thế, ông đáp:
- Trong xã hội hiện nay, người thiện ít,
người ác nhiều, muốn cải thiện phong khí bất lương của xã hội, nếu không tận sức
tán thán ca ngợi thiện hạnh, chuyện tốt của người, thì kẻ hành thiện sẽ ngày
càng ít đi! Thánh nhân cổ đại từng nói: Nguyện trời thường sinh người tốt, nguyện
người thường làm việc tốt, nguyện miệng thường nói lời lành.”
Hành vi của Bàng tiên sinh quả rất có
ích cho thế đạo dân tâm, ca ngợi người cao thượng, người làm ích lợi cho dân.
Người không mảy may vì lợi mình, chuyên làm lợi cho tha nhân, lại càng đáng tán
thán! Gặp người nhân cách thấp hèn, ích kỷ, chỉ biết hại nước và làm khổ dân,
thì nên quở trách trừng trị, chấn chỉnh lại quan niệm lệch lạc sai lầm này,
giúp họ sữa lỗi đổi mới.
Chúng ta trong quá khứ ắt đã có tu hành,
nếu không thì ngày nay đâu thể tham dự sám hối? Vậy thì vì sao đến nay chúng ta
vẫn chưa đắc đạo? Bởi do ham mê tranh giành, tham cầu không buông, không hoan hỷ
tu lục độ, tạo vô lượng tội, hôm nay phải sám hối cầu tiêu trừ.
Sám
văn:
Từ
vô thỉ đến nay, thấy người làm lành, tu công đức thì không tùy hỷ, đi đứng nằm
ngồi, không giữ oai nghi, không biết hổ thẹn, không nhớ vô thường, không biết rằng
xả thân này phải vào địa ngục.
Đối
với sắc thân người khác, khởi đủ điều ác: Làm chướng ngại người xây dựng và
cúng dường Tam bảo, cản trở người tạo tất cả công đức. Những tội như vậy vô lượng
vô biên, ngày nay sám hối, nguyện xin trừ diệt.
Giải thích:
Oai nghi rất quan trọng, cổ nhân thường
xem trọng cử chỉ oai nghi, như sáu điều không nên: Đi chẳng quay đầu, nói chớ hả
to, ngồi chớ rung đùi, đứng chớ đong đưa, vui đừng cười lớn, giận chớ hét la.
Đệ tử Phật cần có đủ oai nghi, nếu chẳng
giữ oai nghi trang nghiêm, sao có thể khiến người đời sinh tâm cung kính, muốn
thân cận Phật pháp? Có kẻ thậm chí thấy người khác anh tuấn mỹ lệ thì sinh ghét
ganh, thấy người oai nghi trang nghiêm thì tị hiềm phỉ báng, hay cản trở làm
chướng ngại người tu, đó là tội phải đọa địa ngục.
Làm
chướng người rốt cuộc là làm chướng mình. Thực ra không
nên nói lời gây chướng người kiến thiết xây dựng cúng dường Tam bảo, sẽ rất có
tội. Dù chỉ tạo ra chút chướng ngại cho người, thì mình cũng phải lãnh quả báo,
ta không hề biết làm chướng chúng sinh cuối cùng thành là gây chướng cho mình.
Điểm này tôi thể hội rất sâu sắc. Tôi từng viết bài “Không sát sinh làm sao đuổi
được muỗi trùng đi” trong cuốn “Báo Ứng Hiện Đời”[4].
Bây giờ, tôi xin kể thêm một câu chuyện giao cảm giữa tôi và loài kiến:
GIEO
CHƯỚNG GẶP CHƯỚNG
Trưa nọ tôi về nhà, vừa dắt xe qua cổng
mới tiến vào sân, thì chứng kiến một cảnh tượng khiến tôi hốt hoảng ngây người
nhìn: Một đàn kiến đen dài khoảng 5-6 mét đang nối đuôi nhau diễn hành, khí thế
rất hùng dũng. Chúng từ trên mái ngói trước hiên bò xuống, sau đó tiến về cửa
phòng ngủ tôi, men theo cửa sổ và các khe kẹt trên nền gạch mà ùn ùn tiến vào
không dứt. Nhìn thấy cảnh này: Một kẻ mới vừa phát nguyện không sát sinh chưa
bao lâu như tôi bỗng đâm ra lúng túng, không biết xử trí làm sao.
Tôi chẳng đoán được bao giờ lũ kiến sẽ
vào phòng ngủ tôi trong khi chúng cứ nối đuôi nhau đi liên tục không ngớt như vậy?
Nếu không mau mau ngăn cản chúng thiết lập doanh trại (đóng quân nơi phòng ngủ
mình), thì tôi làm sao mà sống ổn đây? Lại cũng không thể dùng thuốc diệt
chúng. Vậy phải làm sao đây? Trong tình huống cấp bách, tôi vội lao vào nhà bếp
lấy ra một lọ ớt bột: rắc dọc theo các khe, các góc nhà để ngăn chặn nhằm tạo
ra một tường thành ớt khiến bầy kiến sợ mùi mà không tiến tới. Làm xong, tôi thầm
khen mình thông minh. Nhưng thấy kiến chưa chịu chuyển hướng mà bò vòng quanh
“tường thành ớt”, nối bước nhau tiến lên, tôi lại rắc ớt ngăn cản tiếp. Nhưng cản
thế nào cũng không hữu dụng, tôi rất thất vọng. Thế là tôi quýnh quáng rắc ớt
vào các kẽ hở hòng cắt ngang hàng ngũ kiến. Lần này thành công, kiến không còn
chỗ để đi. Tôi hi vọng chúng hiểu được khó khăn trắc trở mà thoái lui, chuyển hướng.
Nhưng ngay giây phút đó, tôi bỗng tỉnh
ra và thầm lo cho bầy kiến bị tôi đổ ớt chặn lối đi phía sau. Liệu chúng có bị
ngạt chết hay chăng? Lúc này tôi đã tin nhân quả, nên vội lấy hết ớt nhét trong
khe rảnh ra. Kiến lại nối hàng ngũ, tiếp tục tiến lên. Tôi vô kế khả thi, đành
phó thác cho số mệnh.
Lúc tôi dùng cơm trưa, kiến vẫn còn
“hành quân” bên dưới phòng ngủ tôi, tôi cũng không biết làm sao, đành bỏ đi nghỉ
trưa.
Một tiếng sau, tôi ra thăm lại sân, thấy
không còn bóng dáng con kiến nào. Suốt mấy ngày sau đó, tôi luôn lo nhà mình bị
bầy kiến quấy nhiễu.
Một tháng trôi qua…
Vào buổi trưa nọ, tôi phát hiện ngoài cổng
có dán một tờ cáo thị: “Trước 6 giờ chiều
nay phải đến đóng phí ga ở ba địa chỉ… Quá hôm nay nếu không đóng thì sẽ thu
phí tính theo giá cao”.
Do nhân viên thu phí ga đến nhà nhằm lúc
vắng người, nên đã dán thông báo, thế là tôi quyết định: Nghỉ trưa xong sẽ đi
đóng tiền.
Có ba địa chỉ thu phí là:
1. Trạm A: Nằm ở phía Nam rất gần, cách
nhà tôi khoảng ba cây số.
2. Trạm B: Ở hướng Tây, là một vùng phồn
hoa, cách nhà tôi năm cây số, ở phía sau tiệm buôn.
3. Trạm C: Nằm ở hướng Bắc, tính từ tiệm
buôn đi tới khoảng hai-ba cây số nữa.
Tôi nghĩ: “Nộp phí xong thì sẽ vào tiệm
mua đồ” nên quyết định chọn trạm B. Lúc tôi đến đó, thì thấy cổng đóng, bên
ngoài dán tờ thông báo: “Hiện bên trong
đang tu sửa, xin quý khách vui lòng đến nộp phí ở trạm A hoặc C.
Không còn thời gian để mua đồ nữa rồi,
tôi tức tốc quay về trạm A để nộp phí, thầm nghĩ: “Chỗ này cũng gần nhà nên
mình đóng tiền xong thì về nghỉ luôn”. Nhưng khi tôi đến trạm A thì nhận được
thông báo: Trạm hiện không có giữ hồ sơ dùng ga của cư dân thuộc khu phố chúng
tôi và bảo tôi hãy đi đến trạm C.
Lúc này đúng là tôi “có lửa mà không biết
hướng ai nhóm”, chỉ còn một tiếng nữa là hết giờ làm việc. Vì vậy mà tôi phải hộc
tốc phóng như bay đến trạm C. Còn 5 phút nữa là tới nơi thì bỗng nghe một tiếng
“Bốp!” thật to, hóa ra bánh sau của xe đạp tôi bị bể. Tôi vừa sốt ruột lẫn bực
bội, vội tìm người sửa xe. Thật may, gần đó có một tiệm.
Khi tôi đến được trạm C thì nhân viên
thu phí đang ôm cặp táp xuống lầu, vì hiện đã tan tầm, mọi người đều ra về. May
là anh nhân viên này tốt bụng, nhìn thấy bộ dạng bơ phờ thảm hại của tôi, bèn
quay lại phòng làm việc, làm thủ tục thu phí cho tôi.
Dù tiền đã nộp xong, trong lòng tôi vẫn
còn tức óc ách, hiện hỏa giận đang bốc cao mà chưa có chỗ phát tiết! Tôi chỉ
còn biết rủa mình: “Đúng là ngu như heo, liên tiếp hai ba lần đều ra quyết định
sai!”.
Tối đó khi ngồi tĩnh tọa, tâm tôi vẫn bị
rối ren chưa giải nên khó thể nhập định. Tôi cứ hỏi thầm: “Rốt cuộc là do đâu
chứ?”.
Bỗng nhiên, hình ảnh bầy kiến một tháng
trước lại hiện ra trước mắt và lập tức tôi hoát nhiên tỉnh ngộ, thấu suốt hết
nguồn cơn: Rõ ràng là ngay lúc bầy kiến đang diễn hành tiến vào, tôi đã cố tình
rải ớt trước mặt chúng để tạo chướng ngại, ép chúng phải đi đường vòng tiến
lên, làm lỡ chuyến đi của chúng. Cuối cùng tôi cũng chiêu cảm kết quả là: Hôm
nay tôi bị lỡ chuyến đi của mình! Nhân như vậy, thì quả phải như vậy, đúng là
không sai mảy may! Hên là tôi biết hồi tâm, kịp lấy ớt trong khe rảnh ra. Nếu
không, có lẽ hôm đó tôi sẽ bị tai vạ đột ngột ập tới nhiều hơn: Chẳng hạn như
đi đường bị sụt lún hoặc gặp các kiểu ách tắc gì khác nữa chưa biết chừng. Làm
chướng ngại kiến mà còn bị quả báo như thế, huống chi là gây chướng ngại cho
người?
Trong “Kinh Địa Tạng” giảng: Chúng sanh ở
cõi Diêm Phù này, cử tâm động niệm không chi là chẳng phải tội, không gì mà
không gây nghiệp, những nghiệp tạo đời này nhiều vô kể, đếm không hết. Nếu
không y pháp tu hành, nhanh chóng sám hối lỗi đã qua, đợi đến khi tai họa ập xuống
thì do chẳng hiểu nhân quả, nên ta chỉ biết oán trời trách người, nào biết tất
cả những gì xảy đến là do nghiệp xấu của mình chiêu cảm nên. Nhân quả báo ứng
như bóng theo hình, quả báo có là do mình tự làm tự thọ, không mảy may sai lệch!
Sám
văn:
Từ
vô thỉ đến nay không tin Tam bảo là chỗ qui y, làm chướng ngại người xuất gia,
chướng ngại người tu trì giới, bố thí, nhẫn nhục, tinh tấn, tọa thiền… làm chướng
ngại người tụng, viết (in) kinh, làm chướng người ăn chay, tạo tượng, cúng dường…
chướng người khổ hạnh, hành đạo v.v… nghĩa là chút việc thiện nào của người
chúng con cũng gây chướng ngại vì không tin xuất gia là pháp giải thoát, không
tin nhẫn nhục là hạnh an lạc, không biết bình đẳng là đạo Bồ đề, không biết xa
lìa vọng tưởng là tâm xuất thế.
Vì
những tội ấy mà ngày nay sinh ra nơi nào cũng gặp chướng ngại. Tội chướng như vậy,
vô lượng vô biên, ngày nay hổ thẹn, tỏ bày sám hối, nguyện xin trừ diệt.
Giải thích:
Làm chướng người tu hành là khiến bản
thân mình tương lai cũng bị chướng, chân thành sám tội đã tạo, sau này không
tái phạm nữa, thì có thể diệt tội đọa bốn thú (địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, A
tu la).
Siêng tu lục độ, trong lòng không lìa Phật
hiệu, dùng niệm Phật ứng phó với mọi giao tiếp thế gian. Việc đến thì đón, việc
hóa thành không (buông xả). Chẳng nên tu suông ngoài miệng mà trong tâm không
tu, không có Phật. Nếu y pháp tinh tấn tu, nguyện vọng nhất định sẽ có ngày
thành tựu viên mãn; thậm chí đạt đến Phật quả. Phàm là người tin Phật, hễ niệm
Phật, lễ Phật đều sẽ được lợi ích, bất kỳ quỷ vương tà ma nào cũng không thể
phá hoại.
Trong “Phật Thuyết Lão Nữ Nhân Kinh” có
kể chuyện người mẹ kiếp trước nhân vì quá yêu con nên ngăn cản xuất gia, do vậy
mà chiêu cảm quả báo năm trăm đời bị bần cùng. Đủ thấy làm chướng người tu hành
không nhất định là ác ý gây chướng ngại, mà các loại tình chấp ái luyến thế
gian cũng là đại chướng ngại cho người tu hành. Trong Kinh Bách Dụ Phật từng
thí dụ:
“Có một quan đại thần ngu si muốn lưu giữ
vị tiên chứng đắc ngũ thông, bèn móc mắt vị tiên này đi”… nhiều người thế gian
chúng ta cũng giống như thế.
Chẳng hạn như khi nhìn thấy những người
tu hành khổ hạnh trụ tại chốn sơn lâm hoang dã, thì liền ép thỉnh họ về nhà
dâng đủ thứ cúng dường, hủy hoại thiện pháp của họ, khiến họ vô phương sở tu
thành, mất đi đạo nhãn, sở đắc pháp ích ban sơ. Khiến họ thu hoạch uổng công,
giống như quan đại thần ngu si hủy hoại mắt của tiên nhân.
Phật dùng ví dụ này hết sức có ý nghĩa
thực tế. Trong thời mạt pháp này, nhiều người chẳng biết cúng dường Tam bảo thế
nào, cứ cho rằng: Chỉ cần cung ứng nhiều tài vật hoặc giúp người xuất gia sống
thoải mái là tạo công đức, mà không hề biết rằng: Bảo vệ giữ gìn đạo tâm thanh
tịnh cho Tăng nhân mới là sự hộ trì chân chính, mới là công đức thực sự. Vì tiền
tài và cuộc sống hưởng thụ phú dung, sẽ khiến những người đạo tâm không kiên định
sinh khởi tâm tham, hoặc chỉ tu hành suông, như vậy hóa ra vô tình làm chướng họ,
điểm này chúng ta phải chú trọng.
Tài thí, Pháp thí, Vô úy thí là ba loại
bố thí, công đức bố thí pháp rất lớn, chúng ta phải thâm nhập kinh tạng, tăng
trưởng trí huệ, hiểu rõ Phật pháp rồi tùy duyên giảng giải, giúp cứu độ pháp
thân huệ mạng của người. Thí pháp cũng không nên chấp vào đó mới là công đức
chân chính, quả báo thù thắng không thể nghĩ lường. Cần phải biết, Phật muốn
chúng ta đối với Phật pháp thọ trì, đọc, tụng… vì người giảng thuyết. Việc bố
thí pháp người người đều có thể làm bởi vì chúng ta “y pháp chẳng y nhân”, nên
hàng bạch y cư sĩ vẫn có thể thuyết pháp.
Tài pháp thí: Bố thí tài tùy duyên tùy sức,
gặp người cần thì giúp. Giúp xong không để lòng, chẳng khoe khoang, không chấp
tướng thì công đức càng lớn. Vì sao? Bởi giúp người là làm lợi cho mình, nếu
cho rằng mình làm việc tốt giúp người và đi khoe khoang khắp nơi thì bản thân
mình chẳng có lợi ích chi, bố thí vô tư mới có công đức. Nếu vì muốn nổi danh
mà bố thí, thì đấy là mua danh, giống như toàn công đức có mười phần, bạn khoe
việc tốt với một người thì giảm bớt một phần công đức, khoe mười người thì xem
như hoàn không. Vì vậy tôi đề nghị người xây chùa sửa tháp không nên đem tên
mình khắc vào bia vách. Lại có cư sĩ làm tràng phan bảo chung nơi đại hùng bảo
điện, cho in tên mình trên đó, thực là cử chỉ thiếu trí: Vì ngày ngày tiếp thọ
vô số người đảnh lễ, sẽ làm tiêu hao phúc báu của mình. Bởi cầu danh là hành vi
của phàm phu thế gian, không phải của hiền thánh, xuất tiền in kinh mà lưu tên
chỉ có công đức hữu hạn, không lưu danh mới là công đức vô lượng.
CHƯƠNG
3
Sám
văn:
“Còn
phàm phu thì gọi là buộc. Đã chứng quả Thánh thì gọi là giải”.
Buộc
tức là những khởi ác của ba nghiệp. Giải tức là quả thiện giải thoát của ba
nghiệp lành.
Tất
cả Thánh nhân đều an tâm nơi đạo giải thoát, nhờ thần thông trí huệ vô lượng
pháp môn, nên Thánh nhân thấy biết hết nghiệp báo thiện ác của chúng sinh.
Các
Ngài có thể một thân hiện ra vô lượng thân, biến hiện đủ dạng hình tướng, có thể
rút ngắn một kiếp thành một ngày; có thể kéo một ngày ra làm một kiếp. Muốn kéo
dài thọ mạng thì vĩnh viễn không diệt độ; muốn thị hiện vô thường thì nhập Niết
bàn; có thần thông trí huệ, vào ra tự tại, bay đi tùy ý, ngồi nằm trên không.
Đi trên nước như ở đất bằng, không thấy nguy hiểm, lấy cứu cánh không tịch làm
chỗ nghỉ ngơi, thông đạt vạn pháp, thành tựu biện tài trí huệ vô ngại.
Giải thích:
Phàm phu bị đủ phiền não bủa vây trói cứng,
chỗ chỗ không tự tại, hằng ngày vì giành giật tham cầu tài sắc danh lợi, quên mất
trí tuệ sáng rỡ vốn có, cho nên khổ mới vô biên. Bất kể cả đời bạn tích lũy bao
nhiêu tài phúc, cho dù thê thiếp đầy nhà, con cái đông, một mai vô thường tới,
bản thân không thể mang theo gì: Lúc này thê thiếp lấy người khác, tài sản phân
cho chúng nhân, dù thần thức bạn nhìn thấy hết, cũng không thể làm gì khi âm
dương đôi ngã, có hối hận cũng muộn rồi. Thánh nhân đã giải thoát khỏi trói buộc,
được tự tại, đã tự tại thì có đủ trí tuệ thần thông biến hóa đủ dạng đủ kiểu là
đương nhiên. Giống như một người bị trói tay chân không thể tự do làm gì, nên rất
thống khổ bó buộc. Một khi được cởi trói thì cảm thấy tự tại vì muốn làm chi cũng
được: Có thể “ngồi phi cơ” lên trời, có thể “đi thuyền” qua biển. Hiện nay ta sử
dụng di động, hoặc dùng máy vi tính liên lạc toàn thế giới, biết khắp chuyện
trong thiên hạ, đây cũng giống như một dạng thần thông tự tại mà người bị trói
ké tay chân không thể nghĩ hay làm tới được. Nếu phàm phu minh bạch Phật pháp,
buông bỏ truy cầu chấp trước đối với ngũ dục lục trần, thì tự nhiên đạt được
trí huệ thần thông vốn có. Xem trong “Kinh Pháp Hoa” giảng về cảnh giới Phật,
phàm phu không thể tưởng tượng ra, nhưng lại hoàn toàn có thực.
Sám
văn:
Những
pháp lành ấy không phải từ trong nghiệp ác tham sân tật đố, ngu si tà kiến lười
biếng, kiêu mạn, tự cao tự đại mà ra. Các pháp lành ấy từ trong sự thận trọng
không làm ác, tạo nhiều hạnh lành mà sinh ra.
Chưa
thấy có người nào vâng lời Phật dạy tu các nghiệp lành mà mắc phải ác báo bần
cùng xấu xí tàn tật, bệnh hoạn, không được tự do, hay là bị kẻ khác khinh chê,
lăng nhục, nói năng không được người tin…
Giải thích:
Muốn thành tựu tất cả vô ngại, thì phải
“đoạn tất cả ác, tu tất cả thiện”, lo gột rửa tâm mình, mảy trần không nhiễm. Nếu
người y theo lời Phật dạy mà tu, một lòng đoạn ác hành thiện mà bị ác báo thì
tuyệt không có lý này.
Tôi từng nói: Có người trước khi niệm Phật
tụng kinh, thân thể hay gia đình sự nghiệp đều ổn, nhưng sau khi trì giới niệm
Phật tụng kinh rồi thì lại xảy ra chuyện: Đây chính là hậu báo chuyển thành tiền
báo, báo nặng chuyển thành nhẹ, được cảm ứng dứt nghiệp.
Bởi vì trước khi trì giới, họ đã từng
sát sinh tạo ác, làm chướng ngại người… Chỉ cần đừng thối tâm, cứ tu bền bĩ
kiên nhẫn, qua một thời gian, thì sự nghiệp gia đình… thảy đều chuyển tốt, chướng
ngại tiêu tan. Khi mắc bệnh thì có thể dùng thuốc, nhưng không nên dùng loại
thuốc có thành phần động vật trong đó. Phải
loại bỏ thành phần động vật đi, rồi tụng ba biến “Chú Đại Bi” gia trì vào
thuốc mà uống sẽ thấy có hiệu quả. Lưu ý:
Thành tâm sám hối lỗi xưa là rất cần thiết, quan trọng. Có thể nói rằng nếu
như bạn không học Phật, thì hiện giờ không xảy ra vấn đề gì, nhưng sau này sẽ
phát sinh chuyện nặng nề hơn. Hiện tại, sau khi học Phật mà bạn bị xảy ra những
chuyện không hay, thì cần phải dùng tâm “luôn nhận lỗi mình chớ bàn lỗi người để
ứng phó; bởi lỗi người tức là lỗi ta, hãy xem tất cả là Bồ-tát, mình thực sự là
phàm phu”. Nên vì những người đối nghịch với mình mà thành tâm quỳ trước Phật tụng
3, 7, 21 hoặc 49 hay 108 bộKinh Địa Tạng hồi hướng cho họ. Vì sao phải hồi hướng
cho họ? Bởi: “Muốn biết nhân kiếp trước, nhìn quả thọ đời này”, do đời quá khứ
bạn từng thiếu nợ đối phương. Vì sao phải quỳ tụng kinh? Tôi ví dụ thế này: Bạn
vì họ ngồi tụng một bộKinh Địa Tạng thì giống như cho họ hai mươi vạn Nhân dân
tệ[5],
còn nếu quỳ tụng một bộKinh Địa Tạng với tâm tư chí thành thì giống như cho họ
hai trăm vạn. Dù bạn có nhín thời gian để tụng kinh mà nếu như không có Phật đường
(chỗ thờ Phật) thì hãy tìm một chỗ yên tĩnh tụng kinh cũng được, thời gian có
nhiều thì bạn tụng một bộ, có ít thì tụng một đoạn, nghĩa là thời nào tụng kinh
cũng được hết, miễn là bạn thành tâm quỳ tụng, sẽ chiêu cảm vô lượng chúng sinh
quỷ thần đến quỳ nghe bạn tụng kinh. Lúc tụng kinh nên dốc sức điều phục mình,
đừng để tâm suy nghĩ tán loạn, nếu tâm vọng loạn khởi thì lập tức kéo về ngay,
tâm càng chí thành thì công năng hiệu quả càng lớn, âm thanh tụng kinh sẽ càng
truyền xa, nếu có thể chiêu cảm nhiều chúng sinh tìm đến nghe kinh được lợi
ích, công đức sẽ càng lớn. Giống như đồng một trường diễn giảng, hễ xuất vé cho
người đến nghe càng đông thì thu nhập càng cao. Tất nhiên người không có điều
kiện nhiều, chỉ cần cung kính thành tâm tụng kinh thì cũng gieo lợi ích rất rộng.
Phải nhớ lúc tụng kinh không được khởi
tâm ôm niệm oán hận đối phương, điều này cực kỳ quan trọng. Bởi vì cho dù đối
phương đã mất hoặc không hiện hữu ở trước mặt bạn, nhưng thần thức họ vẫn nghe
được bạn tụng kinh cho mình, vẫn nhìn và biết rõ mồn một tâm thái của bạn. Giống
như bạn trả nợ cho người là tốt, nhưng trong lúc hoàn tiền, thái độ vẫn xấu ác
hung hăng, còn rủa sả họ mấy câu nữa. Vậy bạn nghĩ xem, họ có tha thứ cho bạn
được không? Nếu như tâm chân thành, thì có thể vừa tụng kinh đã phát sinh chuyển
biến, bởi vì Phật nói “tất cả duy tâm tạo”.
Tôi xin kể một phương pháp giải trừ xung
khắc, thù hận rất thích hợp với tất cả, bao gồm những người xung đột với bạn.
Cho dù họ có qua đời, nhưng nếu bạn có thể vì họ tụng vài bộ “Kinh Địa Tạng”,
thì không những giúp hóa giải nghịch duyên từ nay về sau, mà thậm chí họ còn có
thể ứng mộng, bày tỏ niềm hoan hỉ, báo tin vui cho bạn.
Sám
hối như thái dương
Oán
hận như băng sơn
Thái
dương thường chiếu rọi
Băng
sơn phải tan chảy.
EM
DÂU BÀ VƯƠNG
Một bà Phật tử họ Vương ở Thiên Tân, có
cô em dâu hơn ba mươi tuổi bị bệnh chết đi. Trước khi mất, cô này đã trăn trối
yêu cầu chồng hai điều:
1. Xin chồng đừng tục huyền, cô không muốn
con mình có mẹ ghẻ.
2. Cô chết rồi không được thiêu, mà nên
bảo quản thi thể trong ngăn đá để cho chồng con đều có thể đến nhìn.
Chồng cô thuận miệng hứa đại. Nhưng cô
chết ba ngày thì đem thiêu. Tám tháng sau ông cưới vợ kế.
Không bao lâu, cô vợ này toàn thân bị bệnh,
mà chứng bệnh giống hệt cô vợ quá cố đã mắc phải. Sau đó cô vợ mới còn tỏ vẻ rất
sợ ánh sáng, cứ trốn vào chỗ tối. Phòng lúc nào cũng đóng suốt, ngay cả cửa sổ
cũng cho dán kín, bệnh viện chẩn đoán là bị bệnh tâm thần.
Bà Vương hỏi tôi, có phải là hồn của cô
vợ trước đang gá vào hay chăng?
Tôi nói:
- Đúng vậy, cô vợ cũ hiện đang trách chồng
(là em trai bà) không giữ lời hứa, chẳng chịu thực hiện các điều cô ta yêu cầu
và lừa dối cổ. Vì vậy mà cô ta trút giận vào cô vợ kế.
Bà Vương hỏi:
- Phải làm sao để hồn cô em dâu chịu bỏ
đi?
Tôi nói:
- Bà đã là cư sĩ giữ giới ăn chay, thì
có thể tự mình (ở nơi nhà em trai) siêu độ vong linh cho em dâu. Hãy vì cô ta tụng
ba bộ Kinh Địa Tạng, cầu cô siêu sinh thiện đạo – Trước bàn Phật bà lập linh vị
cho cô ta, thành khẩn tụng kinh ba bộ, khẩn cầu Phật lực gia trì cô vãng sinh
thiện đạo, ly khổ đắc lạc. Nếu chẳng có phương tiện gì thì trước tiên chỉ cần
quỳ tụng Kinh Địa Tạng, mỗi ngày một bộ là ổn.
Bà Vương ngay tối đó bắt đầu tụng kinh
siêu độ.
Đến ngày sáng ngày thứ tư, tôi đang tĩnh
tọa đột nhiên nhớ đến chuyện bà Vương, thầm nghĩ: “Chắc bà ta đã tụng xong ba bộ
kinh rồi”, nên cũng muốn quán sát nhìn xem: Hiện thời em dâu bà đã siêu độ hay
chưa? Ngay tức khắc tôi thấy cô em dâu bà vẫn còn gá vào thân cô vợ kế kia, hơn
nữa lộ vẻ rất tức giận. Tôi liền hỏi:
- Chị chồng cô đã tụng ba bộ Kinh Địa Tạng
để cầu siêu cho rồi, vì sao mà cô vẫn chưa đi đầu thai vào cõi thiện vậy?
Cô phẫn nộ nói:
- Mụ ấy tụng kinh cho tôi mà bụng còn lầm
bầm rủa xả thế này: “Đúng lý mi không được đầu thai, ai bảo lúc sống mi bất hiếu
với mẹ ta làm chi!”. Vì vậy mà tôi không đi, để bọn họ đừng có tưởng là mình
ngon!
Ngay sáng đó, tôi gọi điện hỏi thăm bà
Vương. Quả nhiên là đúng y như vậy. Do cô em dâu cũ lúc còn sống hay làm cho mẹ
chồng tức giận, nên bà Vương lúc tụng kinh quả thực đã không ngăn được niệm xấu
khởi lên, bà có thầm khởi niệm như vầy: “Nếu không phải vì em trai ta, thì ta
đây không thèm siêu độ cho mi đâu!”.
Tôi phê bình tri kiến quá sai lầm của bà
Vương, vì đã là đệ tử Phật, thì đối với tất cả chúng sinh phải nên từ bi hỷ xả,
có đâu lại buông chẳng nổi tâm sân hận như thế? Đây chẳng phải là trên đường tu
hành tự dựng lên chướng ngại cho mình hay sao? Bà Vương đã biết lỗi, nói là hôm
nay sẽ vì em dâu tụng kinh siêu độ lại và bà hướng em dâu ngỏ lời xin lỗi.
Ba ngày sau, việc này xem như đã giải
quyết xong, cô vợ mới hồi phục bình thường.
Đây là việc có thực. Phàm muốn siêu độ
cho ai, tất nhiên người thực hiện cần phải
dứt trừ ăn mặn, ít nhất thì trong thời gian siêu độ phải tuyệt đối ăn chay,
không được đụng đến đồ mặn. Bởi vì trong Kinh Lăng Nghiêm, Phật giảng: Người
ăn thịt không phải đệ tử Phật, cho dù họ chỉ ăn ngũ tân thì dẫu có tuyên thuyết
12 bộ kinh, thì thập phương thiên tiên do hiềm kỵ mùi hôi, thảy đều lánh xa.
Hơn nữa lúc tụng kinh tâm phải trụ vào kinh văn, không nên phóng tâm hướng ngoại,
nếu có chút phân tán, phải lập tức kéo về, bằng không sẽ chẳng đạt được tác dụng
siêu độ. Phải biết giữ tâm một chỗ, việc gì cũng có thể thành.
Sám
văn:
Đang
mang thân phàm thì có lắm nỗi mê. Ngoài phương pháp sám hối ra, chẳng có cách
nào hay hơn. Ngày nay phải cùng nhau phát tâm dũng mãnh, khởi ý sám hối.
Sức
mạnh của pháp sám hối không thể nghĩ bàn. Vua A Xà Thế phạm đại tội ngũ nghịch,
nhưng sau khi biết sinh tâm hổ thẹn ăn năn tự trách, nên tội nặng trả nhẹ.
Pháp
sám hối này khiến người tu hành được vui, an ổn. Nếu ai tự định thời khóa, dốc
tâm nỗ lực chí thành lễ bái sám hối cho đến khi hoàn toàn trong sạch mà không cảm
được mười phương chư Phật thì không có lý đó.
Quả
báo do ác nghiệp gây ra có ảnh hưởng rất đáng sợ, cần phải chịu khó sám hối.
Giải thích:
Tội do duyên sinh, cũng do duyên diệt.
“Muốn biết nhân đời trước, nhìn quả thọ đời này. Muốn biết quả đời sau, nhìn
nhân gieo hiện tại”. Hiểu rõ lýnày, thì không cần tìm cao nhân hỏi lung tung mà
tự mình cũng có thể quan sát nhìn ra nhân quả. Cần y theo lời Phật, như pháp tu
hành, không sợ khổ nhọc, chẳng sinh tâm lười, nỗ lực sám hối diệt tội, thì có
thể tự chuyển biến vận mệnh, hóa giải mọi chướng ngại bủa vây trong đời sống,
chuyển phiền não thành Bồ đề.
Tôi ví nghiệp lực như các dãy số của máy
tính di động, hễ người cần tìm thì bất kể bạn đi đâu, họ đều có thể thông qua số
máy mà dò tìm ra bạn. Nghiệp lực đeo theo bạn cũng giống như vậy. Cho nên mới
có câu: “Chớ chê thiện nhỏ mà không làm, chớ nghĩ ác nhỏ mà làm”. Bởi mỗi một
niệm thiện niệm ác, đều tạo thành nhân gieo, một khi thân tùy tâm động, nghiệp
lập tức thành hình. Hiểu nhân quả có thực không dối, đối với ác báo biết hoảng
sợ kinh hãi, tất nhiên lúc nào cũng lo nhiếp tâm không dám khởi ác niệm. Bởi vì
địa ngục không phải là chỗ để bạn du ngoạn. Đã hiểu rõ sức mạnh vi diệu của sám
hối, thì phải nhanh chóng quyết tâm sám hối tội, tranh thủ diệt hết mầm ác đang
tiềm ẩn trong tâm.
Chúng ta từ khi sinh ra trong cõi dục giới
này, vì chấp trước ái luyến mà biến thành ngu si, do ngu si nên chìm đắm trong
tình yêu nam nữ, hám danh mê lợi, sa vào đầm lầy ái kiến, do vậy mà mất đi
chánh lộ. Cũng do tham ái, bị sân, si, mạn, nghi trói buộc vì vậy trôi lăn
trong tam giới lục đạo, chìm trong biển khổ sinh tử chẳng biết hồi đầu, càng
khó biết được nghiệp duyên kiếp trước. Đời này không những tự tạo đủ ác nghiệp
làm ô nhiễm bản tâm, còn dạy người tạo ác, tàn phá tịnh mệnh.
Chẳng hạn như hướng dẫn người sát sinh
ăn thịt, các chương trình gia chánh dạy giết vật chế biến… ca ngợi giết, hoặc
giới thiệu, chỉ điểm các chỗ ăn nhậu, uống rượu, tà dâm, xúi giục vọng ngữ, trộm
cắp, nói phải thành trái v.v… đều thuộc tội phá tịnh mệnh người.
Tự phá Phạm hạnh: Phạm hạnh là pháp tu
thanh tịnh đoạn dâm dục, tu Phạm hạnh thành công sẽ sinh lên cõi trời Phạm
thiên. Mình bị ái dục sai sử chẳng thể giữ, còn muốn phá Phạm hạnh người. Việc
giới thiệu, hoặc hỗ trợ người đi hành dâm, đều là phạm đại tội.
Trong Kinh Địa Tạng giảng: Người trong
thế giới Ta bà “cử tâm động niệm không chi là chẳng phải tội”. Có những chuyện
nhìn theo phàm phu thì thấy hỗ trợ người là tốt, nhưng nhìn theo con mắt xuất
thế thì là tội! Thế gian như mộng huyễn, đều là không cứu cánh, mà pháp xuất thế
là pháp chân chánh giúp người giác ngộ.
Chẳng hạn như việc bạn giết gà mổ cá cho
cha mẹ dùng, nếu nhìn theo con mắt thế gian thì bạn là hiếu tử, nhưng nhìn theo
pháp xuất thế ắt sẽ định là: Bạn phạm tội sát sinh bao gồm cả tội giới thiệu hoặc
mời thỉnh, xúi giục người ăn nhậu hải sản v.v… vì vậy mà khi báo, đài, các
chương trình quảng cáo cho trình chiếu cảnh giết thịt làm thức ăn… đều là tạo
nghiệp trong vô hình mà không hay.
Do không hiểu Phật pháp nên ngu muội,
thành ra làm việc thiện ác lẫn lộn không biết phân biệt. Hiếu thuận đương nhiên
là tốt, tương lai bạn sẽ sinh được con hiếu thuận. Nhưng do bạn phạm lỗi sát
sinh ăn thịt, tội này nhất định kiếp sau bạn phải đem thân hoàn trả. Vậy bạn
nói xem? Chuyện này có quan trọng không? Không ai phủ nhận nết tốt: Bạn đã tiết
kiệm nhín nhút để mua thịt cá, hải sản về cho cha mẹ dùng, nhưng chính vì nghiệp
sát này mà sẽ có một con hoặc vài con vật tìm đến báo oán và sẽ đầu thai làm
con bạn, để tương lai chúng sẽ dồn bạn vào cảnh thống khổ tận cùng. Đến lúc đó,
do bạn không hiểu nên sẽ khởi tâm oán trời trách người: Vì sao một kẻ hiếu thuận
như bạn lại sinh ra nghịch tử? Mà hoàn toàn không biết đó là do bạn tự làm tự
gánh. Thế nên, đã muốn hiếu thuận cha mẹ đúng pháp trọn vẹn, thì phải học thuộc
câu Phật dạy: “Các điều ác không làm” và sáng suốt hành theo, đây mới là chánh
đạo. Bạn cần khuyên cha mẹ giữ ngũ giới, tu thập thiện, niệm Phật. Đó mới là hiếu
chân chánh.
Sám
văn:
Lại
từ vô thỉ đến nay, do thân khẩu ý tạo ra mười nghiệp ác: Thân phạm sát đạo,
dâm, miệng nói láo, nói lời thêu dệt, nói lời hai lưỡi, nói lời độc ác, ý tham
sân si. Mình tự làm mười điều ác còn dạy người làm mười điều ác, khen ngợi người
làm thập ác. Như thế trong khoảng một niệm, tâm đã khởi bốn mươi điều ác. Những
tội như vậy vô lượng vô biên, ngày nay sám hối, nguyện xin trừ diệt.
Giải thích:
Không những mình hành ác là tạo tội thâm
trọng, mà cả việc tán thán, khen, xúi người làm ác đều là tội vô biên. Có ai mà
không phạm qua? Thí như chúng ta xem phim võ thuật hay cảnh chiến tranh, nhìn
các pha đấu đá chém giết tàn nhẫn, không ít người thốt lời tấm tắc bình luận
tán dương, là đã vô tình tạo tội rồi.
Cũng thế, lúc ta xem phim tình cảm khiêu
dâm hay đọc truyện tình dục, đa số trong lòng cũng dậy sóng, động niệm theo…
chưa kể là có người còn bắt chước theo. Như khi xem phim, sách: “Đại Đạo Tặc
Giang Dương, Thần Trộm” hay phim “Điệp Viên 007” của Mỹ, sẽ gieo ảnh hưởng xấu
là: Trong đám khán giả ắt có người bắt chước hành vi đạo tặc trộm cướp, làm y
như phương thức giết người đoạt đồ trong phim.
Trong thực tế đã có nhiều chuyện xảy ra,
mà báo chí từng đăng tin là bằng chứng.
Các phim bạo lực, tình dục diễn cướp, diễn
dâm… nhằm câu đông khách, hễ càng “cháy vé” (vé bán hết sạch) thì nghiệp tạo
càng lớn. Như vậy cả ê kíp thực hiện phim đồi trụy này, tính từ nhà sáng tác, đạo
diễn, tài tử minh tinh… tương lai sẽ phải vào địa ngục khó có ngày ra. Diễn
viên mà diễn mấy cảnh này càng nhập vai sống động thì tội càng lớn.
Trong giới điện ảnh, các diễn viên giành
được giải Oscar, phần đông họ đều không hiểu tại sao gia đình mình thường bị mất
hạnh phúc, bị tan vỡ đến quái lạ? Chẳng hạn như tám vị ảnh hậu[6] đoạt
giải Oscar vừa qua thì đã có sáu vị lâm vào cảnh: Phải li hôn hoặc chia tay bạn
tình. Người tây phương hoàn toàn không hiểu được là do bởi họ từng diễn quá xuất sắc các vai bất lương: Khiêu dâm, đạo tặc…
nên gia đình họ bị mất hạnh phúc, việc này là do quả báo của nhân ác kia.
Những tác phẩm và phim ảnh bạo lực gieo ảnh
hưởng xấu tràn lan khắp nơi ta đều thấy. Như khi John Hinckley ám sát Tổng thống
Mỹ Reagan, động cơ tấn công của y xuất phát từ lòng hâm mộ cuồng nhiệt dành cho
nữ diễn viên Jodie Foster trong bộ phim Taxi Driver (năm 1976). Bộ phim kể về âm mưu ám sát một ứng viên Tổng
thống Mỹ và hắn đã mô phỏng bắt chước theo. Ngày 30/3/1981, Hinckley mang
theo súng và phục kích bên ngoài khách sạn mà Tổng thống Reagan đến dự hội nghị.
Lúc 14h25 (theo giờ Washington), khi Reagan vừa bước ra ngoài, John đã nã súng
liên tục vào ông và các cận vệ. Tổng thống Mỹ bị thương nặng do viên đạn ghim
vào ngực nên phải nhập viện phẫu thuật gấp, nhưng may mắn qua cơn nguy kịch và
thoát chết.
Vào ngày 16 tháng 5 năm 2007 xảy ra vụ
án giết người thê thảm nơi sân trường Đại học Bách khoa Virginia ở Blacksburg Mỹ
quốc do hung thủ Cho Seung Hui (người Hàn Quốc) cũng là sinh viên Đại học
Virginia, y giết 32 người và làm bị thương nhiều người, nhìn hình ảnh y cầm hai
súng ngắn chỉa ra hung hãn… đây chính là ảnh hưởng từ phim bạo lực “Old Boys”[7] của
Hàn Quốc, bởi hung thủ rất mê và sùng bái phim này.
Do vậy mà những nhà sáng tác, biên kịch
hay đạo diễn trong thế gian cần ra những bộ phim giúp người hướng thiện, làm được
vậy không những tạo công đức vô lượng, mà còn lưu phúc sâu dày đến con cháu họ.
Chỉ cần những băng đĩa này được lưu thế truyền lâu thì phúc của họ càng tăng.
Phải biết sách, truyện, phim ảnh gây ảnh hưởng rất lớn.
Bằng chứng là trong cuốn “Thọ Khang Bảo
Giám” có ghi rõ: Thi Nại Am viết ra tác phẩm Thủy Hử nổi danh lưu đời, trong
sách toàn tán dương tà ác, cổ xúy nổi loạn, phạm thượng… đối với sát, đạo, dâm,
vọng miêu tả tỉ mỉ, ngay trong thực tế ông đã chiêu lấy ác báo: Con cháu mình bị
câm đến ba đời. Bản thân ông khi tuổi già còn bị tống vào thiên lao, thọ đủ thống
khổ, bị trăm bệnh trói thân, sau bị lưu đày, sống đời túng bần và chết vì thổ
huyết.
Riêng Đại tài tử Kim Thánh Thán nhân vật
cuối đời Minh đầu đời Thanh, là kẻ văn hay thơ giỏi, nhưng thường xuyên tạc
kinh Phật. Do gieo nhân phê bình chú giải, tán tụng “Thủy Hử, Tây Sương Ký
v.v…” là những sách dạy dâm, dạy cướp, ca ngợi tạo phản… mà sau này ông lãnh quả
báo bị xử án chém đầu. Đây đều là do bất minh Phật pháp nên mới để họa khởi từ
tâm. Đáng tiếc cho một kẻ có tài, văn chương đầy bụng như Kim Thánh Thán, vì
hành sai mà tự hại mình, còn di học đến tử tôn đời sau.
Trong cuốn “Duyệt Vi Hiểu Đường Bút Ký”
từng kể về Kỷ Hiểu Phong như sau:
Mùa xuân năm Mậu Tý (1768), Kỷ Hiểu
Phong nhìn bức họa săn bắn “Phan Kỵ Xạ Miêu Đồ” của bạn liền nổi hứng đề một
bài thơ ca ngợi và bày tỏ cảm giác thật sướng khoái khi được uống máu vật trên
khoảng sân đầy tuyết.
Nào ngờ vào tháng tám năm đó, ông bị
cách chức sung quân lưu đày đến Ô Lỗ Mộc Tề phục dịch (do gieo nhân đề thơ ca
ngợi săn bắn, uống huyết tươi, làm thơ với mục đích mỹ hóa, tô đẹp việc sát
sinh), cho dù ông không đích thân giết cũng vẫn phải chiêu báo ứng, bởi chính
những câu thơ này đã cổ súy kích động bao người khởi thêm thấy biết hiếu sát
sai lầm.
Việc này nhắc nhở chúng ta: “Chớ thấy ác
nhỏ mà làm, nhân quả báo ứng chân thật không dối”. Chuyện viết sách, lập luận…
gieo ảnh hưởng đến trăm năm. Thế nên, về viết lách hay nói năng phát biểu,
chúng ta phải tuyệt đối cẩn trọng.
Trong xã hội hiện nay, đạo đức ngày càng
suy, đa số sách báo phim ảnh đều dựa vào nội dung kích dục, bạo lực, giết chóc…
để câu khách, không hề biết việc làm này chiêu quả báo vô cùng nặng, như tạp
chí tình dục X đứng đầu Mỹ quốc, người sáng lập là Flint vào năm 1978 bỗng bị
người bắn, tuy giữ được mạng, nhưng đến nay vẫn bị bại liệt.
Trong nước ta cũng có một vị viết tiểu
thuyết tình dục dâm uế, vừa mới xuất bản thì té lầu, bị gãy cột sống và bại liệt…
hôn mê suốt 25 ngày, sau đó tỉnh dậy ông tự thuật mình ở trong đường hắc ám dài
thăm thẳm không thấy bến bờ. Đây đều là do y viết sách quảng bá tư tưởng bất
lương, nên hiện đời mới lãnh hoa báo của việc viết bài xúi dâm xúi cướp. Nhưng
quả báo thực sự nơi đời sau mới là khổ hết chỗ nói.
Có một điểm cần cảnh tỉnh quý vị: Tuyệt
đối không nên giới thiệu người đến chỗ nào ăn nhậu, đừng chỉ nơi thưởng thức
gà, vịt, hải sản… hoặc chỉ điểm những nhà hàng, tiệm quán… có thức mặn trứ
danh, cũng đừng giới thiệu nơi bán rượu ngon, thuốc hút tốt, bởi vì đây đều là:
Gieo nhân dạy người tạo ác nghiệp. Chúng sinh khổ là do có bạn phụ họa hướng dẫn
lầm, giúp làm sai thêm, nên họ phải thọ đủ loại khổ báo, vì vậy bạn chắc chắn
khó tránh khỏi luật nhân quả nghiêm phạt và hậu quả còn nghiêm trọng nặng nề
hơn là đích thân bạn tự làm sai nữa.
Mọi người chắc vẫn nhớ thuốc lá thơm hiệu
Marlboro sản xuất từ năm 1950 được quảng cáo rất xôm tụ tại Mỹ quốc và được
bình là có ảnh hưởng cực lớn vì đã lôi cuốn vô số người (bao gồm thanh thiếu
niên) đổ xô vào hút? Vì có lợi nhiều nên công ty chế tạo thuốc lá này bành trướng
đồ sộ. Nhóm người quảng cáo đã giúp cho thương hiệu Marlboro trở thành thương
hiệu bán chạy nhất thế giới. Doanh số của Marlboro đã tăng từ 5 tỉ USD (năm
1955) lên tới 20 tỉ USD (năm 1957).
Nhưng bản thân những người quảng cáo thì
sao?
Năm 1976 đài truyền hình Anh quốc từng
phỏng vấn sáu vị quảng cáo nổi danh trong đó, bọn họ niên kỷ chưa già, nhưng thảy
đều bị bướu phổi, giãn phế quản và mấy năm sau thì nối nhau tạ thế.
Vì họ quảng cáo trông rất uy vũ, anh tuấn
sành điệu… khiến giới thanh niên nhìn thấy là ngưỡng mộ, rất muốn noi theo để
được sang trọng, lịch lãm giống họ và lầm cho hút thuốc là việc tốt, hợp thời đại…
Cuối cùng thì cả nhóm quảng cáo này bị quả báo tổn hại sức khỏe, vướng đủ loại
bệnh phổi nghiêm trọng. Xúi hút thuốc là hành vi hại người, vậy thì làm sao bản
thân họ có thể bảo toàn sức khỏe được?
Theo nghiên cứu khoa học hiện nay thì
thuốc lá là độc chất gây nên hàng loạt bệnh, bao gồm cả ung thư, góp phần làm
ngắn tuổi thọ con người. Do thuốc lá hại chết người, nên ai hút là đang tự giết
mình dần mòn, chưa kể những người chung quanh khi hít phải khói thuốc bị di lụy
trầm trọng vì họ nhiễm độc nặng hơn.
Thế nên, dạy người hành thập ác, tán
dương thập ác, sai lầm này rất lớn. Trong xã hội hiện nay, còn có nhiều nhân vật
nổi danh nhưng lại trắng trợn ca ngợi, tuyên bố: “Đồng tính luyến ái, tình một
đêm là hợp lý…” họ chấp nhận chuyện “đổi vợ, đổi chồng…”, còn hô hào cổ xúy,
yêu cầu được “hợp pháp hóa” các hành vi tà dâm này. Không những họ làm bại hoại
nghiêm trọng phong khí xã hội mà còn đầu độc tư tưởng, di hại đến vô lượng vô
biên chúng sinh.
Thế thì khi họ lãnh quả báo sẽ là: Ôm trụ
đồng nóng đỏ rất thê thảm, đây chính là những người đáng thương mà Phật đề cập
đến vậy.
Có những luận thuyết tùy hỉ đối với ác hạnh
rất ngu si như:
Có người cho rằng: “Đi mua vui (chơi gái
có trả tiền đàng hoàng) không phải là tà dâm”. Để cảnh tỉnh những người đến nay
vẫn còn hành thập ác, dạy người làm thập ác… tôi xin kể câu chuyện có thực như
sau:
QUẢNG
BÁ TÀ DÂM THỌ ÁC BÁO
Năm 2004, có một phụ nữ trẻ ở Thiên Tân
gọi điện cho Lưu cư sĩ, khóc lóc nài xin gặp tôi, kể là bà bị bệnh tiểu đường đến
thời kỳ cuối, thận hoàn toàn mất công năng, sinh hoạt không tự lo được, bác sĩ
nói là bà chỉ sống được khoảng 3 tháng thôi, nhưng hiện tại đã một tháng trôi
qua rồi, bà thương con chỉ mới 6-7 tuổi và nói là mình không thể chết, cầu xin
tôi cứu bà. Bà kể đã xem sách “Báo Ứng Hiện Đời” rồi, giờ xin tôi hãy giảng
nhân quả cho bà nghe.
Tôi hỏi:
- Bà tin Phật chứ?
Bà đáp: Dạ tin!
-Bà đã tin Phật, vì sao còn làm chuyện xấu?
Bà nói mình không có làm chuyện gì xấu cả!
Tôi không khách sáo, gằn mạnh:
- Nếu
bà không muốn chết, thì phải sám hối ngay những hành vi xấu thuộc về sát, đạo,
dâm, vọng! Hằng ngày bà phải kiên trì quỳ trước Phật tụng “Kinh Địa Tạng”,
sức có thể tụng bao nhiêu thì tụng bấy nhiêu, tâm phải thật chí thành thì may
ra có hy vọng sống…
Ba ngày sau tôi nhận điện thoại của bà,
kể là mình tụng kinh đã ba ngày, nhưng bệnh vẫn không chuyển tốt và bà khẩn khoản
mời tôi hãy đến nhà bà một chuyến.
Khi tôi tới nhà bà, thấy rất đông người
đang tụ tập đợi sẵn tại đó. Có một phụ nữ bị bệnh khoảng 34-35 tuổi đang ngồi
trên giường.
Tôi hỏi bệnh nhân:
- Là bà gọi điện cho tôi phải không?
Bà gật đầu.
- Con bà đâu?
Bà chỉ vào một đứa bé đang chơi trong
nhà.
Tôi nói:
- Bà xem, con bà là bé trai khôi ngô biết
bao, nhưng có phải cháu bà thường đau bụng?
Bà kinh ngạc gật đầu xác nhận, còn nói
cho nó uống thuốc gì cũng không lành.
Tôi bảo:
- Nếu bệnh bà lành thì bệnh con bà mới
lành.
Bà hỏi vì sao mình bị chứng tiểu đường?
Tôi đáp:
- Do bà sống tâm không lành, hành vi thủ
đoạn độc ác. Vật gì cũng dám giết ăn. Bà còn ăn sống cả những con vật còn nhỏ,
đúng không?
Bà gật đầu nói đúng.
Tôi bảo:
- Thế thì bao nhiêu sinh mệnh đang sống
mà bị bà làm thịt ăn, tính luôn những loài bị bà nuốt sống nữa… Hiện nay bà bị
bệnh, cảm giác sợ chết thế nào, thì số loài vật từng bị bà giết ăn đó, chúng há
chẳng biết sợ chết hay sao?
Tôi giải thích tiếp:
- Bà nói mình không làm việc gì xấu, vậy
bà có biết chăng? Những loài vật này cũng có cha mẹ, con cái… Bà đã minh bạch
chưa? Bà bị bệnh là do mình tự làm tự thọ, nghĩa là rất xứng đáng với nhân ác
đã gieo!
Có thể do tôi nói năng quá cứng cỏi,
đanh thép khiến bà khó tiếp thu, nên không trả lời.
Tôi cũng không hiểu vì sao, ngay từ lần
đầu gặp mặt đã muốn giáo huấn bà thật nghiêm, có lẽ do bà tạo ác quá nhiều.
Tôi hỏi:
- Có phải quan hệ giữa bà và mẹ chồng rất
xấu?
Bà kinh ngạc gật đầu.
Tôi lại gằn mạnh từng lời, nghiêm nghị hỏi:
- Bản thân bà không những chẳng có hiếu
với ba mẹ chồng, mà ngay cả với cả cha mẹ ruột cũng bất hiếu nốt. Có phải bà
thường hay cự cãi, đánh cả cha mẹ? Mấy năm rồi mà không về thăm song thân?
Bà khóc.
Thế là tôi giảng về ân đức thâm trọng
khó đáp đền của cha mẹ cho bà nghe, rồi nhắc nhở:
- Chỉ
một lỗi này thôi cũng đủ bị trời đất trừng phạt rồi!
Lúc này chồng bà về tới, đó là một nam
nhân tướng mạo rất tuấn tú.
Tôi mời ông ngồi và hỏi:
- Ông có muốn bệnh vợ mình được lành
chăng?
- Đương nhiên là muốn rồi!
Tôi lại hỏi:
- Hai vị làm việc liên quan đến ngành
nào?
Bà đáp:
- Chúng tôi không làm công xưởng chi, chỉ
mở tiểu điếm mưu sinh.
Tôi hỏi:
- Vậy trong tiệm buôn bán thứ gì?
- Dạ bán đủ các loại như: thuốc hút, rượu,
muối… các thứ tạp hóa linh tinh.
Tôi hỏi tiếp:
- Có bán sách chăng?
Bà đáp:
- Có bán một ít sách cho các em nhỏ.
Tôi cao giọng, nghiêm khắc nói:
- Sao không kể còn có cả sách tình dục và băng đĩa đồi trụy nữa?
Hai vợ chồng đều sững sờ, mặt đơ ra như
pho tượng, chẳng nói được gì nữa!
Tôi bảo:
- Các vị có biết hay không, mỗi một cuốn
sách tình dục hoặc một băng đĩa đen, sẽ hại biết bao gia đình và con người
không hả? Có thể sẽ có nhiều người sau khi xem sách khiêu dâm, đĩa đen này rồi,
thì họ sẽ bị ảnh hưởng, biến thành kẻ lưu manh, sống đời buông thả, tà gian, cưỡng
hiếp… thậm chí còn rơi vào đồng tính và sinh thói tật hung dữ giết người, xem
thường mạng sống đồng loại… Do vậy mà hai vị tạo tội rất lớn, có nhận ra chưa hả?
Bà bị chứng tiểu đường sắp chết đây chỉ
là lãnh báo nhẹ, còn báo nặng là: Sau khi chết rồi bà sẽ lập tức vào địa ngục
vô gián thọ khổ, trăm ngàn vạn kiếp khó thoát ra. Giờ các vị đã nhận ra những
tội ác mình phạm phải hay chưa?
Tôi quay sang bảo chồng bà:
- Ông không nên cho rằng chỉ có vợ ông bị
trả báo thôi, nếu như bà chết rồi, thì sau đó sẽ đến lượt ông! Ông là chủ gia
đình, tất phải gánh vác trách nhiệm trước tiên. Không nhất thiết là ông cũng bị
chứng tiểu đường, mà có thể là sẽ bị bệnh… tuy khó chết, nhưng không trị lành
được. Nhờ ông đời trước từng là đệ tử Phật, đã tạo nhiều việc thiện, cho nên đời
này mới có được dung mạo tuấn tú, tướng hảo như vầy. Con ông do có thiện duyên
với ông mà đến, tương lai nó rất có tiền đồ. Nhưng nếu như cứ sát sinh ăn thịt,
thì bệnh ông sẽ chẳng thể nào lành được. Bây giờ nếu hai vị không thể phát lộ,
thốt lời chân thành ăn năn sám hối thệ cải tà quy chính, thì xem như tôi đã nói
uổng công! Bây giờ muốn đời mình thế nào
là do các vị tự quyết định thôi.
Hai vợ chồng rất kinh sợ, đồng cầu xin
tôi chỉ cho họ con đường sống, tôi bảo ông chồng:
- Sau khi tôi đi rồi thì hãy mau mau đem
các sách, đĩa đồi trụy ra đốt sạch hết, nếu còn lưu giữ dù chỉ một trang thì vợ
ông ắt phải vong mạng! Toàn bộ văn hóa đồi
trụy khiêu dâm bạo lực đều phải hủy! Từ nay về sau phải ăn chay triệt để, hằng
ngày phải quỳ tụng kinh niệm Phật, sau khi bệnh lành rồi cũng không được giải
đãi. Nếu biếng lười thì sẽ gặp khổ báo. “Bốn điều thanh tịnh”[8]
trong Kinh Lăng Nghiêm là thuốc cực kỳ hay trị bệnh vợ ông, cần nên học thuộc.
Hằng ngày phải tranh thủ lúc rảnh lo học thuộc và tụng mấy biến, y theo đó mà
tu trì, lợi ích sau này hai vị sẽ thấy. Còn phải đem công đức có được hồi hướng
cho những chúng sinh mình từng giết, ăn qua và phải phóng sinh, in kinh. Đừng sợ
tốn tiền, phải chân thành sám hối, siêng làm việc lợi ích cho chúng sinh. Nếu
chịu tu sửa, làm ăn chánh đáng thì sẽ phát đạt.
Từ nay trở đi, hai người phải sám hối tội
bất hiếu với cha mẹ và thành tâm sửa đổi, phải đồng quỳ trước Phật tụng một
trăm bộ “Kinh Địa Tạng” hồi hướng cho phụ mẫu đôi bên, nếu có điều kiện thì ấn
tống kinh Đại thừa để kết thiện duyên, ắt có thể diệt trừ tội nghiệt đã tạo…
Bà ngay đó bày tỏ nỗi niềm ăn năn hối cải
thống thiết, còn ông chồng lật đật đi thiêu hủy hết sách, đĩa đồi trụy. Họ phát
nguyện từ nay đoạn sát ăn chay, trì giới, niệm Phật. Thành tâm sám hối tội lỗi,
xin dùng công đức tu sửa niệm Phật này hồi hướng cho chúng sinh.
Trưa đó, chúng tôi dùng cơm nơi nhà Lưu
cư sĩ, buổi chiều lúc đến gặp bà nọ, mọi người hoan hỷ khi thấy khí sắc và trạng
thái tinh thần bà hoàn toàn thay đổi giống như một người khang kiện, ai cũng vỗ
tay khen.
Một tuần sau, bà đi bệnh viện kiểm tra,
bác sĩ kinh ngạc bảo:
- Thận bà đã hồi phục công năng.
Một năm sau, tôi có trò chuyện với bà
qua điện thoại, bà nói hiện nay mình sống rất tốt, hơn nữa gặp ai cũng luôn
tuyên dương ca ngợi: chính Phật pháp đã
cứu bà.
Hy vọng câu chuyện này sẽ giúp nhiều người
tỉnh giác cải tà quy chính. Nguyện đem công đức này hồi hướng cho gia đình bà
được khang kiện, hạnh phúc, tu hành tinh tấn.
Mọi người xem, chỉ là một tiệm nhỏ buôn
bán dâm thư đĩa đen, tuy họ chỉ là một mắt xích trong đường dây tuyên truyền,
quảng bá văn hóa đồi trụy, nhưng cũng chiêu lấy quả báo mắc chứng bệnh hiểm
nghèo, suýt chết.
Từ bằng chứng này mà suy, thì có thể
đoán biết được hậu quả của các tác giả, đạo diễn… chuyên đầu tư biên soạn các
loại phim sách bạo lực, gợi dục, khiêu dâm… nhằm tuyên truyền quảng bá văn hóa
đồi trụy. Lại có những người xưng mình là Nhà nghiên cứu, Đại học giả, thành phần
trí thức… nhưng mồm luôn tuyên bố: “Chơi gái là vô tội, đồng tính luyến ái có
thể chấp nhận được, loạn luân là hữu lý…” và việc truyền bá các phim ảnh khiêu
dâm, đồ chơi tình dục, đĩa sex… là không có lỗi. Vậy thì kết cục của họ sẽ như
thế nào đây?
Đây chính là lý do vì sao sám văn khuyên
chúng ta “tuyệt chẳng nên hành ác, dạy người hành ác, hoặc khen ngợi thập ác…”
Tôi chỉ kể câu chuyện liên quan đến phạm
tà dâm, là một lỗi trong thập ác, nhưng từ đây quý vị hãy dùng trí mà suy ra,
thì sẽ biết phạm những ác hạnh khác cũng sẽ gánh quả báo tương đương như vậy.
Sám
văn:
Từ
vô thỉ đến nay, do thân, khẩu, ý gây ra nhiều nỗi bất bình, chỉ biết có thân
mình, không biết có thân người, chỉ quan tâm mình khổ, không biết đến người khổ,
chỉ biết mình cầu an vui, không biết có người cầu an vui, chỉ biết có mình cầu
giải thoát, không biết có người cầu giải thoát. Chỉ biết có gia đình quyến thuộc
mình, không biết đến gia đình quyến thuộc người, chỉ biết thân mình hơi ngứa,
hơi đau một chút là không chịu nổi, thế mà khi làm cho thân người khác đau thì
lại sợ họ không đau, ít đau, hoặc đau không thấm thía. Chỉ biết sợ khổ một chút
nơi đời hiện tại mà không biết sợ khổ vô lượng kiếp nơi đời vị lai. Bởi vì làm
ác thì chết rồi phải đọa địa ngục, dù chịu đủ thống khổ, thậm chí cũng không biết
sợ vô lượng khổ trong kiếp ngạ quỷ, súc sinh, A tu la.
Cõi
người và cõi trời cũng có vô lượng thống khổ mà không tự biết, chỉ vì tâm không
bình đẳng, có phân kia đây, giữ niệm oán thân, làm cho oán thù tràn khắp lục đạo.
Những tội như vậy vô lượng vô biên, ngày nay sám hối, nguyện xin trừ diệt.
Giải thích:
Do chúng ta không thể xem người như mình
nên tạo ra vô lượng vô biên tội.
Tôi lần đầu lễ sám, đọc đến đoạn văn
này, thì dù ráng kềm vẫn vừa tụng vừa bật khóc. Tới lúc lễ Phật vẫn chưa ngưng
được. Lúc đó cảm thấy lời của sám văn như đang ám chỉ mình, tâm tư giống như
đang ở trong bóng tối ngàn năm bỗng dưng được soi sáng. Tôi thầm nghĩ: “Vì sao
từ xưa đến giờ chưa từng nghĩ qua? Người cũng có nhà, có quyến thuộc, cũng cầu
an lạc…” Những lúc tôi phát cáu nổi nóng sao chẳng biết nghĩ đến những cảm thọ
của người? Từng việc lần lượt hiện ra trước mắt, tôi mới nhận ra mình thực quá
ác, xưa nay chỉ biết hành theo sở thích của tâm mình, chưa từng nghĩ đến nhu cầu
và cảm thọ của người. Khi nhận ra tâm tính mình quá hèn hạ ti tiện đáng hổ thẹn,
tôi rơi nước mắt, xót xa và cảm thông đối với người, khi lương tâm thức tỉnh,
tôi nhận ra mình ngu si đáng giận, tận thâm tâm phát sinh niềm sám hối ăn năn
vì trước đây mình không cam thọ chút oan khuất nào, còn làm thương hại người mà
không hay, thầm ân hận tôi được biết Phật pháp quá muộn!
Chúng sinh luân hồi trong lục đạo không
ngừng, từng vào thai lừa bụng ngựa, lên thiên đường, xuống địa ngục… và trong
các cõi này cũng có thâm tình, nghịch duyên tụ hội, hoặc trong số gà, vịt, dê,
bò… mà bạn ra tay giết ăn đó, cũng có cha mẹ quyến thuộc của mình đời này hoặc
kiếp trước, chỉ là do thay đầu đổi mặt nên không nhận ra nhau thôi. Vì không biết,
không nhận ra nên cứ giết nhau, ăn nhau rồi lại sản sinh oán hận, nghịch duyên
mới tiếp tục, cho nên oán kết vì vậy mà chất chồng trong lục đạo, vô lượng vô
biên, vĩnh viễn không dứt.
Sám
văn:
Do
tâm, tưởng thấy thấy biết điên đảo, nên thường xa bạn lành, gần gũi bạn ác,
trái nghịch bát chánh, tu theo bát tà, phi pháp nói chánh pháp, chánh pháp nói
tà pháp, bất thiện nói thiện, thiện nói bất thiện, dựng cờ kiêu mạn, giương buồm
ngu si, theo dòng vô minh vào biển sinh tử. Những tội như vậy vô lượng vô biên
ngày nay sám hối nguyện xin trừ diệt.
Giải thích:
Phật nói thời mạt pháp chúng sinh điên đảo,
hiện nay nhiều người tôn mình là Phật, loạn giảng kinh Phật, thấy in tuồng đúng
mà thực sự là sai! Do bản thân họ không
giữ giới Phật, còn dạy người không cần giữ giới, khiến kẻ kém hiểu biết bị
lầm lạc.
Đọc đoạn văn sám này xong, cần phải kiểm
điểm lại mình, xem có giống như văn mô tả không. Nếu có, thì lập tức sửa mọi
ngôn hạnh điên đảo thành đàng hoàng lại. Nếu có lòng cải tà quy chính, chỉ cần
thành tâm sám hối nhất định tội sẽ tiêu tan.
Trong nhiều kinh điển Phật từng tả về
các hiện tượng thời mạt pháp. Trong kinh Đại Bảo Tích thuyết: Do chúng sinh thời
mạt pháp quen tiếp thu tà kiến, nên các tu sĩ dù không tu đúng pháp vẫn có thế
lực lớn. Ở đời sau này, có vô lượng chúng sinh nhiễm tà kiến, nên khi các Tỳ
kheo tung luận thuyết tà ra, lại được tin nhiều. Các tà sư này còn có thế lực lớn,
được chúng sinh đương thời kính trọng, thỉnh hỏi nghĩa kinh và hết lòng cúng dường
tán thán vị tuyên truyền pháp sai này. Trong “Phật Tạng Kinh” nói: Tà sư bất tịnh[9] vẫn
thuyết pháp hướng dẫn vô lượng chúng sinh, truyền tà kiến cho kẻ ngu muội, họ truyền dạy quan niệm thấy biết nghĩ tưởng
sai lệch của mình cho người, rồi tuyên bố đó là Phật pháp, là Thánh đạo.
Khiến những người ngu muội tin theo sinh tâm phỉ báng chư Phật qua khứ, hiện tại,
vị lai. Kẻ truyền tà pháp này là ác tri thức không phải thiện tri thức!
Xá Lợi Phất, kẻ thù chỉ đoạt mạng, làm mất
một thân này, nhưng những kẻ si tà bất tịnh thuyết pháp, lại gieo hại cho nhiều
chúng sinh đến ngàn vạn ức kiếp, nên họ chính là ác tri thức của chúng sinh, do
nói lời vọng ngữ xằng bậy hủy báng chư Phật, Bồ-tát… nên hậu quả sẽ bị vào địa
ngục.
Cho dù tà sư trong thế giới có rất nhiều,
nhưng vào năm 1994 ngài Tuyên Hóa từng nói: Phật pháp trong tương lai sẽ hưng
thịnh lại, đông đảo tín chúng sẽ dần dần biết giới là quan trọng và tôn giới làm thầy, viễn ly tà giáo, quy hướng
chính đạo.
Sám
văn:
Lại
từ vô thỉ đến nay do tham, sân, si khởi ra điên đảo tạo năm tội nghịch, làm đủ
thập ác, chiêu quả báo đau khổ không thể kể xiết. Những tội như vậy vô lượng vô
biên ngày nay sám hối nguyện xin trừ diệt.
Giải thích:
Do ngu si chúng ta tạo đủ tội mà không
hay như: làm chướng người tu, thấy người trì giới, ăn chay, đoạn rượu, dứt thuốc
hút, thì phê bình, chê họ là “tu thấp!” và còn khuyên họ nên thuận theo tự
nhiên “cứ ăn mặn, cứ hưởng thụ”… mới là tu cao v.v… Còn nữa, bản thân mình
không trì giới, chẳng biết “nhân giới sinh định, nhân định phát huệ”. Bởi không
trì giới, nên các công đức tu khác đều không thể viên mãn. Như trong “Kinh Lăng
Nghiêm” giảng: “Người ăn ngũ tân dù có thể tuyên thuyết 12 bộ kinh, song mười
phương thiên tiên do sợ mùi hôi, nên đều lánh xa”.
Do ăn hành, tỏi, hẹ v.v… (các thứ ngũ
tân) khiến miệng hôi, không có chúng sinh đến nghe kinh nên không thọ ích,
không có công đức. Vì sao họ không thể đến nghe bạn tụng kinh, bởi trên mình bạn
phát ra mùi hôi thối họ không chịu nổi.
Chúng
sinh đều có Phật tính
Người
người vốn đủ thần thông
Do
danh lợi làm mờ trí
Tâm
bị vô minh ngăn che
Y
Phật thuyết pháp tu hành
Trí
huệ tự nhiên hồi phục
Giống
như mặt trời vừa lên
Si
ám tự nhiên tan hết.
Nếu không trì giới, dù tu định huệ cũng
chẳng phải cứu cánh, cho dù bạn tĩnh tọa chế tâm một chỗ, đạt được Quỷ thông,
nhưng đó chỉ là quả của nhân duyên đời trước mà thôi.
Nếu bạn còn tham đắm tài, sắc, danh, lợi…
thì những sư phụ pháp lữ đời trước của bạn và chư hộ pháp quỷ thần cũng không đến
giúp bạn. Bởi vì họ hiểu nhân quả: Nếu bạn bội lìa chính đạo mà họ lại giúp bạn
thì khác nào tự hủy hoại đạo nghiệp của chính họ, một chút thần thông cũng
không luôn!
Có thần thông thì cần phải dùng đức dưỡng
đạo, xu hướng thuần thiện mới có thể tương trợ giúp người. Thần thông trí tuệ
nhờ trì giới tu hành mà phát, nên khi hóa độ người hễ dựng sào là thấy bóng,
thu kết quả mau. Trong “Đại Thừa Du Già Bồ-tát Giới” có quy định rõ: Nếu chư Bồ-tát
an trụ tịnh giới, luật nghi, thành tựu đủ các thần thông biến hóa, nơi cần khủng
bố thì khủng bố, chỗ cần nhiếp hộ thì nhiếp hộ.
Nếu mình không có thần thông, lại ganh
ghét phỉ báng người có thần thông, lên án nói họ là “ma gá nhập”, tức tạo tội
làm chướng người tu. Thế nhưng nếu sở hữu
thần thông thì tuyệt chẳng được dùng nó để biểu diễn mong gạt tài, lừa sắc và
khoe khoang với người. Nếu làm vậy sẽ lạc vào cõi thấp đáng thương. Ngay
đây ta có thể hiểu rõ vào khoảng thập niên 80, tại Trung Quốc xuất hiện những đại
sư Khí công thu tiền, thì biết đó là không ổn. Người tu hành tâm địa thanh tịnh
thì trí huệ thần thông tự nhiên hiện. Nhưng tu hành tuyệt đối không được truy cầu thần thông, vì thần thông cần
có chánh tri kiến hướng dẫn mới tạo hữu ích, không gây hại.
Do tham, sân, si, lục thức, mắt, tai,
mũi, lưỡi, thân, ý tiếp nạp sáu trần là sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp mà tạo
tội ngũ nghịch thập ác… Lại vì ngu si tin thọ tà sư, không giữ giới Phật, uống
rượu ăn thịt, các thứ hành, tỏi… không cho người thâm nhập tín nguyện hạnh, còn
làm hại tới an ninh đoàn kết quốc gia.
Lại có các tà giáo phản đối Phật giáo, làm
loạn mọi người, rủ rê nhiều người mê muội chạy theo. Những tà giáo này không những
bị quốc gia cấm chỉ, nhân dân phỉ nhổ, mà người truyền bá điều tà, chết rồi sẽ
bị đọa A tỳ địa ngục, xin xem trong “Kinh Lăng Nghiêm” có 50 loại ấm ma và nơi
mục “Tứ trọng thanh tịnh minh hối” sẽ rõ: Từ mấy ngàn năm trước Phật từng thuyết
giảng qua. Cho nên phải thâm nhập kinh tạng mới khai phát trí huệ. Đã không trì
giới mà còn tự cho mình hay, cho rằng mình có quyền chế đổi giới luật, mặc tình
sửa kinh điển Phật thuyết… Làm vậy là phạm tội cực nặng, người theo tà thuyết
là tự đi trên đường lao xuống vực, phải mau hồi đầu.
Nếu người tu hành không đúng pháp, sẽ gặp
vô lượng phiền não làm chướng ngại đường tu của mình. Lời Phật dạy chữ chữ đều là chân lý, bất kể có trải qua ngàn vạn năm, đều
không thể cải sửa nửa từ. Nếu cứ nhấn mạnh: Do thời đại bất đồng nên phải sửa đổi
giới Luật Phật chế. Thì kiểu lập luận này khác nào phỉ báng: “Phật dạy lỗi thời”,
đây tức là ma thuyết, tuyệt đối không nên nhẹ dạ tin theo.
Lại có nhiều người không minh lý, tung lắm
thuyết hồ đồ. Chẳng hạn như nói: Tầng trên nhà mình có người ở thì không được
thờ Phật. Phải hiểu là: Cho dù bạn ngụ tại từng chót bẹt của chung cư (phía
trên có ngàn tầng) thì cũng phải thờ Phật! Bởi vì ở phía trên các tầng cao nhất
vẫn có quỷ thần qua lại, và tít trên nữa… còn có trụ xứ của chư thiên.
Lại có người bảo: Buổi tối không nên tụng
Kinh Địa Tạng, vì hễ vừa tụng là quỷ thần đến, thỉnh tới dễ nhưng tiễn đi khó.
Còn có thuyết khẳng định: Chú Lăng Nghiêm chỉ nên tụng vào 3-5 giờ, nếu không sẽ
chẳng tốt. Rồi còn nói: Tụng kinh mà niệm sai một từ sẽ xuống địa ngục, v.v… quả
thực là có vô số những tà lý, tà thuyết do người hồ đồ nói xằng tụng bậy để
gieo sợ hãi chướng ngại cho người tụng kinh niệm chú. Quý vị sơ cơ đừng để bị lầm
lạc bởi những thuyết nhảm nhí này, đối với những tà thuyết trái bội Phật pháp
như thế cần nên chỉnh lý và tự mình phải sáng trí khéo phân biệt.
Ngài Tuyên Hóa từng nói: Kinh chú tụng
thời gian nào cũng được cả, hơn nữa khi người giữ ngũ giới tụng kinh, luôn có
nhiều chúng sinh đến quỳ nghe. Nếu như nói: Tụng kinh đọc sai một từ xuống địa
ngục, vậy thì còn ai dám tụng kinh tin Phật pháp nữa? Chẳng lẽ Phật giảng kinh
thuyết pháp là để giăng thòng lọng làm hại người sao?
Tôi học Phật đã hai mươi năm, đều tranh
thủ lúc rảnh mà tụng kinh niệm chú, hơn nữa tôi tụng Kinh Địa Tạng mục đích là
tụng cho quỷ thần nghe, hy vọng họ đến nghe càng nhiều càng tốt, vì bọn họ nhờ
nghe kinh minh lý, sẽ thu được lợi ích. Nương Phật lực gia trì nên nghe kinh rồi
thì họ được lìa khổ được vui đầu thai cõi thiện, vì vậy họ tri ân không hết,
sao có thể làm hại chúng ta chứ?
Còn có Vi đà Bồ-tát, Thiên long bát bộ
cùng Hộ pháp thần vương, chư quỷ thần thảy đều đang bảo vệ người tụng kinh trì
chú. Phàm là oan gia trái chủ, có muốn đến tầm cừu báo oán hay thiên ma ba tuần
muốn tìm tới gia hại, đều chẳng thể lại gần. Nếu dốc sức thành tâm tụng kinh
cho chúng sinh nghe rồi, trừ việc chuyên vì cá nhân nào đó mà tụng kinh ra, thì
công đức tụng kinh xin hồi hướng cho chúng sinh khắp pháp giới. Lâu dần, túc
oán sẽ hóa giải, bệnh dữ sẽ được lành, sự nghiệp dần thuận lợi.
Tu hành quý ở chỗ trì chí bền tâm, không
nên nôn nóng muốn mau đạt hiệu quả. Chẳng hạn như tụng kinh mới nửa quyển hay
vài ngày thì đã nôn nóng, mong có cảm ứng liền, đây là tính tham lam ích kỷ,
nên loại trừ.
Sám
văn:
Lại
từ vô thỉ đến nay, không hay tu bố thí, trì giới, nhẫn nhục, từ bi, hỷ xả…
không tu hết thảy pháp trợ Bồ đề.
Vì
thế nên không có trí huệ, làm chướng Bồ đề tâm, Bồ đề nguyện, Bồ đề hạnh, ngày
nay sám hối, nguyện xin trừ diệt.
Giải thích:
Bố thí có ba loại: Tài thí, pháp thí, vô
úy thí. Dùng tâm thành từ bi giúp người, cho dù bố thí rất nhỏ cũng có phúc báo
lớn.
Vào năm 1990, ở Thiên Tân có một thanh
niên trúng số đến mấy vạn, làm chấn động vùng này một thời. Đài truyền hình còn
làm một màn phỏng vấn đặc biệt.
Té ra mấy năm trước, anh từng gặp một cô
bé ăn xin gầy ốm giơ xương, y phục lam lũ, động lòng xót thương nên đã vét hết
số tiền hai đồng hiện có trên mình cho cô bé. Chính nhờ hai đồng bố thí này mà
anh chiêu cảm phúc báu trúng số lớn hiện tại. Điều này chứng minh: Giúp người
thực tế là giúp mình, nhân nhỏ mà quả to như thế này Phật cũng đã từng kể cho
chúng ta nghe.
Qua câu chuyện này chúng ta phải hiểu: Những người chuyên mưu sinh bằng cách cướp
giật tiền của người, tức là đã gieo nhân nghèo thiếu bần cùng vĩnh viễn, nếu
họ trả báo nhẹ thì cũng tùy theo mức độ phạm tội nặng nhẹ mà bị sinh làm tôi tớ
hoặc súc sinh để trả nợ.
Kẻ được giàu sang là do gieo nhân bố
thí. Nhưng công đức bố thí không phải là độc quyền của người giàu, công đức không quyết định nơi tiền của nhiều
ít, mà ở chỗ phát tâm, cho nên chiếu theo điều trên, kẻ nghèo hèn vẫn có thể
bố thí tu phúc. Trong “Chúng Kinh Soạn Tạp Thí Dụ” kể rằng: Kẻ nghèo thiết mà
tiết kiệm nhín nhút bố thí, phúc báu về sau thu được vô lượng vô biên.
Thí như thời quá khứ có một quốc vương
thiết tiệc cúng dường Phật và chúng tăng. Lúc đó có một bà lão nghèo tùy hỷ
đóng góp vào ít lạng đậu. Phật nói bà già nghèo này thu được phúc nhiều hơn quốc
vương, bởi vì bà dốc hết toàn lực.
Năm 2007, tạp chí “Độc Giả” số 15 đã
đăng một bài: “Làm từ thiện không phải
nơi tiền mà là nơi tâm” và tường thuật rõ câu chuyện có thực như sau:
Ngày 16/2/2007, vị Tổng thư ký Liên Hiệp
Quốc, vì muốn giúp trẻ em Phi châu bần khốn, nên tổ chức dạ tiệc từ thiện tại
trang viên. Khách được mời tham gia toàn là những phú thương nổi tiếng. Có một
bà nọ không được mời, lại dẫn theo một bé gái xin vào tham dự đóng góp. Nhưng
khi họ vừa đến cổng thì bị nhân viên bảo vệ ngăn lại. Thế là bé gái tên Lucy liền
đưa số tiền của em cho bảo vệ, nhờ anh chuyển giao giùm và nói: “Làm từ thiện không phải nơi tiền mà là nơi
tâm!”.
Thế thì việc làm xuất phát từ trái tim
thuần khiết như vậy, có xứng đáng được mời vào tham gia dạ yến từ thiện của đám
cự phú giàu sang chăng? Ông Ba Fei Special nghe được, lập tức mời bà nọ cùng bé
gái vào tham dự.
Kết quả, nhân vật chính của tiệc từ thiện
đêm đó không phải là ngài tổ chức, cũng không phải là ngài Ba Fei Special đã
đóng góp ba triệu USD, cũng không phải ngài Light Child đã bỏ ra tám triệu USD,
mà chính là em bé Lucy (ho dù em chỉ đóng góp vỏn vẹn có 30,25 USD, nhưng em đã
vinh dự nhận được tràng pháo tay vang dội làm chấn động cả hội trường. Và câu
nói chủ chốt của đêm yến tiệc đó cũng chính là câu tuyên bố bất hủ: “Làm từ thiện không phải nơi tiền mà là nơi
tâm!”.
Hôm sau, giới truyền thông Mỹ quốc xôn
xao, đồng lấy câu tuyên bố này làm tựa chính và cho đăng tải tường thuật toàn bộ
câu chuyện đã xảy ra nơi buổi dạ tiệc từ thiện. Sau khi xem báo xong, nhiều người
dân cũng xôn xao xin đóng góp cho trẻ em nghèo Phi châu.
Xem qua câu chuyện này rồi, là đệ tử Phật,
chúng ta có thể khẳng định: Giống như bà lão nghèo trong kinh Phật, tại buổi dạ
tiệc từ thiện đó, bé Lucy đã đóng góp toàn bộ số tiền danh dụm của em, nên ngay
đêm đó đã thu hoạch phúc báu vô lượng vô biên, vượt qua các nhà cự phú nổi tiếng
từng hiến tặng hàng triệu đô la kếch xù.
Sám
văn:
Lại
từ vô thỉ kiếp đến nay vì tạo tội nên cứ xoay vần trong ba cõi, trải khắp sáu
đường, thọ thân bốn loài, làm nam hoặc nữ, hoặc phi nam phi nữ, ở khắp mọi nơi
tạo vô lượng tội. Hoặc làm chúng sinh thân hình to lớn ăn nuốt lẫn nhau; hoặc
làm chúng sinh thân bé nhỏ ăn nuốt lẫn nhau. Những tội sát hại như vậy vô lượng
vô biên làm chướng Bồ đề tâm, chướng Bồ đề nguyện, chướng Bồ đề hạnh. Ngày nay
sám hối nguyện xin trừ diệt.
Giải thích:
Phàm phu chúng ta luân chuyển trong lục
đạo tam giới, tạo tội sát sinh vô lượng vô biên, chiêu vô vàn quả khổ. Những điều
này làm chướng Bồ đề tâm, Bồ đề nguyện, Bồ đề hạnh của mình, cần phải sám hối.
BỐN
ANH EM
Một gia đình nọ có bốn huynh đệ, người
anh cả trước 40 tuổi chuyên sát sinh ăn thịt, tính trong thập ác nặng nhẹ gì
cũng đều phạm, không có ác nào mà chẳng làm. Đến 40 tuổi nhờ đọc Lục Tổ Đàn
Kinh mà phát tâm tu hành, tính đến nay đã 20 năm. Tuy trải qua đủ mài giũa gian
lao, nhưng anh trọn chẳng thối tâm. Anh kể cho các bạn đồng tu nghe: Mình đã nhớ
ra nhiều đời trước từng là đệ tử Phật, do dâm tâm chưa đoạn nên bị đọa làm rồng.
Đến đời này được gặp lại Phật pháp, nhờ Bồ-tát Quan Thế Âm từ bi cứu độ mà biết
đường “về nhà”. Nếu không nhờ tu học theo Phật pháp thì chắc chắn mãn đời này
anh sẽ vào bụng bò, dê do anh ăn thịt bò, dê quá nhiều, nên biết mình chết rồi ắt
sẽ làm bò, dê, e là phải nếm cảnh bị lột da xẻ thịt mấy trăm lần, rồi tiếp theo
phải làm heo để trả nợ, kế đó là làm cá, tôm, kiến, trùng, muỗi v.v… nghĩa là
phải làm súc sinh vô số kiếp để trả nợ sát sinh, như vậy thì biết đến bao giờ mới
được mang thân người lại? Có tính cũng không xuể. Nhờ tu mà anh mở sáng túc mệnh,
nhìn thấu các đời.
Anh kể về chú hai (em mình) lúc 30 tuổi
bị chết vì bướu não. Anh nhìn ra chú hai vốn là từ trong loài heo tới, giờ lại
đầu thai làm heo nữa chính là con heo trắng đầu to trong nhà. Biết rõ điều này
rồi, vì thương em nên anh thiết lập bàn hương án, chí thành lễ Phật quỳ tụng
108 biến Chú Đại Bi cầu cho em, sau đó anh theo dõi thì thấy con heo đầu to bỗng
lăn ra chết bất ngờ và được sinh lên cõi trời, anh nhìn thấy rõ cảnh chú em hiện
giờ đang quét vườn hoa. Anh nói thầm: “Được ở trên trời thì dù có quét hoa viên
cũng còn sướng hơn là bị đọa trong cõi ác (địa ngục, súc sinh, ngạ quỷ) anh hy
vọng nhị đệ dưới lực gia trì của Chú Đại Bi, tương lai sẽ về nhân gian tu hành,
học Phật, xuất ly tam giới, viên thành Phật quả…”
Phần chú ba và chú tư, ngay từ lúc bé đã
không ưa chơi đùa cùng nhau, lớn lên thường hay vì chút chuyện nhỏ mà đánh
nhau, nên nhiều lần bị cha mẹ trách mắng. Sau khi họ thành gia rồi lại vì nhà đất
mà tranh giành, gây hấn nhau suốt mấy mươi năm. Anh cả dùng đủ cách giáo hóa mà
chú tư tuy có tin Phật nhưng nếu buộc phải bỏ tranh chấp thì khó hơn lên trời!
Anh cả kể: Hai chú em này kiếp trước là hai con rồng xanh, kiếp đó họ cũng
không hòa thuận, một bề gây đánh nhau cho đến khi đầu thai vào nhân gian kiếp
này nếu họ không hóa giải oán hận, thì chắc chắn do những ác nghiệp đã tạo, họ
sẽ xuống địa ngục. Rồi từ địa ngục lên sẽ đọa vào súc sinh, tiếp tục tranh đấu
dai dẳng không dứt. Anh cả tâm sự: Mình đã khuyên giải họ hơn hai mươi năm nay
mà vô hiệu, đây là bởi nhiều đời họ tạo nghiệp ác sâu nặng, đối với Phật pháp
không có lòng kính tin.
Gia đình tụ hội cùng nhau, là do thiện
duyên hay ác duyên, vô duyên thì không tụ. Hoặc vì đòi nợ hay trả nợ mà tìm đến,
không nợ thì chẳng tới.
Sau này anh cả đã vì cha mẹ và hai em tụng
108 bộ Kinh Địa Tạng. Hai tháng sau, mẫu thân bắt đầu thay đổi trước tiên. Tiếp
theo là chú ba, chú tư quyết định buông bỏ oán thù xưa, không còn tranh giành ầm
náo với nhau nữa.
Cho dù đây chỉ là bắt đầu, nhưng mối oán
kết suốt hơn ba mươi năm được chuyển hóa trong một ngày, đây không thể không ca
ngợi oai thần công đức của Kinh Địa Tạng.
Tôi kể câu chuyện có thực này ra, là
mong các đệ tử Phật sớm buông bỏ hết mọi ân oán cá nhân, đừng do dự nữa. Vì một
khi vô thường tới, những ân oán chưa kết thúc này sẽ biến thành chướng ngại mạnh
mẽ ngăn cản bạn ra khỏi tam giới.
Có câu rằng: Chịu thiệt thòi chính là
chiếm ưu thế! Buông xả chính là được tất cả. Xả: Có nghĩa là quên triệt để tất
cả yêu, hận… trong dĩ vãng, đắc quả liễu sinh thoát tử, lìa khổ được vui.
Bất kể bạn sinh ra là nữ hay nam, bạn
đâu biết lúc nào mình chết? Cho dù có sống đến trăm năm, bạn cũng không rõ cách
chết của mình ra sao: Là bệnh hoạn hành chết hay bị hoạnh tử? Hoặc chết lành?
Đã có sinh thì phải có tử!
Bất kể cả đời bạn sống trong nghèo túng
hay vinh hoa phú quý, thì cuối đời rồi ai cũng phải lìa đời tay không, ra đi
trong tiếng khóc vĩnh biệt của thân quyến. Giống như bài “Hảo liễu ca” đã viết:
Người
đời đều cho thần tiên hay,
Mà
chuyện công danh lại vẫn say!
Xưa
nay tướng soái nơi nào đây,
Một
dãy mồ hoang cỏ mọc đầy!
Người
đời đều cho thần tiên hay.
Những
hám vàng bạc lòng không khuây!
Suốt
ngày những mong chứa cho đầy,
Đến
lúc dầy rồi nhắm mắt ngay!
Người
đời đều cho thần tiên hay!
Nhưng
thích vợ đẹp lòng không khuây!
Lúc
sống ái ân kể suốt ngày,
Lúc
chết liền bỏ theo người ngay!
Người
đời đều cho thần tiên hay!
Muốn
đông con cháu lòng không khuây!
Xưa
nay cha mẹ thực khờ thay,
Con
hiền cháu thảo ai thấy đây?
Đây là bài ca mà đạo nhân hay ngâm nga.
Giải thích rất rõ: Vạn sự trên đời, liễu (ngộ) là tốt nhất, nếu muốn tốt, thì
tu cho liễu. Chữ liễu trong đây chính là khai ngộ: Buông tất cả thế gian, tu đạo
Bồ đề, lìa khổ được vui tức là liễu, cũng là hảo.
Thế nên chớ vội phê bình người tin Phật
là kẻ chán đời, không có tâm hướng thượng. Ngược lại là khác! Người tin Phật
chân chánh luôn có nhiều cống hiến tốt đối với xã hội quốc gia. Bởi việc họ
nghĩ đến đầu tiên là lợi ích của quốc gia, là chuyện được mất của tha nhân. Bao
giờ họ cũng nghĩ cho người trước nhất và lấy lợi ích của tha nhân làm lợi ích của
mình.
Vì vậy việc người Phật tử cần làm trước
tiên là phải nghĩ cho chúng sinh, dùng lòng từ bi bình đẳng mà đối với tất cả
chúng sinh. Tuyệt không có lòng muốn an thịt chúng sinh. Người học Phật chân
chính nhất định là không có chút mảy may vị kỷ, chuyên nghĩ đến lợi người, luôn
tuân thủ kỷ luật, giữ phép tắc, hiếu kính song thân. Như vậy mới là người học
Phật có chánh tín, chánh tri, chánh kiến, chánh hạnh.
Nếu là người sơ cơ muốn nghiên cứu kinh
Phật, tôi đề nghị trước tiên bạn nên tìm đọc “Đại Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm
Kinh” do ngài Tuyên Hóa giảng. Hãy nghiên cứu cho tỉ mỉ kỹ càng, tôi chăc rằng
bạn sẽ ưa thích Phật pháp. Bạn chỉ cần chăm chỉ đọc bộ kinh này, thì đã có thể
tăng trưởng trí huệ, có được “hỏa nhãn kim tinh” (là đôi mắt sáng thần kỳ), bất
kể yêu tà nào cũng bị bạn nhận ra, nhìn thấu hết. Đương nhiên nếu có chút sai lệch
thì bản thân bạn cũng sẽ biết rõ thông suốt. Nếu bạn nghe người nói “Kinh Lăng
Nghiêm là giả, chẳng phải Phật thuyết…” thì tuyệt đối không nên tin. Vì người
tuyên bố kia chưa làm được những điều như trong “Tứ chủng thanh tịnh minh hối”
nơi Kinh Lăng Nghiêm dạy, nên họ rất sợ mọi người đọc Kinh Lăng Nghiêm sẽ phát
hiện ra bộ mặt thật của họ. Nếu lời này là sai, tôi xin chịu đọa địa ngục.
Xem kinh rồi thì bạn hãy bắt đầu thử bỏ
mặn ăn chay chừng nửa tháng xem? Tôi không dám nói thử một tháng vì sợ bạn thiếu
kiên nhẫn không làm nổi nhưng ít nhất thì khi đọc Kinh Lăng Nghiêm, trước đó ba
ngày bạn hãy khởi sự bỏ mặn ăn chay, như vậy càng biểu lộ tâm thành tôn kính Phật.
Hằng ngày những lúc rãnh thì bạn ngồi hay
quỳ tụng một bộ Kinh Địa Tạng, nếu nhà có người bệnh nặng thì tụng cho người bệnh,
nếu có thai phụ thì tụng cho thai nhi, nếu có đại khổ nạn lớn gì chưa thể giải
quyết, chẳng hạn như vợ chẳng thể mang thai, công tác không thuận lợi, thì hãy
vì những con vật mình từng đã giết, ăn qua mà tụng kinh. Bạn chỉ cần tụng thành
tâm, ắt sẽ có chuyển biến tốt. Bởi vì Phật pháp là thuốc hay vi diệu không thể
lường, mà bạn không cần tốn tiền nộp phí chữa trị.
Tính ra nửa tháng hay một tháng bạn thí
nghiệm bỏ mặn ăn chay đó, chẳng những không ảnh hưởng gì đến sức khỏe bạn, ngược
lại còn khiến nó tốt hơn lên mà chẳng tốn tiền, quả thực là thế. Nhất định bạn
sẽ thấy được sức mạnh Phật pháp và điều kỳ diệu không thể nghĩ lường, nếu bạn
thành tâm thực hành đúng như tôi khuyên mà không có cảm ứng thì quả là vô lý.
Khi bạn chứng nghiệm được điều hay rồi, có tín tâm kiên định rồi, dần dần sẽ bước
vào chánh đạo tu hành.
Chúng ta tạo vô biên tội, chư Phật đều
thấy rõ, chỉ có sám lỗi trước dứt lỗi sau, cải đổi tu sửa, mong nhờ lực gia trì
của Phật, phát tâm Bồ đề, nguyện như pháp tu hành mới có thể tiêu hết tội.
Những người chuyên nghiên cứu tướng học,
vừa thấy mặt hoặc xem tay bạn, thì có thể đoán biết vận mệnh bạn ra sao, là bởi
vì tướng mạo một người cũng tùy thuộc nhân gieo đời trước đến nay mà kết quả, khi
nhìn quả trổ đương nhiên có thể suy ra nhân đã gieo. Thí như chúng ta thấy một
người có tướng lưỡi rộng dài, mềm mại, khi thè ra nếu có thể che mặt và liếm đến
mí tóc, thì biết đây chính là một trong các quả lành do nhiều đời họ không nói
vọng ngữ. Thực ra không nói láo mà còn chiêu nhiều quả tốt khác nữa, thí như lời
nói ra người người đều tin… do vậy mà chúng ta có thể căn cứ vào tướng mạo đặc
trưng để nói ra số mệnh đặc định. Thực ra, có nói tới nói lui, thảy đều là tác
dụng của luật nhân quả mà Phật từng thuyết giảng thôi.
Nhưng tu hành có thể cải đổi số mệnh, Phật
giáo chủ trương tất cả đều do tâm tạo, mọi sự tùy thuộc nơi mình, chẳng chấp nhận
hay cam chịu số mệnh, bởi chỉ có chính ta mới có thể cải đổi số mệnh mình. Phật
giáo không tán thành việc đoán mệnh xem tướng. Bởi vì việc khăng khăng tin chấp
theo bói mệnh đoán tướng, sẽ đóng bạn dính cứng vào định đặt của túc mệnh.
Phật là bậc đại giác, là bậc thầy đức hạnh
viên mãn của trời người, được gọi là Thế Tôn, lời Ngài dạy chắc chắn không sai.
Quan trọng ở chỗ: Khi nghe Phật pháp rồi bạn không thể không hồi tâm quy hướng
Phật, khéo nắm bắt thời cơ, lo điều chỉnh nhịp sống của mình hướng thượng, tiến
đến nẻo quang minh. Phật pháp luôn đem lợi lạc đến cho muôn loài như trận mưa
cam lộ rưới xuống, vạn vật đều thọ ích.
Hãy tranh thủ tham dự pháp hội lễ Lương
Hoàng Sám hoặc lễ một mình tại nhà cũng được vì đây là dịp lành để sám hối. Chỉ
cần nương theo sám văn nhắc nhở, bạn sinh tâm tỉnh ngộ, nhận ra những tội mình
đã phạm trong đời này và sinh tâm ăn năn, thệ chẳng phạm lại nữa thì có thể chuộc
tội.
Tất nhiên cũng đừng quên ngài Tuyên Hóa
khai thị: “Làm thiện mà mong người ta biết thì không phải là chân thiện, làm ác
mà sợ người ta hay mới là đại ác”. Nếu như bạn phạm lỗi ác, không sợ người biết,
thậm chí dám dũng cảm thổ lộ trước đại chúng, việc này có thể phát huy tác dụng
giáo hóa người khác, thế thì bạn đã chuyển ác nhỏ thành đại thiện.
Mỗi vị Phật, Bồ-tát đều có nguyện lực
riêng để độ chúng sinh, chỉ cần chúng ta thành tâm sám hối, Phật, Bồ-tát đều
nhìn rõ, thấy hết, biết hết, nhất định sẽ tiếp thọ tâm thành của ta, dùng lực đại
thần thông gia trì cho ta.
Tâm chân thành sám hối sẽ giúp chuyển biến
vận mệnh, là then chốt quan trọng giúp ta lìa khổ được vui. Đã phát nguyện thì
nhất định phải làm cho được, cần phải hành trì bền bĩ, không nên vừa được chút
như ý liền phóng túng tái phạm. Phải hiểu: Cơ hội dành cho người sám hối chuộc
lỗi chỉ có một lần duy nhất.
Có thể ví dụ thế này: Nếu tôi lén trộm của
bạn một ngàn đồng, tất sẽ bị bạn níu áo, đòi đưa lên quan. Ngay lúc đó tôi khẩn
cầu năn nỉ, xin bạn hãy cho tôi cơ hội để sửa lỗi. Nhưng được một thời gian
không lâu, tôi giở thói hư cũ, phạm tội tiếp: lén trộm của bạn ngàn đồng nữa.
Lúc này khi bị bạn bắt, tôi lại cầu xin bạn tha cho, thì xem như không được chấp
nhận nữa rồi, bởi vì bạn đã mất lòng tin. Lúc đó uy lực của mười phương chư Phật
cũng không cứu vãn được, xem như nợ trước nợ sau gì cũng đồng tính hết. Do vậy,
hễ biết lỗi là phải sửa liền, đã hiểu thì nên thực hành ngay, làm thế không những
được quỷ thần cung kính, mà còn được chư Phật, Bồ-tát gia trì.
CHƯƠNG
4 – PHÁT TÂM BỒ ĐỀ
Ngày
nay Đại chúng trong Đạo tràng đã rửa sạch tâm ô uế rồi, lỗi thập ác, tội chướng
không còn, nghiệp lụy đã hết, trong ngoài đều thanh tịnh.
Kế
đến cần tu học theo các vị Bồ-tát, công đức trí huệ nhờ vậy mà sinh. Thế nên,
chư Phật thường khen phát tâm là đạo tràng, hay thành tựu được đạo quả.
Xin
đại chúng nên kiên tâm trì chí, chớ tưởng sống lâu mà để thời gian luống qua uổng
phí, sau có hối cũng muộn. Bây giờ gặp thời cơ tốt, thì đừng để phiền não che lấp
tâm, ngày đêm nỗ lực phát tâm Bồ đề.
Giải thích:
Tâm Bồ đề tức là tâm Phật, công đức trí
huệ vô lượng, không thể nghĩ bàn.
Hôm nay chúng ta có duyên lành được dự lễ
sám thù thắng, không nên để phiền não thế gian che ám mình mãi, đã biết tất cả
đều là nhân duyên quả báo, ôm phiền muộn nào có ích chi? Nên phát tâm Bồ đề tu
hành mới là hữu ích.
Phát một niệm cầu giác ngộ, công đức
tính không hết. Huống nữa nhiều người tự mình phát tâm tu học theo Phật, đồng
thời còn tùy duyên hóa độ khuyên người khác trì giới học Phật, tu bố thí, trì
giới, nhẫn nhục, thiền định, trí huệ. Những người phát tâm này, công đức lớn
bao nhiêu? Giả sử có người trăm ngàn vạn kiếp đến nay, hành vô lượng bố thí, đời
này vẫn tiếp tục làm việc thiện kia (như thí tiền của cho người nghèo, xây cầu
sửa đường, lập chùa giúp Tăng, tạo tượng Phật…). Công đức họ có thể dùng cụm từ
“Không thể nghĩ bàn” để ví von, nhưng so với kẻ phát tâm Bồ đề “Trên cầu Phật đạo,
dưới độ chúng sinh” thì không bằng một phần ngàn. Đủ thấy phát tâm Bồ đề công đức
lớn vô biên, không tính nổi.
Sám
văn:
Lại
có người chỉ làm phước chớ không phát tâm Vô thượng Bồ đề, giống như kẻ cày ruộng
mà không gieo hạt. Vì vậy, phải phát tâm Bồ đề là tạo nhân cho việc chứng quả;
trước là báo ân chư Phật, sau là cứu vớt muôn loài. Vì vậy Phật mới khen rằng:
“Lành
thay! Lành thay! Vì muốn lợi ích cho hết thảy chúng sinh. Phát tâm Bồ đề là
cách cúng dường lớn hơn tất cả”.
Phát
tâm Bồ đề, không phải là chỉ phát qua một lần, mà phải phát luôn luôn; làm cho
tâm Bồ đề tiếp tục phát rộng lớn mãi. Vì thế trong kinh Phật dạy rằng:
“Nên
ở nơi hằng hà sa số chư Phật nhiều kiếp phát đại thiện nguyện”.
Giải thích:
Nếu có người chỉ biết trồng công đức
phúc điền, tất nhiên kiếp sau sẽ được đại phú, hưởng vinh hoa bất tận. Nhưng nếu
chỉ làm phúc mà không phát tâm Vô thượng Bồ đề thì giống như kẻ cày ruộng không
gieo giống. Người này dù phúc báu lớn, cũng chỉ là hoa quỳnh nở một lần thôi, đây
không phải là cứu cánh. Vì vậy khi được gặp Phật pháp vạn kiếp khó tương phùng
này, thì chớ sai lầm để cơ hội qua mất, cần phải y theo lời Phật dạy phụng
hành, phát tâm Vô thượng Bồ đề, dũng mãnh tinh tấn, bất luận bên mình có bao
nhiêu chướng ngại thử thách cũng phải gắng
tiến lên, hành cho viên mãn.
Nếu chỉ lo tu huệ mà không tu phước thì
cũng là thiếu sót, nhiều người chỉ biết thắp hương lễ Phật, tham thiền tĩnh tọa,
tụng kinh nghe pháp, mà không chịu bố thí, trì giới phóng sanh, tùy sức tạo
phúc điền. Thậm chí họ ngày ngày tụng kinh, giờ giờ niệm Phật, nhưng không lưu
tâm sửa đổi các tập khí, tính nết xấu trong tâm. Phải biết huệ là hạt giống,
phúc là phân bón, tâm là đất. Nếu có đất để trồng mà thiếu phân bón thì cũng
không thu hoạch nhiều. Chỉ có phước huệ song tu mới là con đường tốt liễu sinh
thoát tử.
KIM
ĐỒNG NGỌC NỮ
Tháng 9 năm 2005, tại Thượng Hải tôi gặp
một đôi vợ chồng, người chồng tên là Kim Đồng, người vợ tên Diễm Lệ, quả là người
đúng như tên, mặc dù tuổi họ không còn trẻ nhưng nhìn xinh như một đôi kim đồng
ngọc nữ.
Người chồng kể:
“Chúng tôi có hai con gái, sự nghiệp
tương đối phát, của cải sung túc, lại có chung tín ngưỡng Phật giáo, nên đồng
thấy mình là người có số mệnh may mắn, hạnh phúc nhất, cùng sống rất mãn ý
trong thế giới này.
Nào dè năm ngoái tai họa đột nhiên ập tới,
vợ tôi bỗng phát hiện ngực phải nàng có khối u, bệnh viện chẩn đoán là ung bướu
ác tính, phải cắt bỏ ngay.
Sau khi mổ xong, vợ tôi xuất viện về nhà
rồi, tinh thần vẫn còn suy sụp chưa thể hồi phục, hình vóc tiều tụy, mặt mày ủ
rủ, hai mắt vô hồn, không những chẳng thiết ăn uống, mà mỗi lúc tắm gội nàng
càng thêm đau khổchán chường đến không muốn sống, nàng khóc lóc bi lụy thống
thiết.
Những lúc đó tôi hiểu vì sao nàng khóc,
rất muốn vào an ủi nàng, nhưng chỉ biết đứng bên ngoài cửa, xót xa lắng nghe tiếng
nước chảy và âm thanh tay nàng đấm vào tường, mà có cảm giác như tim mình cũng
bị đấm đau đớn theo, tôi khổ đến muốn thét to lên và tôi cũng bật khóc thống
thiết không cầm được, khiến hai con tôi đứng phía sau cũng bị ảnh hưởng lây, đồng
khóc nức nở theo.
Cảnh trạng bi thảm thê lương này, ngày
xưa chúng tôi chỉ thấy trong phim ảnh, sách truyện, nhưng bây giờ lại xuất hiện
trong gia đình tôi, làm sao mà không bi quan, không chán nản cho được?
Đêm đêm tôi thường an ủi vỗ về bà xã:
- Trên thế giới, các phụ nữ bị ung thư
phải cắt bỏ ngực có rất nhiều, há chẳng phải Phật pháp từng giảng: Nhân sinh vô
thường hay sao? Có rất nhiều gia đình gặp thống khổ rủi ro, chứ đâu phải chỉ có
riêng mình? Em đừng vì mất đi một bên ngực mà sầu thảm quá mức, anh chẳng ngại
chuyện đó đâu! Nên em đừng có khóc nữa, những ngày tháng tươi đẹp vẫn đang chờ
chúng ta chung hưởng! Em hãy vui lên, vì buồn khổ sẽ tổn hại cho sức khỏe!
Nghe tôi nói thế nàng nguôi ngoai được
vài ngày, nhưng trông rất suy sụp, so với dáng vẻ tươi tắn căng tràn nhựa sống
trước đây, giống như là hai người khác.
Mấy tháng trước, vợ tôi đột nhiên cảm thấy
sườn phải có chút đau, nàng nghĩ: “Có lẽ do làm việc nhà nên thấy như vậy”.
Nhưng dần dần sườn bên trái cũng phát đau, nàng thấy không ổn nên tới bệnh viện
khám, mới hay tế bào ung bướu đã phát tán, xem như mạng sống nàng có kéo dài
thì cũng không qua ba tháng. Tin này đối với tôi giống như sấm nổ giữa trời
quang!
Vợ tôi là người rất thông minh, cho dù
tôi không cho nàng hay, nàng vẫn tự biết được.
Đúng lúc này, bạn bè đem bộ sách “Báo Ứng
Hiện Đời” đến biếu cho, thấy trong đây giảng thuật toàn những câu chuyện thần kỳ
khiến người tin sâu nhân quả, đã thôi thúc tôi nảy ý niệm: “Nhất định phải gặp
cho bằng được Hòa thượng Diệu Pháp và tác giả”.
Sau nhiều lần dò la, hỏi thăm, cuối cùng
nhờ sư huynh Quả Long mà chúng tôi biết được tin của ngài, bèn vội tìm đến đây.
Chẳng biết ngài có thể giúp chúng tôi giải rõ nhân quả để chúng tôi minh bạch
chăng? Vợ tôi nói: Nếu được vậy thì dù có chết nàng cũng cam lòng, không còn hối
tiếc! Tôi cũng rất thắc mắc, vì chúng tôi đã thân cận Phật pháp mười mấy năm,
vì sao vẫn gặp phải tai nạn như hiện nay? Đã biết bao lần tôi ở trước tượng Bồ-tát
Quan Thế Âm khóc than cầu cứu, nhưng chuyện xảy đến vẫn luôn là tin dữ. Mong
ngài có thể giúp chúng tôi giải nghi trừ mê, xin cảm tạ vô cùng!
Tôi bảo họ:
- Hai vị dù đang ở độ tuổi hoa niên tuyệt
đẹp trong kiếp nhân sinh, nhưng lại bị ác bệnh vô thường đến viếng. Những ngày
tháng hạnh phúc trong quá khứ đã trôi qua không còn trở lại, vì vậy mà khổ hết
chỗ nói. Đây toàn là do các vị bất minh giáo lý Phật, CHẲNG BIẾT GIỮ GIỚI mà tạo
thành! Không phải tới giờ hai vị vẫn còn ăn mặn hay sao?
Kim Đồng vội thưa:
- Chúng tôi là người tại gia, há chẳng
phải Phật cho phép được ăn tam tịnh nhục hay sao?
Tôi giải thích:
- Đó là Phật đối với người không thể lập
tức bỏ thịt ăn chay ngay nên mới tạm đặt phương tiện như vậy để giúp họ đoạn ăn
thịt dần dần. Hai vị cũng tin nhân quả mà? Nghĩa là nếu bạn ăn thịt chúng sinh,
thì chúng sinh ắt sẽ ăn thịt bạn. Bạn gieo kinh hoàng thống khổ, tử vong cho
chúng sinh, thì chúng sinh cũng sẽ khiến bạn bị y hệt vậy. Người ăn thịt không
phải đệ tử Phật, không thể ra khỏi tam giới, điều này trong “Kinh Lăng Nghiêm”
Phật đã giảng rất rõ ràng. Vì sao hai vị không chịu xem kinh điển?
Kim Đồng nói anh có đọc qua Kinh Lăng
Nghiêm của ngài Tuyên Hóa giảng, nhưng chỉ đọc chứ không thâm nhập ý kinh.
Tôi nói tiếp:
- Sát sinh ăn thịt chính là nguyên nhân
thứ nhất khiến vợ anh mắc ác bệnh. Còn nguyên nhân thứ hai là… xin đừng trách
tôi nói quá thẳng quá khó nghe.
Kim Đồng và vợ vội thỉnh cầu tôi cứ nói,
bọn họ sẽ không ngại.
Thế là tôi bảo:
- Tôi biết hai vị thật lòng yêu thương
nhau, tình cảm rất sâu đậm, khăng khít khó lìa. Nhưng tôi cũng thừa biết do hai
vị có dung nhan quá mỹ miều tuấn tú nên anh thì thừa sức khiến phái nữ tâm thần
điên đảo, chị thì có thể làm bao nam nhân nghiêng ngửa hồn phách. Do vậy mà đời
sống tình ái của anh chị cực kỳ phong phú, dồi dào, dư thừa. Nhưng phải biết: Hễ
vui đến đỉnh điểm thì sẽ phát sinh bi thảm. Còn nguyên nhân thứ ba…
Nói đến đây tôi quay qua nhìn Diễm Lệ hỏi:
- Có phải cô và mẹ chồng rất xung khắc,
đến độ dù có gặp mặt nhau cũng không muốn nhìn, ghét đến chẳng muốn trò chuyện
và trong lòng cô rất xem thường bà?
Nghe vậy Diễm Lệ liền bật khóc, khóc tức
tưởi, nàng kể:
- Tôi mà ở chung với mẹ chồng thì bà
luôn soi mói, bới móc tìm lỗi, chỉ cần tôi nhấc tay động chân là bà vội mỉa mai
xỉa xói khiến tôi rất phiền! Vì vậy mà tôi không muốn ở chung với bà.
Tôi nói:
- Cô có biết mẹ chồng rất yêu con trai,
luôn khao khát mong được ở chung với Kim Đồng, bởi bà sợ cô không khéo chăm sóc
con trai bà, mà chồng cô cũng rất muốn được ở chung cùng mẹ để tiện bày tỏ hiếu
tâm?
Kim Đồng hết sức kinh ngạc, hỏi:
- Vì sao ngài có thể nắm rõ tình huống
gia đình tôi như trong lòng bàn tay vậy?
Tôi đáp:
- Tất cả ngôn hạnh, tâm niệm của chúng
sinh, không những chư Phật, Bồ-tát mà cả đến quỷ thần đều nhìn thấy hết, do tôi
minh bạch lý này rồi nên mới quyết tâm đoạn ác tu thiện.
Tôi mong các vị từ hôm nay trở đi, sau
khi đã sáng tỏ lý này rồi thì hãy phát tâm ăn năn sám hối, sửa đổi.
Bởi vì tất cả việc ác mà chúng ta làm,
những việc mà ta luôn chắc mẫm là chỉ có mình biết (không ai thấy, không ai
hay). Thế nhưng không những chư Phật, Bồ-tát biết hết, mà ngay cả quỷ thần cũng
đều thấy đều biết rõ tất tần tật. Đây giống như tín hiệu sóng điện vậy, cho dù
phòng của bạn đóng kín, thì sóng điện vẫn có thể xâm nhập vào, vì vậy mà tất cả
ngôn hạnh, tư tưởng của bạn, chư quỷ thần trên trời dưới đất đều nhìn thấy rõ mồn
một và nghe rõ bên tai, đồng nhận ra là nên giúp hay hủy hoại bạn! Nhưng chỉ có
bạn là mù trất, không biết gì. Mọi việc xảy đến tất cả đều căn cứ theo đức hạnh
của bạn mà định đoạt. Bởi vậy đối với các ác nghiệp sát, đạo, dâm, vọng… nếu bạn
có thể thành tâm sám hối, thì những bệnh bất trị mà bạn ngỡ cùng đường, vẫn tìm
ra lối thoát.
Nghe tôi nói xong, họ đều phát nguyện từ
nay về sau sẽ không ăn thịt chúng sinh nữa, thệ kể từ đây nghiêm trì giới luật,
quyết tâm đoạn ác tu thiện. Diễm Lệ còn phát nguyện sẽ sửa đổi và gắng tạo quan
hệ tốt đẹp với mẹ chồng.
Tôi hỏi Diễm Lệ:
- Có phải cô cảm thấy việc cải thiện
quan hệ cùng mẹ chồng rất là khó?
- Dạ phải! Bởi mẹ chồng ngó bộ không
dung nổi tôi, tôi không có lỗi gì bà cũng cố tìm cho ra hoặc cố tình biến không
lỗi thành lỗi, vì vậy tôi chẳng biết phải làm sao cho ổn?
Tôi hỏi:
- Hai vị có muốn biết nhân duyên kiếp
trước của mình với bà là như thế nào không?
Hai người đồng đáp:
- Dạ muốn! Muốn quá đi chứ!
Tiếng họ reo lên mừng rỡ như trẻ con khiến
tất cả đều bật cười. Lúc này trông Diễm Lệ rất là tươi tắn khả ái, chẳng có vẻ
gì là bệnh nặng, thế là tôi kể rõ nhân duyên tiền kiếp của họ như sau:
“Vào thời Võ Tắc Thiên triều Đường, có
hai vị công tử con nhà quan, tạm gọi là An và Bảo, họ là bạn tâm giao, nghĩa
tình thân thiết. Hay rủ nhau đi du ngoạn, đến chùa thắp hương, cúng dường, tay
luôn lần chuỗi. Điều này chứng tỏ bọn họ rất mộ đạo, tin Phật chí thành. Thế
nhưng đáng tiếc là họ thường đến kỹ viện xem ca vũ, uống rượu giải trí.
Công tử Bảo hay nổi nóng với tên tớ trai
X trong nhà, mỗi lần dạy dỗ X mà cáu tiết thì chàng thịnh nộ làm dữ, khiến nó
run sợ. Tên tớ trai này cả đời phục vụ công tử, còn công tử thì quát mắng nó cả
đời.
Tên đầy tớ X sau khi chết rồi, do tạo
nhiều ác nghiệp nên phải vào địa ngục thọ khổ, còn hai vị công tử do nhiều đời
ưa cúng dường Tam bảo nên chết rồi thì sinh thiên, hưởng hết phúc báu thì họ
sinh vào nhân gian, sống đời vô cùng giàu có. Do nhân duyên đời trước, họ vẫn
làm bạn hữu, thường ở chung, cùng lễ Phật, hành thiện bố thí, rất được bá tính
thời ấy kính ngưỡng.
Trong kiếp sau nữa, hai người sinh ra vẫn
tín thờ Phật, nhưng lại ham mê săn bắn, họ thường rủ nhau lên núi đi săn. Xin tạm
gọi hai công tử đời tiếp theo này là An 2 và Bảo 2. Khi Bảo 2 phát hiện ra con
nai thì giương súng lên bắn, ngay lúc đó chàng An 2 khởi niệm xót thương liền
đưa tay đẩy họng súng bạn chỉa lên trời, khiến đạn bắn vào hư không, nhờ vậy mà
con nai sống sót, nó quay đầu lại nhìn rồi hốt hoảng co giò chạy mất.
Con nai đó chính là tên đầy tớ X (của
công tử Bảo kiếp xưa), sau khi X từ địa ngục lên thì đầu thai vào cõi súc sinh
làm nai, may được An 2 cứu mạng”.
Tôi nhìn Kim Đồng, bảo:
- Anh chính là hậu thân của An 2, vợ anh
chính là hậu thân của Bảo 2. Con nai sau khi mãn thân súc sinh thì đầu thai vào
nhân gian, sinh làm người đã mấy đời, đến kiếp này thì làm mẫu thân anh, bà tìm
đến là để báo ân cứu mạng kiếp xưa. Chẳng phải đối với anh bà rất quan tâm chăm
sóc, yêu thương cực kỳ đặc biệt?
Kim Đồng kể:
- Dù cha mẹ ngụ ở quê, nhưng hằng ngày
trước và sau khi dùng cơm, tôi đều phải gọi điện hỏi han trò chuyện, bằng không
thì tối đó bà chẳng thể ngủ yên.
Tôi bảo Diễm Lệ:
- Cô chính là công tử Bảo thường quở mắng
tớ trai x cũng là chàng Bảo 2 muốn giết con nai. Tên tớ trai này vốn mồ côi cha
mẹ, cũng nhờ Bảo có lòng từ thu nhận nuôi dưỡng giùm, do X có nhiều tật xấu nên
Bảo thường quở mắng rầy la, không phân hoàn cảnh, trường hợp, niên kỷ. Bởi X là
một kẻ dễ tự ái, giàu lòng tự tôn, do vậy mà sinh tâm sân hận. Mặc dù kiếp ấy X
tri ân Bảo thu nhận nuôi dưỡng nên cam chịu nhịn nhục vâng theo song tâm oán hận
vẫn còn ôm đến đời này, trong các kiếp quá khứ thì X với cô là thân phận đầy tớ
và chủ nhân, con nai và thợ săn. Nhưng bây giờ đã chuyển thành mối quan hệ mẹ
chồng nàng dâu. Hiện thời mẹ chồng ở vị trí chủ, phải biết không có gì vô cớ mà
sinh lỗi đâu, đều tại kiếp trước cô trồng nhân xấu nên nay mới gặt quả không ưng
ý. Đã minh bạch lý này rồi, cô còn oán hận mẹ chồng hay nhăn nhó, chuyên bới
lông tìm vết bắt bẻ cô hoài hay không?
Tôi lại hỏi Kim Đồng:
- Có phải lưng anh thường rất đau mỏi,
khi đi tiểu đến cuối cùng hay có cảm giác bài tiết chưa hết? Tim còn có cảm giác
bị ngột ngạt áp chế?
- Dạ đúng ạ.
Tôi bảo:
- Anh đừng quá lo. Hiện tại chỉ là bị vậy
thôi, có đi y viện cũng khám không ra bệnh. Nhưng nếu anh không thay đổi nếp sống,
không quyết tâm dứt mặn ăn chay, chẳng chịu giữ ngũ giới của Phật, thì tương
lai bệnh tim của anh sẽ bộc phát trước tiên, tiếp đó là thận. Nhưng tôi tin anh
sẽ sửa đổi, hơn nữa hiện giờ đã hạ quyết tâm rồi, đúng không?
- Dạ đúng-Kim Đồng khẳng định-Từ nay trở
đi tôi sẽ sửa đổi bản thân, xin ngài hãy gia trì cho.
Tôi cười bảo:
- Tôi và anh là phàm phu như nhau, cũng
đang từng bước lo hoàn thiện, cải đổi thói tật của mình, nếu biết chân thành tu
sửa, chúng ta đều sẽ được chư Phật, Bồ-tát gia trì. Nếu hai vị có thể trì giới
tham thiền tĩnh tọa, thì sẽ khải mở trí huệ tự thân.
Tôi hỏi Diễm Lệ:
- Bây giờ có phải cô đã cảm thấy thoải
mái, sức khỏe khá lên rất nhiều?
Tôi vừa hỏi, thì Diễm Lệ tỏ vẻ rất kinh
ngạc vui mừng nói:
- Ôi chao, quả thực tôi không còn trạng
thái khó chịu kia nữa, có phải ngài đã trị bệnh, ban cho tôi công năng mầu nhiệm
này chăng?
Tôi mỉm cười, nói:
- Tôi chỉ có công phu giữ giới, ngoài ra
không có tài gì khác. Có phải bạn đã quyết định dứt sát ăn chay, rất muốn cải
thiện quan hệ giữa mình với mẹ chồng?
Cô nói:
- Đoạn mặn thì ngay hôm nay có thể, còn
các tội khác lòng tôi cũng đã thầm nguyện từ đây về sau nhất quyết không phạm nữa.
Nhưng chuyện cải thiện quan hệ với mẹ chồng xem ra có chút khó khăn. Tôi vẫn
còn đang lo…
Tôi nói:
- Bạn xem, tâm bạn vừa thay đổi, lập tức
cảm thấy sức khỏe tăng, thân thể thư thái dễ chịu rất nhiều. Kim Đồng này, anh
nhìn xem: Khí sắc Diễm Lệ có phải đã chuyển sáng, tươi tắn rất nhiều hay không?
Kim Đồng lộ vẻ rất vui mừng nói:
- Diễm Lệ. Em hãy tự đi soi gương mà
xem!
Diễm Lệ soi gương rồi, liền cảm ơn tôi.
Tôi nói:
- Bạn cảm tạ sai đối tượng rồi, chúng ta
cần phải cảm tạ Phật, Bồ-tát! – Là Phật pháp giáo hóa bạn và tôi nếu không có
Phật pháp, e rằng tôi sớm đã đọa địa ngục rồi. Kế đến bạn phải cảm tạ tâm mình,
vì bạn có thể nghe pháp tin thọ, chứng thực chân lý: “Tất cả duy tâm tạo”. Tâm
bạn vừa thay đổi với mẹ chồng, quan hệ tốt đến mức có thể nhẫn nhục chịu đựng
giỏi, thành tựu phẩm hạnh nhân cách tốt rồi, thì chẳng những tật bệnh hoàn toàn
tiêu hết, mà ngay cả bộ phận bị cắt bỏ đi cũng sẽ dần dần hưng khởi (hồi phục lại)
Phật pháp là diệu pháp, diệu đến mức bạn không thể tưởng tượng được đâu!
Sau khi họ ra về, cách đây mấy ngày Kim
Đồng và Diễm Lệ đã gọi điện tới, tôi nghe giọng nói Diễm Lệ thập phần khỏe mạnh,
lộ vẻ rất vui. Cô kể mình hằng ngày kiên trì tụng ba bộ Kinh Địa Tạng hai bộ hồi
hướng cho các chúng sinh mà cô đã giết ăn qua, còn một bộ thì hồi hướng cho mẹ
chồng, bản thân mình cũng đã trực tiếp hướng mẹ chồng xin lỗi, mặc dù mẹ chồng
không hoàn toàn tiếp nhận, nhưng cô đã hạ quyết tâm sửa đổi bản thân, còn khoe
là: Hai vợ chồng đã bàn bạc, dự định đến lúc thích hợp (được ba mẹ chồng đồng
ý), sẽ rước họ về ở chung.
Tôi thật mừng cho họ, cầu chúc cho họ từ
đây sống hòa thuận, hạnh phúc, đạo nghiệp viên thành.
Phật nói tất cả chúng sinh đều có Phật tính,
có thể thành Phật. Một khi nhân duyên hội đủ, may mắn gặp Phật pháp tưới đẫm ruộng
tâm, thì hạt giống Phật sẽ đâm chồi ra hoa kết trái. Không có Phật lực gia trì
trong vô hình, thì không thể thành tựu.
Cho nên mỗi người tu hành sau khi khai
ngộ rồi, thì việc đầu tiên cần làm là cần phải báo ân Phật, ân chúng sinh. Vì
sao? Bởi nếu không có Phật pháp giáo dưỡng, thì biết bao giờ chúng ta mới có đủ
chánh tín, chánh tri, chánh kiến… mà tu hành? Không nhờ minh sư hướng dẫn, cũng
sẽ làm lỡ mất cơ duyên tu hành trong đời. Một khi mất thân người, thì việc gặp
lại Phật pháp là chuyện hy hữu (trăm ngàn vạn kiếp mới có được).
Tôi xin giải thích hai từ “Minh sư”:
Là chỉ vị thầy nghiêm trì giới luật, không
tham tài, sắc, danh lợi, không phải là những người chuyên lý luận: Thời đại đã
thay đổi, có thể tùy ý cải sửa giới Phật chế. Và còn tung thuyết hồ đồ rằng: Thịt
có thể ăn, rượu có thể uống, thuốc có thể hút, ngũ tân v.v… ăn được. Thậm chí
đã xuất gia, lại không giữ quy củ Phật môn mà còn tự phòng mình là Đại đức cao
tăng.
Làm sư phụ mà không giữ thanh quy giới
luật, tất nhiên đồ đệ sẽ bắt chước y theo. Thậm chí có người còn nói: Xem kinh
nhiều sẽ làm chướng ngại vãng sinh thế giới Cực Lạc, lý luận này hoàn toàn trái
ngược với câu “thâm nhập kinh tạng, trí huệ như hải” và Phật và lịch đại cao
tăng từng hướng dẫn tuyên thuyết.
Chúng ta cần phải “Y pháp bất y nhân”,
phải biết xem kinh là để minh lý. Hiểu rõ rồi mới có thể điều chỉnh hướng đi,
quét trừ chướng ngại, tiến lên đỉnh điểm huy hoàng.
Đây không ảnh hưởng gì đến pháp môn
chuyên tu của mình, vì một đứa bé bất kể tương lai là nhà âm nhạc, tác giả, bác
sĩ, kỹ sư, hay là công nhân, nông dân… thì ngay lúc bắt đầu đi học, đều cần phải
học các môn: ngữ văn, toán, thể dục, mỹ thuật v.v… nghĩa là toàn bộ khóa trình!
Chỉ khi lên đại học mới cho phân ngành chia ban, đào tạo chuyên khoa để cuối
cùng thành tựu học nghiệp.
Đọc kinh là giúp tăng trưởng trí huệ bản
thân, là một trong các phương pháp khử trừ vọng tưởng.
Lúc đọc kinh thì lời kinh cùng tâm hòa
làm một thể, tức vô ngã, nhân, chúng sinh, thọ giả. Liền có thể khai phát trí
huệ, bởi vì bản thân đọc kinh chính là một pháp môn hiểu lý trừ vọng.
Xin nhớ: Tự quy y pháp (là tự mình nương
vào Phật pháp) nguyện cho chúng sinh, thâm nhập kinh tạng, trí huệ như hải.
Vì thệ nguyện của chúng ta là: Tứ hoằng
thệ nguyện (Chúng sinh vô biên thệ nguyện độ. Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn.
Pháp môn vô lượng thệ nguyện học. Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành)
Danh sư không hẳn đã là minh sư, bởi
chưa phải là minh sư, nên họ có thể hướng dẫn sai, làm người khác lầm lạc, mất
phương hướng tu hành. Đương nhiên cũng có thể xem người giảng tà pháp là thầy.
Vì trong số họ có thể là Bồ-tát thị hiện đóng vai phản diện để thử thách khảo
nghiệm chúng ta. Khảo xem chúng ta thực sự có được chính tri, chính kiến hay
chưa?
Thực ra Phật Thích Ca mới là thầy căn bản
của ta, hướng dẫn chúng ta (là những đệ tử thiếu phúc duyên không được sinh vào
thời Phật trụ thế), vì vậy ta phải lấy giới làm thầy. Nhất định phải vâng theo
lời Phật, tôn những điều Phật chế làm thầy, y theo lời Phật dạy mà tu.
Đại sư Ấn Quang từng nói: Xem tất cả đều
là Bồ-tát. Thế thì những người sửa đổi các điều Phật chế cũng có thể là Bồ-tát
đến thử thách khảo nghiệm chúng ta. Khi chúng ta hiểu rõ đạo lý này rồi, thì đối
với những hành vi lỗi lầm của tha nhân cần phải: “Chỉ thấy lỗi mình, đừng bàn lỗi
người” và đối với những tuyên bố sai lầm hướng dẫn lệch lạc kia, ta chỉ hành
theo câu “Y pháp bất y nhân”, dùng đó để thanh lọc gạt bỏ tà thuyết. Trong kinh
Trường A Hàm, Phật giảng: “Tứ Đại Giáo Pháp”, dạy chúng ta dựa theo kinh luật
mà phán đoán chánh tà. Nếu quả thực là ma đến quấy nhiễu phá hoại, thì ta cũng
không nên xem là việc xấu, mà cần học tập theo cách Phật tiếp đón ma, xem như
ma đến giúp ta tu hành thánh đạo. Cho nên ngài Tuyên Hóa nói: “Ma là để mài luyện
thử thách người tu hành chân chính”. Kinh Duy Ma Cật thuyết: “Các vị ma vương
trong vô lượng vô số cõi nước ở mười phương phần nhiều là bậc Bồ-tát trụ nơi
pháp bất khả tư nghị giải thoát, vì dùng sức phương tiện giáo hóa chúng sinh
nên thị hiện làm ma vương”. Do vậy tà sư cũng là sư, cũng có thể là Bồ-tát đóng
vai phản diện nhằm rèn dạy chúng ta kiên định đạo tâm, nên cần phải cảm ơn họ.
Có mệt mỏi vì đi nhiều đoạn đường vòng co lắt léo, thì ngày sau việc hoằng pháp
lợi sinh càng hữu ích.
Giác ngộ rồi thì Như Lai Thiền, lục độ,
vạn hạnh, v.v… thể viên dung. “Trong mơ thấy rõ ràng có sáu cõi, tỉnh rồi thì tất
cả đều không”. Đây là lời Vĩnh Gia Đại sư nói trong Chứng Đạo Ca, khi chúng ta
thực sự minh bạch rồi, đã kiên định tin sâu rằng chỉ có duy nhất một phương cách
của Phật pháp mới có thể cứu ta thoát ly biển khổ, thì bám theo lục độ để tu
hành. Nhà thiền thuyết: “Nhẫn nhục là hạng nhất” – Phật Thích Ca Mâu Ni trong đời
quá khứ, lúc làm tiên nhân hành nhẫn nhục, bị vua Ca Lợi chặt tứ chi vẫn không
sinh chút tâm oán hận đối với vua, tứ chi liền hồi phục như ban đầu. Thực ra
Bát bộ hộ pháp ngay lúc đó đã sớm quan sát hộ trì, một bề theo dõi xem sức nhẫn
của vị tiên này có thể kham tới đâu? Tiên nhân khi bị chặt tứ chi vẫn nhẫn chịu
không khởi chút tâm sân hận, hàm ý là ông đã tu đến độ tâm nhẫn cũng không cần
cố gắng tập. Tất cả đều buông xả, bởi vạn pháp giai không, đã được vô tâm. Vô
tâm tức vô niệm, vô niệm tức vô trụ, vô niệm vô trụ tức vô tu vô chứng (thành tựu
Phật đạo tối cao, không cần tu chứng chi nữa), minh bạch lý này rồi, thì mỗi
khi chúng ta gặp cảnh khổ, thấy đều chẳng phải khổ. Ta đến nhân gian này cũng
giống như kẻ vào đại học cần phải ở ký túc xá vậy, phải tiếp tục học tập, nên gặp
phải chuyện khảo thí gian khổ, đều vui vẻ ứng đối. Chẳng nên ôm lòng oán hận thầy
cô hay tật đố với việc bị khảo hạch từng đợt. Chẳng qua nổi thử thách là lỗi của
mình, cần phải làm lại từ đầu, cố gắng nỗ lực thêm.
Đồng lý này, khi các pháp lữ đồng tu, vợ
chồng, cha mẹ vợ hay cha mẹ chồng và con cái, đồng nghiệp, láng giềng, bạn bè
v.v… phát sinh mâu thuẫn với nhau, dù quá khứ bạn từng có ôm hận đối phương,
nhưng hiện tại đã minh lý rồi, thì gặp ai chửi mắng, mạ nhục, phỉ báng bạn… thì
nên xem tất cả đều là vị thầy thử thách nơi trường thi làm Phật. Nếu khéo quán
sát, có phải ta sẽ biến phiền não thâm căn cố đế thành Bồ đề và sinh khởi tâm cảm
ân hay chăng? Đồng thời ngay đây bạn không còn sinh tâm sân hận mà là tâm hoan
hỷ. Sự tình kỳ diệu sẽ phát sinh ngay trên thân bạn. Chẳng hạn như việc tốt sẽ
bắt đầu từ ngày này mà xuất hiện: Những việc xưa nay vốn khó khăn bỗng được xử
lý thuận lợi. Các ác tật bệnh hoạn không cánh mà bay khiến bạn không thể ngờ tới,
vì mọi việc xảy đến đều nằm ngoài sức tưởng tượng.
Bạn có biết vì sao ác bệnh hoạn nạn
không mời mà đến chăng? Là do tham, sân, si trong lòng bạn chiêu cảm, mời nó đến.
Bạn không chữa trị, không phẫu thuật, vậy thì sao nó có thể tiêu mất được chứ?
Bởi vì ngay lúc bạn minh lý rồi, thì trong lòng tự biết lỗi, sinh tâm ăn năn
sám hối. Tức vô minh không còn, thì tật bệnh cũng không còn. Phật giảng: “Nên
quán tính pháp giới, tất cả do tâm tạo”, đây hoàn toàn là tác dụng của tâm. Họa
phúc không cửa, do người tự chiêu mà thôi.
BỆNH
VẢY NẾN
Tháng 7 năm 2000, tôi ghé nhà Vương cư
sĩ ở Thượng Hải thì gặp một anh ba mươi mấy tuổi, học Phật đã mười mấy năm, ăn
chay được ba năm, nhưng toàn thân bị bệnh vẩy nến.
Tôi bảo:
- Anh sở dĩ mắc bệnh này là do không biết
hướng về những con vật mình từng giết, ăn qua, thành tâm sám hối, tụng kinh hồi
hướng cho chúng. Chẳng khác nào anh kiếm được rất nhiều tiền nhưng lại không
quan tâm đến khoản trả nợ mình từng thiếu trước đây. Những chúng sinh kia tự
nhiên phải đến đòi nợ anh. Nếu anh có thể thành tâm sám hối tụng Kinh Địa Tạng
hồi hướng cho chúng, nhất định sẽ được chúng tha thứ.
Hai tháng sau, lúc tôi gặp lại anh ở
Hàng Châu, thấy anh mặt mày hồng hào tươi tỉnh, ác bệnh đã hết.
Cho nên không hiểu biết để lo sám hối
cũng là vô minh. Tất cả chúng sinh đều có Phật tính, đều biết thiện ác, biết
thông tình đạt lý. Phát tâm sám hối cũng là Bồ đề.
Phật pháp là diệu pháp, là pháp rất khó
tin nổi. Nếu bạn đọc đoạn văn trên mà minh bạch đạo lý và không nghi ngại gì,
thì ngay đây hãy bắt đầu thử nghiệm. Nên đặt mình vào vị trí những oan gia có
mâu thuẫn đối nghịch mà suy xét, tìm cho ra lỗi lầm của mình. Nếu thật lòng đặt
mình vào lập trường của họ để suy xét, nhất định sẽ tìm ra chỗ không đúng của
mình, được vậy thì sẽ buông xả được tâm sân hận, buông xả được tâm sân hận rồi ắt
sẽ sinh khởi tâm Bồ đề và còn tự trách: “Vì sao muộn như thế này mình mới thông
hiểu Phật lý? Để hết lần này đến lần khác làm lỡ mất cơ hội thử nghiệm giúp
thăng hoa bản thân. Mình thật quá ngu si!”
Có được tâm sám hối như thế rồi cho dù
còn chút miễn cưỡng cũng không hề chi vì sau này mỗi ngày trong tâm bạn đều sẽ
theo dõi, âm thầm nhìn và quan sát những sự tình phát sinh, ngay cả lúc bị đối
phương lăng mạ, phỉ báng, không những bạn chẳng khởi tâm oán hận họ mà ngược lại
còn mỉm cười nhìn đối phương, nói lời cảm ân hoặc xin lỗi, tự nhiên tận đáy
lòng buông được tâm sân hận. Không những thế bạn còn có thể vì đối phương ở trước
Phật, tụng ba hoặc bảy bộ Kinh Địa Tạng, khẩn cầu chư Phật, Bồ-tát gia trì cho
họ được mạnh khỏe, công tác thuận lợi.
Bạn thử làm như tôi bày xem, có lẽ sẽ có
người nói: Làm vậy chẳng khác nào tự biến thành Phật tử ngu ngốc, đần độn! Quả
thực là vậy đó, nhưng tôi xin chúc mừng bạn. Vì trong Phật môn giảng: “Dưỡng
thành đại ngu mới là khéo, tu đến như si mới diệu kỳ”, nghĩa là đem bản thân
mình chuyển thành một kẻ thuần phác, không có chút vết tích gian lanh xảo trá
thì sự việc hy hữu sẽ lộ diện. Bạn có muốn thử không? Thế thì hãy tu và thực
hành từ ba đến sáu tháng xem sao? Khi đó bạn nhất định sẽ minh bạch đạo lý, thấy
tất cả đều là Bồ-tát và tất nhiên sẽ sinh lòng cảm ân bất tận.
Tôi dùng biết bao văn tự để giải thích đạo
lý “Báo Phật ân, Sư ân, Chúng sinh ân…” vì muốn khuyên hàng sơ học lấy đây tăng
thêm tín tâm tu đạo. Đến khi bạn thực sự có trí tuệ rồi, bạn tuyệt chẳng còn muốn
mưu cầu danh lợi gì cho mình nữa. Nhất định sẽ tiến lên cao, phát tâm Bồ đề, tự
độ và độ người để báo ân Phật.
Không những đời này phát Bồ đề tâm, tinh
tấn tu hành, hóa độ chúng sinh, mà tương lai đời đời kiếp kiếp ắt phát đại thiện
nguyện, khiến Bồ đề tâm tương tục bất đoạn.
Bồ đề tâm không nhất định là phải gặp Phật
mới phát, mà gặp Thiện tri thức cũng có thể phát. Do vậy người trí huệ không thể
vọng sinh phân biệt, khởi ý xem thường, phải nuôi chí cầu Phật pháp, khát ngưỡng
học Đại thừa, y theo kinh Phật mà suy xét phân tích việc thế gian. Không thể do
người mà từ bỏ pháp, hiểu rõ chuyện gặp tất cả thiện ác tri thức, đều có thể tạo
thành nhân duyên phát Bồ đề tâm.
Gặp người oán hay không oán, người thân
hay chẳng thân, trong lòng tình ái chẳng khởi, đối với chúng sinh bình đẳng như
nhau. Nguyện mọi người nhờ điểm thiện này mà phát Bồ đề tâm, đạt được giải
thoát. Nếu mọi người đều có thể như thế tin hiểu phụng hành, nhất định sẽ biết
đấy là chân ngữ thật ngữ, không phải tùy tiện mà nói.
Phát Bồ đề tâm, hành đạo Bồ-tát, độ tất
cả chúng sinh như cứu người trong biển lớn, mình cũng phải vào biển khổ. Chúng
sinh thọ khổ, toàn mê không giác, cho nên mới khổ vô biên. Bồ-tát cứu khổ, giác
mà không mê, cho dù không lìa biển khổ, nhưng ở đâu tâm cũng an. Chẳng những đời
này độ chúng sinh, mà vị lai sinh nơi tam đồ bát nạn, cũng chẳng xả bỏ Bồ đề
tâm vô thượng.
Lại nữa, chỉnh sửa tập khí là rất khó, rất
khổ; thậm chí khó thể nhẫn chịu nổi, giống như kẻ nuốt nhầm độc dược phải tống
được nó ra. Nhưng bạn vĩnh viễn không thể mong bụng người khác ói độc ra thay
cho mình. Tu hành cũng chẳng được nôn nóng mong cầu thành tựu, chư Phật, Bồ-tát
tùy thời sẽ gia trì chúng ta. Nhưng trước nhất chúng ta phải nhả hết độc dược
chứa trong lòng từ vô thỉ kiếp đến nay, mới có thể nếm được vị ngọt cam lộ. Đây
chính là đạo lý nhả cũ nạp mới.
Đời này chúng ta quy y bái Tam bảo làm
thầy, nhưng vị sư phụ hướng dẫn người bước đi trên đường học Phật đó, chỉ là đại
diện Phật tiếp nhận đệ tử quy y Tam bảo. Sau khi quy y rồi thì chính mình phải
tự bước đi trên đường tu, chứ không phải bái sư xong là vạn sự đều tốt lành thuận
lợi. Chẳng thấy A-nan ngày ngày ở sát bên Phật nghe kinh thính pháp, nhưng do
không tu định, suýt nữa thì bị Ma Đăng Già dụ dỗ phá giới. Cho nên đệ tử Phật
không nên chấp trước vào các hành vi xoa đỉnh gia trì – khi sờ đỉnh là Phật
chúc lụy đại pháp nên mới sờ đỉnh đệ tử hoặc xoa đỉnh thọ ký – Như trong kinh
Pháp Hoa phẩm Chúc Lụy có thuyết: “Phật Thích Ca từ pháp tòa đứng dậy, hiện đại
thần lực đưa tay phải xoa đỉnh vô lượng vô biên Bồ-tát và nói rằng…” và ngay
trong Kinh Địa Tạng, Phật cũng xoa đỉnh Bồ-tát Địa Tạng, đây đều là chúc lụy Phật
pháp tuyệt không có ý nói vừa xoa đỉnh thì lập tức thành tựu.
Chúng ta quy y rồi, phải nghe kinh suy
ngẫm, phát trí, biết tự thanh tịnh ý mình, y giáo phụng hành mới có thể đạt lợi
ích.
BÀ
HỌ TÂN
Thành phố nọ có một bà họ Tân, khoảng
năm mươi mấy tuổi, sự nghiệp thành công, gia đình giàu có, quy y Phật đã nhiều
năm, bà hướng tôi kể lể những phiền não vô tận của bà:
Bà có đưa con gái tên Minh Lan, bẩm sinh
não bên trái phát triển kém, nên ngôn ngữ hành vi không bình thường. Chỉ người
thân mới hiểu được những gì nó muốn nói. Hơn nữa hễ gặp tình huống lính quýnh
phiền bực là chứng động kinh phát tác.
Hai mươi năm nay, bà vì con nếm đủ vất vả
gian lao, không cần kể cũng hình dung được, nhưng mới đây lại xảy ra một việc
phiền toái nữa.
Lý Sơn là nhân viên bảo an khu vực thuộc
bà cư ngụ nên hay lui tới chơi. Sẵn tiện bà cũng nhờ anh trông chừng Minh Lan
dùm, đừng để nó đi ra ngoài (sợ con mình đi lạc không biết đường về nhà). Do
Minh Lan thường tiếp xúc với anh Lý, nên dần dà phát sinh tình cảm, cô hay lấy
thức ăn nhà mình đem cho Lý Sơn, anh đối với cô cũng rất thân mật. Khi bà Tân
phát hiện ra điều này, thì nảy ý muốn lo hôn sự cho con gái.
Nhưng gia cảnh Lý Sơn rất nghèo, đến giờ
vẫn còn mang nợ ngập đầu. Anh ta ra điều kiện với bà nếu muốn anh cưới Minh Lan
thì trước tiên bà phải lo trả nợ thay cho gia đình anh. Điều này chúng tỏ Lý
Sơn chẳng hề có tình cảm yêu thương gì đối với Minh Lan. Phần Minh Lan thái độ
cũng thất thường, hễ bàn đến việc lấy chồng thì cô bảo chưa muốn kết hôn sinh
con, thế nhưng suốt thời gian Lý Sơn về quê, do không được gặp anh nên cô hay
phiền bực, cáu gắt. Là mẫu thân nên bà rất lo, nếu con cứ như thế mãi thì e rằng
chứng động kinh sẽ bạo phát.
Bà Tân rất thắc mắc, muốn biết do nghiệp
báo nào mà mình lại sinh ra đứa con khuyết tật, bệnh hoạn như thế? Dù nhà bà
giàu có, tiền của kiếm được nhiều, nhưng lại không thể mua được hạnh phúc an
vui. Bà hy vọng tôi có thể giải thích cho bà hiểu rõ duyên cớ.
Tôi quán sát một hồi rồi kể bà nghe:
Vào những kiếp trước, Minh Lan có một đời
đi lính, là võ quan X. Ở quê nhà đã có vợ thay ông chăm lo hầu hạ mẹ chồng.
Nhưng ông X này tính xấu tàn tệ, ở trong quân đội ngoài việc tạo nhiều sát nghiệp
ra, ông còn phạm lắm tội như khinh nam hiếp nữ, rất ưa làm chuyện hái liễu bẻ
hoa, khi nào tiện thì gửi cho gia đình ít tiền nhưng rất ít khi chu cấp cho vợ.
Sau khi bị chết trận rồi thì ông X đọa
vào địa ngục, mãn kiếp địa ngục thì sinh làm heo rừng. Phần vợ ông lo hầu hạ mẹ
chồng mãi cho đến khi bà qua đời, nàng vẫn tiếp tục sống cô độc khốn khổ cho đến
khi tạ thế.
Bà Tân kiếp trước từng là quan văn, Y từ
nhỏ nhờ cha mẹ tin thờ Phật nên Y thường cúng dường Tam bảo. Một lần cùng bạn
bè đi săn, Y đã bắn trúng vào não trái con heo rừng khiến nó ngã lăn ra chết và
bọn họ làm thịt, nướng ăn.
Nhờ đời trước ưa cúng dường Tam bảo nên
đời này bà Tân được giàu sang. Riêng ái nữ Minh Lan, chính là con heo từng bị
bà bắn chết, Minh Lan do tạo tội ác bị đọa địa ngục, nên đời nay dù được sinh
làm người nhưng lục căn chẳng đủ, đây là dư báo của kiếp làm võ quan háo sắc,
sát sinh, tạo nhiều tội ác.
Bà Tân nhờ kiếp trước tin Phật rộng tạo
phúc điền, nhưng không giữ giới sát, ưa đi săn bắn giết chóc, vì vậy mà chiêu lấy
ác báo. Con heo bị bà giết chết đầu thai sinh vào làm con, khiến ngay trong đời
này bà phải gánh lấy phiền khổ vô tận. Người vợ đời trước bị võ quan bỏ bê, sống
đời cô khổ, nay chính là nhân viên bảo vệ Lý Sơn.
Hiện tại, bà Tâm phải sửa đổi mình, trước
tiên cần sám hối tội lỗi giết con heo rừng kiếp xưa, phải vì nó mỗi ngày tụng
Kinh Địa Tạng cầu hóa giải oán hận. Cũng phải thường xuyên dẫn Minh Lan đến
chùa, cho tham dự các pháp hội để nó được gieo duyên lành với Tam bảo, không
nên nhốt nó mãi trong nhà, vì làm như vậy là thất sách. Rất cần cho nó tập tiếp
xúc làm quen với bên ngoài. Bằng không, Minh Lan ngày nào cũng bị giam hãm tù
túng, cứ quẩn quanh ở nơi cư ngụ, khiến tầm nhìn bị gò bó hạn hẹp, như thế thì
chắc chắn bà sẽ phải gả nó cho Lý Sơn.
Mà thực ra Lý Sơn có mưu đồ muốn chiếm
tiền bạc gia sản nhà bà, nên bất đắc dĩ phải cưới Minh Lan, vì vậy sau khi kết
hôn xong anh ta sẽ nhàn nhã đi hái hoa bắt bướm, viện cớ là phải chăm sóc Minh
Lan nên không thèm làm việc gì, tương lai anh sẽ ở nhà họ Tân diễn cảnh ngồi
không ăn núi cũng lở. Còn bà Tân không những phải dùng tiền để trả nợ mình đã
thiếu mạng con heo, còn phải thay con heo trả khoản nợ đó đã thiếu cô vợ trong
kiếp trước.
Kể xong tôi kết luận:
Trong các tội, sát sinh là nặng nhất, nếu
không đoạn trừ ăn mặn, thì sau này sẽ khổ vô biên. Mong bà phát tâm tu sửa để
lìa khổ, không những phải sám hối các tội mình đã tạo ra, mà còn phải độ cho
Minh Lan và Lý Sơn, giúp cả hai bước vào con đường học Phật.
Tôi xin đem công đức viết ra câu chuyện
cảnh tỉnh thế nhân này, hồi hướng cho bà Tân và Minh Lan, hy vọng họ nỗ lực học
Phật tinh tấn, cầu Minh Lan trí huệ tăng trưởng, tương lai có thể tự lo liệu được
cho đời sống của mình.
Sám
văn:
Đệ
tử chúng con tên… ngày nay ở trước mười phương Tam bảo, phát tâm Bồ đề, nguyện
từ nay cho đến thành Phật, tu đạo Bồ tát không thối lui; hằng sinh tâm độ thoát,
che chở chúng sinh; chúng sinh chưa thành Phật, chúng con thề không chứng quả
trước chúng sinh.
Nguyện
xin hết thảy mười phương chư Phật, chư Đại Bồ-tát, hết thảy thánh hiền, chứng
minh, khiến hết thảy hạnh nguyện chúng con đều được thành tựu.
Giải thích:
Nhiều đời tích lũy thiện nghiệp, phúc đức,
mới có thể mang được thân người ngày nay. Nếu không thể xuất ly tam giới, không
thoát được khổ sinh già bệnh chết, thì khi mệnh hết phúc tận, lại sa vào cõi
ác. Biết bao giờ mới gặp lại Phật pháp để mà tu? Điều này rất khó được. Nếu đời
này không lập đại nguyện, phát tâm Vô thượng Bồ đề, thành tựu đạo nghiệp, thì
sau này chẳng có hy vọng đâu. Bởi vậy hôm nay đại chúng nhờ Phật duyên dẫn dắt
tụ hội cùng nhau, không nên để lỡ mất duyên lành, nhất định phải tha thiết phát
tâm Vô thượng Bồ đề.
Sám
văn:
Kinh
Đại Tập dạy rằng: “Ví như trong nhà tối trăm năm, chỉ thắp một ngọn đèn, thì có
thể phá tan si ám. Vậy chớ nên cho một niệm phát tâm là nhỏ, là không quan trọng,
mà chẳng nỗ lực”.
Đệ
tử chúng con tên… từ nay trở đi cho đến ngày thành Phật, tâm không đắm trước
cõi trời, cõi người, không cầu chứng tiểu quả Thanh văn, Duyên giác, mà chỉ cầu
Đại thừa, cầu được nhất thế chủng trí, cầu thành tựu quả Vô thượng Bồ đề, thành
bậc chánh giác.
Nguyện
xin hết thảy chư Phật, chư đại Bồ-tát, thánh hiền, đem sức bổn nguyện chứng
giám, hộ trợ, nhiếp thọ cho chúng con sinh ở đâu tâm đều kiên cố không thối
chuyển.
Giải thích:
Lời sám này, bất kể tương lai mang thân
gì, thọ khổ gì, cũng đều không thối mất đạo tâm hôm nay.
Khi tâm tư mê tối, thân khẩu ý hành sự
điên đảo ngu si, cử tâm động niệm không chi mà chẳng phải tội, chẳng là nghiệp.
Nguyện: Thâm nhập kinh tạng, trí huệ tăng trưởng, nghiêm trì giới luật, tu sửa
bản thân, hướng dẫn chúng sinh có duyên với mình thâm nhập tri kiến Phật, thành
tựu đạo nghiệp.
CHƯƠNG
5 – PHÁT NGUYỆN
Nguyện
Tam bảo gia hộ chúng con tên… có những thệ nguyện gì, đều được thành tựu, sinh ở
đâu thường không quên mất các lời nguyện hôm nay và được viên mãn Vô thượng Bồ
đề, thành chánh giác.
Nguyện
từ nay trở đi, đời đời kiếp kiếp, dù ở khắp mọi nơi chúng con thường nhớ đến
phát tâm Bồ đề, khiến tâm Bồ đề tương tục không đoạn, thường được phụng sự,
cúng dường vô lượng vô biên hết thảy chư Phật, Bồ-tát, ân sư, thường được hộ
trì hết thảy kinh điển Đại thừa phương đẳng, lễ phẩm cúng dường luôn được đầy đủ.
Từ
nay trở đi, nguyện đời đời kiếp kiếp, thường được phụng dưỡng báo ân sâu của
cha mẹ, muốn dâng cúng gì cũng không thiếu.
Nguyện
từ nay trở đi, đời đời kiếp kiếp thường được gặp gỡ hết thảy vị quốc chủ có đại
thế lực cùng chúng con hưng hiển Tam bảo, làm cho Phật pháp không đoạn tuyệt.
Thường được trang nghiêm cõi nước của chư Phật, các cõi ấy không có những danh
từ tam ác, bát nạn. Nguyện bốn vô ngại trí, sáu thần thông hằng được hiện tiền,
dùng đây để giáo hóa hết thảy chúng sinh.
Giải thích:
Phát nguyện vô cùng quan trọng đối với
người học Phật, vì nghiệp lực chúng sinh không nghĩ lường thì nguyện lực cũng
không thể nghĩ lường. Nếu muốn thành Phật, nhất định phải phát Bồ đề tâm, lập Bồ
đề nguyện. Chư Phật, Bồ-tát trong lúc tu nhân đều phát đại nguyện, Phật Thích
Ca có 500 đại nguyện. Phật A Di Đà có 48 đại nguyện, Phật Dược Sư có 12 đại
nguyện, Bồ-tát Văn Thù và Phổ hiền có mười đại nguyện.
Sám
văn:
Nguyện
nhờ oai đức từ bi của chư Phật, chư đại Bồ-tát và hết thảy Hiền Thắng Tăng khiến
chúng con sinh ra nơi nào những thệ nguyện đã phát, đều được tùy tâm tự tại.
Nguyện
tu đạo Bồ-tát, không bị chướng nạn trở ngại. Chúng con đến đâu cũng thường kiến
lập đạo tràng, làm đại Phật sự; tâm được tự tại, vào được hết thảy các môn thiền
định, mở cửa tổng trì, rõ bày Phật quả, rưới nước cam lồ, trừ ma oán cho chúng
sinh; khiến các chúng sinh được pháp thân thanh tịnh nhiệm mầu.
Lại
nguyện hết thảy thiên chủ, tiên chủ, thiện thần, long thần v.v… đem thiện căn từ
lực, vì ủng hộ Tam bảo mà ngay đây chứng giám cho chúng con khiến chúng con tất
cả hạnh nguyện đều được viên mãn, tùy theo ý muốn.
Giải thích:
Nếu có trí huệ thì những việc ta làm đều
không phí hoài, có thể tùy bệnh cho thuốc. Trong Kinh Di Giáo, Phật thuyết:
“Chư Tỳ kheo các ông nếu có trí huệ không tham trước, thường tự tỉnh giác,
không để phạm lỗi, nên được giải thoát. Nếu chẳng như thế, là kẻ phi đạo, cũng
chẳng phải là hàng bạch y, cũng không có danh gọi chi”.
Người có trí huệ sẽ như thuyền kiên cố
vượt qua biển sinh lão bệnh tử, là đèn lớn soi phá si ám vô minh, là thuốc hay
chữa lành tất cả bệnh, là búa bén chặt đứt cội rễ phiền não. Vì thế nên các ông
cần huân bồi văn, tư, tu để phát huệ mà tự tăng lợi ích. Người có trí huệ, dù
không có thiên nhãn, nhưng vẫn là kẻ có kiến giải sáng suốt.
Người có trí ắt thường tự tỉnh giác quán
sát, không để phát sinh bất kỳ lỗi lầm nào. Phật nhiều lần tán thán, nói rằng:
“Chỉ có người tu hành như thế mới thật sự đạt được giải thoát” và Ngài ví họ
như thuyền kiên cố, có thể độ vô lượng chúng sinh thoát ly biển khổ, như đèn lớn
soi đường cho nhân sinh, những lời khai thị khéo léo của họ giống như thuốc thần
chữa lành bệnh người hữu duyên. Phật ví phiền não như đại thọ, nhưng hễ người
có phiền não mà nghe vị có trí huệ dạy, thì sẽ thường phản tỉnh tự quán sát
không để phạm lỗi, giống như búa bén chặt cây, khiến phiền não tiêu trừ.
Đây gọi là phương tiện trí huệ tùy căn
hóa độ, tùy bệnh cho thuốc.
Phật dạy nếu là đệ tử Ngài đều phải tuân
hành, y theo giới Phật, thường tự tỉnh khéo quan sát mình không để phạm lỗi. Được
vậy thì tu bất cứ pháp gì đều có thể thành tựu. Bằng không thì chẳng phải là kẻ
tu hành, nói gì đến thành tựu?
Sám
văn:
Chúng
con trong quá khứ, hiện tại, vị lai nếu có khởi ra bao nhiêu thiện nghiệp nhiều
ít chi, thảy đều hồi hướng cho tất cả chúng sinh cùng hướng về Vô thượng Bồ đề.
Chúng
con phát tâm, phát nguyện rồi. Xin chí thành đảnh lễ thế cho: Quốc chủ, nhân
dân, phụ mẫu, sư trưởng, bà con nhiều đời, quyến thuộc nhiều kiếp, thiện ác tri
thức, chư thiên chư tiên, hộ thế tứ vương, chủ thiện phạt ác, thủ hộ trì chú,
ngũ phương long vương, long thần, bát bộ hết thảy linh kỳ, quá khứ, hiện tại, vị
lai cùng hết thảy người oán kẻ thân và không phải oán thân, hết thảy chúng sinh
trong bốn loài, sáu đường mà quy y thế gian Đại Từ Bi Phụ.
Giải thích:
Đối với tất cả chúng sinh phải từ bi hỷ
xả, ác tri thức cũng là tri thức, giúp chúng ta thành tựu. Cho nên cần phải
thay ác tri thức quy y Tam bảo, hy vọng họ sớm đoạn ác tu thiện thoát ly cõi khổ,
thành tựu Phật quả.
Sám
văn:
Đại
Thánh Thế Tôn. Uy nghiêm cao tột. Thần trí nhiệm mầu. Là vua chư Thánh.
Tam
đạt chiếu tỏa. Chúng tà ẩn tàng. Thấy ác liền cứu. Thuốc lành Tế khổ.
Giải thích:
Tam đạt: Thiên nhãn, Túc mệnh, Lậu tận
thông (nơi La hán gọi là Tam minh, nơi Phật gọi là Tam đạt). Vì không những
không biết mà còn sáng nên gọi là minh; không những minh là còn thông đạt nên gọi
là đạt.
Lậu tận thông: Là đoạn trừ tất cả phiền
não tham sân si mạn nghi v.v… bao gồm phiền não thô lẫn tế.
Lậu: Gồm tài, sắc, danh, thực, thùy, bạn
chấp trước gì, tham ái đều là lậu. Nếu đem so xác thân chúng ta với một cái
bình nhựa, thì bạn tham tài giống như dùi vào bình một lổ, tham danh thì dùi một
lổ, tham lợi, sắc, ăn, uống, chơi, ngủ v.v… mỗi mỗi đều dùi một lổ, như vậy
bình này có vô số lổ.
Nam nữ hành dâm là đại lậu, gây ra lổ thủng
lớn nhất. Cho nên hễ đa hành dâm thì tinh mệt lực tận, sẽ khiến người mau mất mạng.
Hãy nghĩ xem, nếu một cái bình có đầy lổ
thủng lớn nhỏ chi chít, thì đã thành đồ rỉ chảy, muốn chứa đầy nước cũng không
làm sao được, bởi có quá nhiều rò rỉ.
Cho nên người tu cần phải hành pháp gì để
thành tựu?
Phải hành pháp tu bổ, ngăn rỉ lậu tự
thân. Ngài Tuyên Hóa giảng có sáu cách: Không tranh, không tham, không cầu,
không tự tư, không tự lợi, không vọng ngữ. Chữ cầu trong cụm từ không cầu bao gồm
ý “Nam cầu nữ, nữ cầu nam”, nói đơn giản là phải đoạn dục khử ái, vậy nên đoạn
dục nào, khử những ái nào?
Trong giới luật Phật giảng cho đệ tử có
liệt kê rất nhiều: Là đệ tử Phật thì phải nhiếp tâm giữ giới, nhân giới sinh định,
nhân định sinh huệ gọi là tam vô lậu học. Lậu tức là dục, có dục thì có phiền
não, dục hết thì phiền não hết. Phiền não hết thì trí huệ bừng khai đắc tam
thân, trí huệ, ngũ nhãn lục thông, cứu cánh viên mãn, cùng trí huệ Phật tương
thông! Cho nên trong tám vạn bốn ngàn pháp môn, chúng ta tu pháp gì cũng đều được
cả, miễn là đừng quên ngăn rỉ lậu. Nếu không bít lổ thủng, thì tu pháp gì cũng
không thành. Nếu lúc nào cũng biết bít lậu, thì bất luận là xuất gia hay tại
gia, bất kể bạn tu tông phái nào, đều có thể thành tựu Tam đạt Phật trí.
Sám
văn:
Chúng
con nguyện nhờ công đức phát tâm này mà quốc chủ hiện tại và quyến thuộc của họ
từ nay trở đi cho đến ngày thành Phật hằng quên mình vì đạo như chư Bồ-tát.
Lại
nguyện cho thân sinh phụ mẫu, nhiều kiếp thân quyến, nội ngoại gần xa, từ nay
trở đi cho đến ngày thành Phật, có thể biến thân khắp thế giới như chư Bồ-tát,
đủ mọi công đức, nghe pháp sinh tâm vui mừng, thần lực dũng mãnh. Nguyện từ nay
trở đi mọi người đều được vô úy. Giáo hóa gieo ảnh hưởng lớn.
Nguyện
những người xuất gia, tại gia, tín thí đàn việt, thiện ác tri thức và quyến thuộc
của các vị ấy từ nay trở đi cho đến ngày thành Phật, giải hết nguy ách, tướng mạo
trang nghiêm, khéo xả nghiệp chướng.
Nguyện
cho chư Thiên, chư Tiên, Hộ thế tứ vương, thông minh chánh trực, Thiên địa Hư
không, chủ thiện phạt ác, Thủ hộ trì chú, ngũ phương long vương, Long Thần Bát
bộ, các kỳ nhân u hiền và bà con quyến thuộc của Phật, có lòng đại từ che chở
khắp chúng sinh.
Nguyện
cho hết thảy chúng sinh từ nay trở đi cho đến ngày thành đạo, tâm không ái nhiễm.
Nói lời nhiệm mầu khôn khéo, tu hành tinh tấn, có thiện nguyện lớn. Có đủ oai
thần, tất cả công đức, hạnh nguyện mỗi mỗi thành tựu trang nghiêm thành bậc
Chánh giác đồng như chư Phật.
Giải thích:
Trong sinh hoạt thực tế, không hiểu Phật
pháp thì là phàm phu: Ôm phiền não vô tận, khổ vô biên. Nếu minh bạch Phật
pháp, thì phải áp dụng trong thực tế, giữ tâm mình thanh tịnh, đoạn ác tu thiện,
viễn ly tài, sắc, danh, lợi… như như bất động, được vậy sẽ hay chuyển phiền não
thành Bồ đề thì giác ngộ, là Phật. Tự tính vốn viên minh, thanh tịnh vô nhiễm,
bỏ hết vọng tưởng chấp trước tức là Phật. Nhẫn những điều khó nhẫn, hành những
điều khó hành, chịu nhọc thay người, thành nhân chi mỹ. Thường thấy lỗi mình,
chớ nói chuyện phiếm, chớ bàn lỗi người. Đi đứng nằm ngồi mặc áo ăn cơm, từ
sáng đến tối, một câu niệm Phật chẳng gián đoạn, xem tất cả mọi người là Bồ-tát,
chỉ có mình là phàm phu. Có thể y theo đây mà tu, quyết định giải thoát, lìa khổ
được vui.
CHƯƠNG
7 – NÓI RÕ QUẢ BÁO
Vì
ác nghiệp mà phải đọa trong ba đường dữ, đi khắp ác thú, sinh ra ở nhân gian phải
chịu quả báo đau khổ. Quả khổ này đều do nhân đời trước chiêu cảm nên xả thân
này chịu thân khác cứ trả báo mãi mãi không thôi.
Bởi
thế chư Phật và Bồ-tát dùng thiên nhãn xem, thấy chúng sinh trong ba cõi khi hết
phước rồi, cứ theo nghiệp mà đọa vào các chỗ khổ. Thấy chúng sinh từ cõi trời
vô sắc giới hết phước mạng chung, đọa xuống cõi trời dục giới. Vì hết phước nên
có khi cũng đọa làm cầm thú. Những chúng sinh ở cõi trời sắc giới, khi hết phước
phải đọa, từ chỗ thanh tịnh đọa xuống dục giới là chỗ không thanh tịnh, từ chỗ
không thanh tịnh lại thọ dục lạc. Chúng sinh ở sáu cõi trời dục giới khi hết
phước cũng đọa xuống địa ngục chịu vô lượng khổ.
Chư
Phật và Bồ-tát nhìn thấy chúng sinh nhân gian, nhờ tu thập thiện được sinh làm
người. Nhưng thân người có lắm khổ, khi mạng chung phần nhiều lại đọa vào các
đường ác.
Lại
thấy chúng trong cõi súc sinh chịu lắm khổ, bị đánh đập, chở nặng, đi xa, nếm
đau đớn cắt da, chịu trầy vai trợt cổ, bị sắt nung đóng dấu.
Lại
thấy cõi ngạ quỷ thường đói khát, hằng bị lửa thiêu thân. Nếu không có chút thiện,
vĩnh kiếp không thể giải thoát. Nếu có được chút phước, thì được sinh lên làm
người nhưng thân hình gầy yếu, nhiều tật bệnh và bị yểu mạng chết non.
Giải thích:
Do thời gian bất đồng, một ngày ngắn ngủi
tại nhân gian thì ở địa ngục có thể là trăm ngàn năm rồi.
Có người lý luận: “Tôi mà chết rồi, thì
sẽ nhờ con cái siêu độ cho, nên bây giờ dẫu ăn chút thịt nào có nhằm gì”. Ai mà
ôm quan niệm này, xin hãy xem Kinh Địa Tạng, trong đó ghi rõ:
“Đều là do chúng sinh trong cõi
Diêm Phù Ðề làm những điều ác mà tùy nghiệp chiêu cảm ra những địa ngục như thế.
Nghiệp lực rất lớn, có thể sánh với núi Tu di, có thể sâu dường biển cả, có thể
ngăn đạo thánh. Vì thế chúng sinh chớ khinh điều quấy nhỏ mà cho là không tội,
sau khi chết đều có quả báo dầu đến mảy mún đều phải chịu lấy. Chí thân như cha
với con, mỗi người cũng theo nghiệp của mình mà đi khác đường, dầu có gặp nhau
cũng chẳng bằng lòng chịu khổ cho nhau”.
Người sát sinh, tạo nghiệp xấu nhiều, một
khi chết đi sẽ lập tức đọa vào địa ngục, không cần mang thân trung ấm trải qua
49 ngày chờ đầu sinh.
Cho nên tôi khuyên các bạn, đã tin Phật
rồi thì nên mạnh dạn dứt tuyệt đồ mặn, nguyện ăn chay trường, hãy từ bỏ và đừng
ỷ y vào thuyết có thể ăn tam tịnh nhục. Bởi vì đây là phương tiện tạm Phật dành
cho người sơ học do không thể một lần dứt tuyệt đồ mặn ăn chay trường nên tạm
cho họ phương tiện, để họ dần dần sinh khởi từ tâm. Trước tiên cho họ tịnh tay,
nhãn, nhĩ nghĩa là tạm được ăn ba loại thịt không do mình ra tay giết, mắt
không thấy người giết, tai chẳng nghe tiếng vật rên xiết lúc bị giết. Gọi đây
là tam tịnh nhục và khuyên họ ăn chay mười ngày trai, tất cả đều là phương tiện
tạm mà thôi.
Sám
văn:
Đại
chúng nên biết: Thiện ác như hai bánh xe lăn chưa từng tạm nghỉ, quả báo cũng
tiếp nối xoay vần không dứt. Sang quý bần tiện, tùy nghiệp tạo ra, đều do gieo
nhân nên mới chiêu quả. Vì vậy kinh nói:
Làm
người giàu sang, quốc vương, trưởng giả là do đời trước lễ bái phụng sự Tam bảo.
Làm
người đại phú là do đời trước bố thí.
Làm
người sống lâu là do đời trước giữ giới bất sát.
Làm
người xinh đẹp là do nhẫn nhục.
Làm
người có tài, sáng suốt, hiểu rộng thấy xa là do tu trí huệ.
Làm
người có âm thanh trong trẻo là do hay ca vịnh tán thán Tam bảo.
Làm
người sạch sẽ không bệnh là do có từ tâm.
Làm
người cao lớn xinh đẹp là do nhân khiêm cung.
Làm
người thấp lùn là do tính kiêu căng, khinh người.
Làm
người xấu xí là do hay sân giận.
Làm
người ngu si là do không chịu khó học hỏi.
Làm
người đần độn là do không chịu dạy bảo người.
Làm
người câm ngọng là do đời trước hay nói lời dối gian, hủy báng Tam bảo.
Làm
người hạ tiện, bị kẻ khác sai khiến là do đời trước mắc nợ người không trả.
Làm
người da đen xấu xí là do đời trước ngăn che ánh sáng quang minh của Phật.
Giải thích:
Để ấn chứng câu làm người đại phú là do
bố thí mà nên tôi xin kể câu chuyện Phạm Trọng Yêm:
Lúc Phạm Trọng Yêm hai tuổi thì cha mất.
Mẹ ông do nhà nghèo nên bất đắc dĩ phải tái giá. Khi ông tạm lớn chút, hiểu việc
rồi, liền gạt lệ từ biệt mẫu thân đến ở nhờ nơi Phật tự khổ học.
Cũng nhờ thiện duyên này, mà từ nhỏ sớm
được nghe Phật pháp, nhờ ông cần khổ phấn đấu, siêng năng học tập. Lớn lên lại
có tính ưa bố thí hành thiện, rộng gieo phúc điền.
Lúc ông làm quan thì lo tu sửa chùa,
cúng dường chư Tăng tại xứ đó.
Hồi Phạm Trọng Yêm còn ở chùa học tập, từng
phát hiện ra cái hầm chôn dấu vàng trong chùa nhưng ông không chiếm lấy, mà cho
lấp lại che như cũ, chẳng lấy một tơ hào.
Đến lúc ông ra làm quan, khi tăng chúng
cần trùng tu chùa hư nát, cầu cứu ông, ông mới bảo tăng nhân trong chùa, hãy lấy
vàng này ra tu bổ tự viện.
Vào cuối đời, ông lại hiến nhà mình cho
tự viện, bổng lộc mấy mươi năm dành hết vào việc tạo phúc điền, hành thiện tích
đức.
Ông từng thiết lập Nghĩa Điền để cung cấp
nuôi dưỡng ba trăm hộ con em nhà nghèo. Khi ông nghe thầy phong thủy nói nhà
ông tại Tô Châu có phong thủy tốt, đời con cháu ắt sẽ làm nên chức công khanh,
thì lập tức cho đổi nhà này thành trường, thu nhiều con em đến học, lấy đây làm
cơ sở giáo dục đào tạo nhân tài cho quốc gia. Tục ngữ có câu giàu không quá ba
đời, nhưng gia tộc Phạm Trọng Yêm lại hưng vượng 800 năm, 4 con Phạm Trọng Yêm
không những quý hiển đến chức công khanh, có đạo đức tột cao, mà còn luôn noi
theo phong cách của cha xả tài cứu đời, con cháu họ làm quan tại triều nhiều đời
không dứt.
Nhân quả báo ứng chân thật không dối,
như bóng theo hình, chưa từng đình chỉ.
Hôm nay chúng ta được tướng mạo cao đẹp,
giàu sang phú quý đều nhờ nhân lành đời trước đã gieo, nên mới chiêu cảm quả tốt
như thế.
Chỉ có người y theo Phật pháp tu hành, mới
có thể chuyển biến vận mệnh không tốt của bản thân, chẳng phải đời này tu đến đời
sau mới có thể chuyển, mà là tùy theo sự minh lý của bản thân và mức độ đoạn ác
tu thiện, mà vận mệnh sẽ bắt đầu phát sinh thay đổi ngay trong hiện tại. Không
những ác bệnh tiêu, sự nghiệp thuận lợi, mà ngay cả dung mạo, thân thể địa vị đều
có thể chuyển biến.
Thường giảng Phật pháp, da đen sẽ dần biến
thành trắng, thường niệm Phật, xướng danh Phật có thể khiến âm thanh chuyển
thành hay, dễ nghe. Người thường dùng hoa tươi cúng Phật, dung mạo sẽ đổi thành
mỹ lệ trang nghiêm, người ác cũng sẽ đứng xa mà kính.
Hiện nay trong nước, tôi nghe kể không
ít người nhờ ăn chay tụng Kinh Địa Tạng, tuy bệnh hoạn, dù chẳng trị lại không
cánh mà bay. Còn có nhiều thai phụ vì thai nhi tụng Kinh Địa Tạng thảy đều sinh
con khỏe mạnh, thông minh, như ý. Bạn đừng cho đây là chuyện thần thoại hay là
chuyện hoang tưởng, không tưởng! Xin hãy tìm xem các cuốn “Báo Ứng Hiện Đời”,
những chuyện tôi kể ghi trong đó toàn là người thực việc thực.
Được người trong cuộc đồng ý, tôi xin
đăng thư một vị độc giả cư sĩ gửi cho tôi, mục đích là để chư pháp lữ và người
có bệnh hiểu rõ nhân quả, nghiêm túc tuân giữ ngũ giới, dứt mặn ăn chay, chí
thành sám hối các tội đã làm, như vậy mới có thể tu hành chánh đạo, khiến ác bệnh
hồi phục.
Thư này họ viết cho tôi, nhưng do muốn độc
giả tin thư này hoàn toàn là sự thật, nên tôi chép y nguyên văn. Nhưng trước
khi in, tôi có cho đổi tên địa điểm và danh tính thực của người trong cuộc, hầu
tránh phiền toái cho đương sự. Hơn nữa có những từ người viết dành cho tôi quá
tán dương nhưng tôi biết mình rất rõ, nếu không phải do tôi may mắn được gặp Phật
pháp thì có thể tôi sớm đã đọa địa ngục rồi, tôi tuyệt không dám nhận những lời
này và không dám có chút tâm kiêu mạn tự đại.
Sau đây là nguyên văn lá thư:
Giáo
sư Quả Khanh tôn kính, vạn an!
Tôi
năm nay 37 tuổi.
Vào
mùa thu năm 2000, tôi phát hiện ngực mình có khối u, bác sĩ chẩn đoán khối u
đang phát triển sinh sôi, từ đây tôi bắt đầu chữa trị.
Đến
mùa xuân năm 2006, khối u nơi ngực tăng lớn dữ và lan đến phía dưới nách, tôi
đi Bệnh viện Nhân dân thành phố khám, kết quả là bị ung bướu tuyến sữa.
Ngày
mồng 6 tháng 3 năm 2006, tôi nhập viện tiến hành phẫu thuật cắt bỏ ngực, tổng cộng
trị liệu khoảng 6 lần. Trong thời gian trị liệu tôi làm theo lời hướng dẫn của
cha mẹ, hằng ngày tụng mười biến Chú Đại Bi, một bộ Kinh Địa Tạng.
Vào
ngày 25 tháng 7 thì tôi qui y Phật môn. Đồng thời thỉnh các sư cùng cư sĩ tụng
hai đợt Kinh Địa Tạng, mỗi đợt tụng 108 bộ.
Nào
ngờ đến trung tuần tháng 8 lại phát hiện mình có thêm mấy khối ung bướu nhỏ.
Theo như bệnh viện thành phố chẩn đoán là bướu đã lan đến gáy. Lập tức phải cho
xạ trị các vùng gáy, ngực và phối hợp với uống thuốc. Bác sĩ xác định:
-
Một khi ung bướu lây lan, muốn trị lành thì hy vọng không cao, cho dù có xạ trị
thì cũng không thể tiêu trừ ung bướu.
Lúc
này tôi và thân nhân đều rơi vào kinh hoàng, tôi như người không còn hồn vía
đang rơi vào hố thẳm tuyệt vọng, cảm giác như tử thần đang từng bước tiến đến
sát bên uy hiếp mình. Đã tiêu tốn hơn tám vạn rồi, mà không thể trị lành bệnh.
Cha mẹ tôi đều là người tin Phật, niệm Phật. Họ đã nhiều lần suy nghĩ: Vì sao
đã niệm Phật, tụng biết bao kinh chú, cũng đã tổ chức lễ siêu độ cho các oan
gia trái chủ rồi, nhưng do đâu mà không đạt được cảm ứng? Nhất định là chúng
tôi có làm sai chỗ nào đó.
Trong
lúc lâm vào đường cùng, tâm rối như tơ, vô phương giải quyết, thì cha tôi sực
nhớ đến người bạn đạo là Chu cư sĩ, ông quyết định dù thế nào cũng phải tìm cho
bằng được Giáo sư Quả Khanh, để cầu ngài giúp đỡ, giải thích cho chúng tôi hiểu
nguyên nhân là do đâu?
Nhờ
nhóm cư sĩ Thượng Hải giúp cho nên cuối cùng hôm mồng 6 tháng 4 thì chúng tôi
liên lạc được với ngài.
Khi
Chu cư sĩ kể bệnh tình của tôi, ngài rất nhiệt tình, rất từ bi, cho ngay đáp án
rằng:
1.
Hãy bảo bệnh nhân phải lập tức bỏ mặn ăn chay, nếu vừa ăn mặn vừa tụng kinh thì
không thể nào đạt được lợi ích.
2.
Phải chân thành tha thiết sám hối, những tội sát, đạo, dâm, vọng đã tạo trong đời
này, đặc biệt là các mối quan hệ tình ái lăng nhăng phải sám hối triệt để.
3.
Phải liên tục quỳ tụng Kinh Địa Tạng.
4.
Người nhà nếu ai bỏ mặn ăn chay cũng có thể tụng Kinh Địa Tạng trợ giúp.
Cơ
hội chỉ có một lần, bảo bệnh nhân ngàn vạn lần không nên bỏ qua, đừng làm lỡ mất
cơ hội này.
Khi
chúng tôi được ngài khai thị như thế rồi, cả nhà đều mừng rỡ và hổ thẹn. Mừng
vì gặp được giáo sư cứu tinh chỉ điểm, mạng tôi ắt được cứu. Hổ thẹn là rõ ràng
mình biết không nên ăn mặn, đã hiểu rõ tội mình sâu nặng nhưng lại không chân
thành sám hối.
Từ
lúc được ngài chỉ dạy rồi, hằng ngày tôi tụng Chú Đại Bi, Kinh Địa Tạng. Đêm đến
vào buổi khuya yên tĩnh, tôi quỳ trước Phật, Bồ-tát chí thành chắp tay rơi lệ
đau khổ thống thiết, sám hối từng tội lỗi mình đã tạo trong đời này, kể ra hết
những việc mà không ai hay biết, đồng thời tôi lễ bái ngài Tuyên Hóa, cầu ngài
từ bi gia hộ, cứu vớt tôi.
Tôi
cứ làm như vậy, thì chưa đến mười ngày, vô tình phát hiện ung bướu của mình đã
tiêu, đúng là tật bệnh không cánh mà bay, Phật pháp quả là huyền diệu vô biên,
không thể nghĩ lường. Phật lực cũng huyền diệu không thể nghĩ lường!
Tôi
đến bệnh viện thăm một số bạn bệnh, bọn họ đều xạ trị nhưng không thể tiêu trừ
ung bướu. Bác sĩ khám cho tôi tỏ vẻ vui mừng và vô cùng kinh ngạch, các bạn bệnh
thảy đều mừng cho tôi, các bạn đạo đều chúc mừng tôi.
Giáo
sư Quả Khanh! Ngài đúng là bác sĩ tài ba đã ban cho toa thuốc thần giúp chữa
lành bệnh tôi, thông qua quá trình phát bệnh và lành bệnh này, tôi đã hiểu rõ
và tin chắc rằng lời Phật dạy là chân ngữ, thật ngữ, bất vọng ngữ.
Muốn
được Phật pháp từ bi gia trì, ắt cần phải tu đúng pháp, y giáo phụng hành. Phải
nghiêm trì giới luật, đoạn tất cả ác, tu tất cả thiện. Chỉ cần đối với những điều
mình đã tạo, đã làm trong quá khứ thành tâm ăn năn, hổ thẹn phát lồ sám hối quyết
lòng sửa sai không tái phạm, được vậy mới có thể tiêu diệt mọi tai ương bệnh tật,
mới có thể chiêu phúc vô lượng.
Giáo
sư tôn kính, cảm tạ ngài đã ban cho tôi mạng sống lần thứ 2. Ngay đây tôi xin
thay mặt toàn gia đình kính chúc ngài khang kiện trường thọ, gia đình hạnh
phúc. Tôi nhất định chăm chỉ tu theo Phật pháp, nguyện làm người thuần thiện,
chân chính, thệ nghiêm trì giới luật, tinh tấn tu hành, làm một đệ tử đúng
nghĩa, xứng đáng trong Phật môn hầu có thể báo đáp ân ngài và ân chư Phật, Bồ-tát.
Ngày
5 tháng 12 năm 2006
Phật
tử Trí Tân xin kính thành đảnh lễ.
Sám
văn:
Làm
người sinh vào nước lõa hình là do ăn mặc mỏng manh suồng sã, tự cho mình hơn
người.
Giải thích:
Chúng ta xem báo đài, thấy đăng tin hiện
nay trên thế giới còn vài bộ lạc sống lõa thể, gần giống như người thời nguyên
thủy. Vì sao họ có tập quán này? Ấy là do đời trước họ có tính ưa khỏa thân phô
bày trước người, còn kiêu ngạo tự cho là cơ thể mình đẹp, gợi cảm. Họ rất thích
hở hang và ưa phơi bày quá mức, thường mặc y phục rất mỏng, ngắn đến nỗi có mặc
mà như không mặc, nghĩa là nhìn thấu hết, trông rất suồng sả cẩu thả. Có thể
dùng từ đường đột, đường là cẩu thả, đột là đột phá quan niệm thể diện liêm sĩ
của con người. Họ luôn tự cho mình là có thân thể khỏe đẹp, khêu gợi hấp dẫn
hơn ai hết.
Điều này cũng cảnh báo giới trẻ chúng ta
rằng mặc y phục chẳng nên hở hang khoe thân bao gồm mặc bikini của nữ và chỉ mặc
quần tam giác của nam. Những dạng ảnh chụp khỏa thân quảng cáo nơi hình bìa hay
phụ trang hoặc tờ rơi, mục đích nhằm khơi gợi dâm tâm của người. Nếu bạn không
cẩn thận, đời này sau khi chết rồi, trước tiên sẽ phải vào địa ngục, thoát kiếp
địa ngục thì làm súc sinh, mãn kiếp súc sinh thì đầu thai vào địa phương ưa sống
lõa thể. Trả báo đến lúc nào mới xong? Phải đợi nhưng người do bị các hình ảnh
khỏa thân gợi dục của họ mà sinh khởi dâm tâm tu đến không còn dâm tâm nữa thì
tội kia mới tiêu!
Đây thực rất đáng sợ. Tôi hoàn toàn
không nói dối hay bịa đặt chi đâu! Vì vậy tha thiết xin cảnh báo các nam nữ
thanh niên, tuyệt đối không nên vì muốn chinh phục, muốn quyến rũ, muốn chơi nổi
mà khoe thân ăn mặc hở hang. Nếu ai có tính này thì cần phải sám hối cho diệt tội,
nên kiên quyết sửa đổi ngay.
Sám
văn:
Làm
người sinh vào nước móng ngựa là do nhân đời trước mang giày dép đi thẳng vào
chỗ thờ phụng, tôn nghiêm, luôn tự cho mình cao, ngon hơn người.
Giải thích:
Vào thập niên 80, báo chí có đăng ở miền
Tây Trung Quốc có một thanh niên hai chân hướng ra sau, hình dạng giống như
móng ngựa, đi rất nhanh.
Năm 2000 truyền hình cũng đưa tin, có một
nữ nhi hai bàn chân hướng ra sau, phải lên thành phố làm phẫu thuật.
Đây chính là quả báo sinh nước móng ngựa
như trong kinh đề cập. Do những người này đời quá khứ không tin nhân quả, bất
kính Tam bảo, từng tỏ thái độ kiêu mạn, để chân còn mang guốc, giày xồng xộc đi
thẳng vào đạo tràng, giảng đường, nơi thờ phụng, lộ vẻ ngang nhiên cao ngạo đứng
trước người. Hiểu rõ điều này rồi, quý vị nhất định phải cẩn trọng chú ý, không
nên tại đạo tràng, giảng đường hoặc nơi tôn nghiêm có những hành vi vô lễ hoặc
nói năng ồn ào làm ảnh hưởng tới việc nghe pháp của người, bởi quả báo rất đáng
sợ, không thể nghĩ lường.
Sám
văn:
Làm
người sinh vào nước xuyên ngực là do đời trước bố thí làm phước xong rồi sinh
tâm hối hận tiếc của.
Giải thích:
Đến nay trên thế giới vẫn có những bộ tộc
mà nam nữ, ưa đeo khoen trước ngực giống như kiểu xỏ lổ tai và cho đó là đẹp.
Vì sao họ ưa trang sức kiểu như thế? Là do bởi đời trước người này từng dùng
tài vật bố thí cho người, đây vốn là việc tốt tạo phúc điền, nhưng bố thí xong
rồi lại hối hận, do có tâm hối hận này mà bị sinh vào nước xuyên ngực. Há chẳng
nghe kinh nói khởi tâm động niệm không chi mà chẳng phải là tội hay sao, chỉ một
niệm hối hận đó thôi mà cũng lãnh quả báo, nhưng e là những người có tâm hối hận
không ít đâu. Nếu không sám hối thì sao có thể an được?
Sám
văn:
Làm
người sinh trong loài hưu nai là do đời trước hay dọa nạt, làm người khiếp sợ.
Giải thích:
Câu này rất dễ hiểu, nghĩa là kẻ ưa hành
ác, hay bắt nạt khủng bố người, tương lai sẽ sinh vào loài nai, hoẵng nhát gan
sợ sệt. Nếu có ý khiến người kinh hoàng, tức phải làm nai, là do tội khủng bố
người.
Sám
văn:
Sinh
trong loài rồng là do cái nhân đời trước ưa trêu chọc (đùa tình).
Giải thích:
Người dâm tâm nặng thường thích trêu hoa
ghẹo nguyệt (quấy rối phụ nữ), rất ưa chuyện tình ái lăng nhăng. Chỉ một điểm
này thôi, thì kiếp sau khi mất thân người phải đọa vào trong loài rồng. Không
phải làm rồng là không hay, nhưng rồng tuy có thần lực, khéo biến hóa làm mưa,
song cũng chỉ là loài súc sinh ở trên trời hoặc trong sông biển thôi. Các Long
vương hiện hữu ở cõi Ta bà này luôn có ba điều sợ hãi:
1. Rất sợ gió, cát nóng dính thân, nung
đốt da thịt, xương tủy.
2. Sợ Long cung bị cuồng phong bão tố nổi
lên thổi bay mất y phục trang sức quý, khiến thân rồng phải hiện bày.
3. Sợ lúc vui vẻ khoái lạc tại Long cung
bị chim đại bàng cánh vàng đến bắt ăn thịt.
Làm rồng cũng chẳng được tự tại, do lúc
làm người có tu, nên loài rồng ưa hộ pháp, rộng hành bố thí. Song cho dù tu
thành rồng vàng, có thể trở lại nhân gian làm đế vương, nhưng tâm dâm vẫn rất hừng
thịnh. Bằng chứng là vua rất ưa tuyển mỹ nữ, ham chứa gái đẹp đầy tam cung lục
viện, nếu cứ mê buông thả tà dục thì sau khi chết rồi phải sa vào ác đạo, trầm
luân trong biển khổ sinh tử. Vì vậy phải cẩn trọng lưu ý không nên có tính ưa bỡn
cợt đùa tình, mà ngay cả ý niệm tà dâm cũng phải khắc phục không để sinh khởi,
luôn giữ tâm đoan chính.
Sám
văn:
Thân
sinh ghẻ lở dữ là do ưa đánh đập, ngược đãi chúng sinh (đời
quá khứ hay dùng roi vọt đánh đập hành hạ người và vật).
Người
thấy mình sinh hoan hỷ là do mình thấy người hay sinh hoan hỷ.
Giải thích:
Trong xã hội hiện nay, có nhiều người
tính khó cảm thông hay ôm hận nên thường bị cô độc, khó sống hài hòa với người.
Chi bằng nên cười hỷ xả, hằng giờ hằng phút dùng tâm hoan hỷ, mỉm cười đối với
bất kỳ người nào mình gặp. Dần dà sẽ phát hiện ra giữa mình và người các mối
giao hảo đã chuyển tốt và cũng thay đổi được thái độ ưa nhăn nhó, lạnh nhạt vốn
có của mình. Đây là diễn tiến theo tự nhiên của luật nhân quả. Thực ra đối với
tất cả chúng sinh phải nên từ bi hỷ xả, đây cũng là lời dặn dò của chư vị minh
sư dành cho chúng ta.
Sám
văn:
Làm
người hay bị bắt giam, là do đời trước hay giam nhốt chúng sinh trong lồng
trong chậu.
Giải thích:
Đã có người vô duyên vô cớ bị án liên lụy
và bị bắt tống giam oan, sau đó qua điều tra họ được phán vô tội và phóng
thích. Đây là do đời quá khứ hoặc hiện tại bản thân họ từng giam nhốt chúng
sinh.
Tôi từng gặp một nữ Viện trưởng Viện ấu
nhi, chồng bà là lãnh đạo một cơ quan nọ. Mấy năm trước, ông bị người vu cáo
tham ô nên bị bắt tống giam 3 năm. Sau nhờ điều tra phán ông vô tội và được thả
về nhà. Tuy được cấp lương lại nhưng cũng đã nên ba năm tù tội. Bà muốn biết
nguyên nhân là do đâu?
Tôi hỏi:
- Nhà bà có ưa nuôi chim cảnh không?
Bà kể lúc họ kết hôn, nơi nhà mới có
treo lồng chim đủ loài đủ dạng, mãi đến khi chồng bị giam, bà mới tặng hết cho
người. Tôi quán sát tìm xem nguyên nhân do vì sao chồng bà bị giam ba năm khổ sở
thì thấy rõ từ đời quá khứ đến hiện tại ông rất ưa nuôi chim, do dùng lồng giam
cầm chúng sinh mà phải thọ quả báo này!
Ngày 4/7/2007 Thời báo Hoàn Cầu đăng tin
như sau:
Ở thôn Êkati thuộc nước Ấn Độ, có một
người dân không làm sai bất kỳ điều gì, cũng không phạm lỗi gì với ai, nhưng lại
bị giam trong ngục tới 53 năm. Sau khi được thả ra, ông được bồi thường 1 Ru-bi
(tương đương 2,5 USD hoặc 2 hào Nhân dân tệ).
Xin kể thêm câu chuyện do đệ tử ngài Hư
Vân là Thích Quán Bổn ghi:
CON
CHỒN TRẮNG
Năm Dân Quốc 25, Bính Tý. Sau khi Nam
Hoa đã mở Đại giới đàn, truyền ba đàn xong. Lúc sắp giải giới, thì Lâm Quốc
Canh – Đoàn trưởng Sư đoàn 16 đang đóng quân tại Tào Khê đến thăm, tay xách cái
lồng, trong nhốt một con vật, toàn thân trắng tuyết, điểm lấm chấm đen, lông mướt
rượt, mõm nhô, đuôi dài, đích thị là một con chồn. Đoàn trưởng nói:
- Con vật này có lý lịch ly kỳ lắm, mới
đầu nó bị thợ săn ở núi Bạch Vân – Quảng Châu bắt được. Người ta kể rằng khi
phá bức tường thành Quảng Châu để mở con đường cái thì thấy nó từ trong thành
phóng ra và bị bắt.
Bạn tôi mua nó với giá 40 đồng, tính đem
về nấu ăn cho bổ và khoái khẩu. Nhưng nhìn thấy mắt nó linh động, long lanh, có
vẻ hiểu được ý người nên ông ta không nỡ làm thịt, bèn nhốt lại và đem bán cho
Vườn Sở Thú Quảng Châu. Rồi sau đó, tự nhiên ông ta bị bắt, bị tống vào tù mà
không rõ nguyên do tội trạng, án cứ lưu như thế mãi mà không ai giải quyết.
Tình cờ, vợ ông ta tham dự một buổi cầu
cơ, chưa mở miệng hỏi gì thì đã thấy quẻ chạy, đề cập đúng chóc điều bà đang thắc
mắc trong lòng và giải thích rằng ông nhà hiện đang bị nhốt, là do chiêu cảm quả
báo của việc bán con chồn cho sở thú giam giữ, còn chỉ cho bà rằng hiện có bậc
cao tăng đang chủ trì hoằng pháp tại chùa Nam Hoa, hãy mau đem con chồn đến đó
phóng sinh thì người chồng ắt sẽ được thoát nạn.
Bà vợ giật mình cả kinh, vội đem tiền
chuộc con chồn. Do Lâm Đoàn trưởng là bạn thân của chồng bà, sẵn dịp ông đang
đóng quân ở Tào Khê nên bà nhờ ông mang con chồn đến chùa phóng sinh giùm.
Ngài Hư Vân nghe kể chuyện, liền thu nhận
con chồn. Ngài thuyết Tam Quy Ngũ giới cho nó xong thì thả nó ra khu rừng rậm
phía sau chùa. Hằng ngày, nó đều vào chùa để Tăng chúng cho ăn. Từ khi thọ giới
xong, nó không chịu ăn thịt nữa, chỉ ăn chay và rất thích ăn trái cây. Những
người thợ xây chùa muốn trêu chọc nó, họ nhét thịt vào chuối đưa cho nó ăn. Con
chồn khi biết mình ăn nhầm liền nhổ ra. Nó dùng móng chân trước cào vào thức
ăn, kiểm soát mấy lượt, nhìn tới nhìn lui, mắt lườm mấy ông thợ, tỏ vẻ giận dữ
bất bình, vì họ đã dối gạt nó. Sau đó nó bỏ đi thẳng suốt mấy ngày mà không trở
về.
Một hôm, do bị người trong làng đuổi bắt,
nó leo lên một ngọn cây cao chót vót ngót mấy chục trượng, ôm cành kêu khóc.
Chú Sa-di thấy vậy vào bạch với Phương trượng. Ngài Hư Vân liền đi ra đến dưới
gốc cây đứng nhìn lên. Vừa thấy Ngài, con chồn liền tuột xuống, đeo ngay vào
tay áo Ngài, vẻ rất mừng rỡ. Hòa thượng đem nó về. Sợ nó bị người rình bắt,
Ngài đóng cho nó một cái chuồng. Sau đó khi thả vào rừng, nó chỉ đi quanh quẩn
trong chùa, không vào rừng nữa.
Một hôm, ông Tưởng Giới Thạch đi cùng mười
lính hầu đến thăm chùa nhưng không thấy báo trước. Họ vừa đến cổng Tào Khê thì
thấy con chồn, thị vệ định bắn nhưng ông Tưởng ngăn lại. Chồn lúc lắc đầu, ve vẫy
đuôi, dắt ông Tưởng đi vào. Đến đại điện, nó chạy như bay vào Phương trượng, cắn
áo Hòa thượng kéo xuống lầu gặp ông Tưởng. Nghe kể chuyện đó, ai cũng cười.
Mỗi khi Hòa thượng ngồi thiền, chồn thường
nằm dưới thiền sàng. Thấy Hòa thượng nhắm mắt ngồi lâu quá thì nó bắt đầu táy
máy, kéo râu Ngài đùa nghịch. Hòa thượng mở mắt nhìn nó, bảo:
- Con có linh tánh, chớ vào rừng, đừng
ra ngoài sơn môn hay tới gần nhà dân mà bị bọn trẻ quấy phá!
Một hôm, chẳng biết nó đi đâu mà bị xe
cán trọng thương, nằm nhẹp, không đứng dậy nổi. Thấy Hòa thượng đến thăm, nó
ráng chìa vết thương ra cho Ngài xem. Hòa thượng biết không cứu được, thương nó
đau đớn, bèn khai thị: “Cái túi da này, không đáng để lưu luyến nữa! Con đừng
bám víu vào, hãy buông xả và sám hối tất cả nghiệp duyên quá khứ. Khởi một niệm
sai thì phải đọa, phải nhận lấy ác báo, chịu nhiều thống khổ. Giờ đây, quả báo
của nghiệp xưa đã mãn, ta mong con nhất tâm niệm Phật, để sớm được giải thoát”.
Chồn hiểu ý, gật gật đầu, kêu lên mấy tiếng,
rồi tắt hơi. Thi thể nó để hai ngày vẫn không biến đổi. Hòa thượng nhớ đến câu
chuyện Tổ Bách Trượng độ chồn hoang, nên cho tổ chức tang lễ nó như một vị
Tăng, chôn nó ở phía Nam núi.
Việc này xem ra ly kỳ, nhưng sở dĩ những
điều đó phát sinh trong cuộc sống, nguyên nhân cũng giống như trong sám văn đã
tả thôi.
Chúng ta là phàm phu, thường hay lý luận
việc nuôi chim, cá là trò tiêu khiển cực kỳ thú vị. Đa số còn có quan niệm ngu
muội rằng hễ đã phát tài chút ít thì có quyền ra ngoài giải trí chơi bời hưởng
lạc tha hồ bằng cách mua hoa, bao gái và họ lập luận rằng nhà thổ lầu xanh vốn
là chốn mua vui, để mình tiêu khiển giải trí. Họ nào biết hưởng phúc kiểu này
chính là tạo họa, đâu hay rằng chính hành vi mê tối này đã vô tình tạo nhân xấu
khiến họ phải sa vào địa ngục vô biên vô tận, đợi đến khi ác báo trổ trên thân,
vô thường ập tới, lúc đó có hối cũng đã muộn!
Sám
văn:
Nghe
thuyết pháp mà cứ trò chuyện ồn ào làm loạn tâm người thính pháp, sau sẽ đọa
vào loài chó tai dài.
Giải thích:
Có nhiều người đến dự pháp hội, không phải
vì muốn nghe pháp mà vì muốn trò chuyện bình luận, ưa làm pháp quan, phân tích
mổ xẻ. Chỉ cần vừa nghe lời không thuận lỗ tai mình, thì vội vàng luận tam thuyết
tứ. Hoặc đến đạo tràng mà không chú tâm nghe, toàn nói chuyện phiếm, gây ồn náo
vày quấy nhiễu người nghe pháp. Những người này tương lai sẽ đọa làm chó trong
cõi súc sinh, bởi vì loài chó vừa nghe tiếng động, không kịp phân biệt xanh hồng
trắng đen chi đã há miệng sủa to, khuấy động sự yên tĩnh bốn bề.
Nếu như đối với người thuyết pháp bị nhiều
đàm tiếu thị phi thì nên y pháp chẳng y người. Phải nghiên cứu giáo lý giảng
cho đúng lễ, thái độ nên đoan trang cung kính, phương pháp và thời cơ đề phải
thích nghi. Đệ tử Phật tuyệt không nên có thái độ bới lông tìm vết hay lộ vẻ
vui thích hả hê khi thấy lỗi người. Càng không thể nhân vì một số vấn đề vụn vặt
mà đi quấy rối đại chúng đang chăm chú nghe chánh pháp.
Trong xã hội hiện nay, có nhiều người
tham dự thảo luận Phật pháp trên mạng và mối liên lạc theo cảnh nói một câu
ngàn người nghe, tạo thành ảnh hưởng rất lớn. Vì vậy điều cần chú ý là phải hết
sức cẩn trọng ngôn hạnh, chớ tạo lỗi đàm thoại làm nhiễu loạn người đang cần tập
trung nghe pháp.
Sám
văn:
Xan
tham bỏn sẻn ăn một mình, bị đọa trong ngạ quỷ, sinh làm người thì bần cùng đói
khổ.
Giải thích:
Do xan tham bủn xỉn giành ăn lén một
mình, bị đọa vào cõi ngạ quỷ, ác báo hết thì chuyển sinh vào nhân gian, sống rất
bần cùng, đói khổ.
Năm 1990 ngày nọ, một người bạn đến nhà
tôi kể là chị dâu ông vừa chết, tang sự làm xong mới một tuần.
Ông mới nói đến đây thì tôi lập tức thấy
ngày một nữ nhân gầy như que củi, đầu rối bù, dập đầu cúi lạy như tế sao, van cầu
tôi cứu bà.
Tôi định tĩnh, dòm kỹ hóa ra đây là bà
chị dâu đã chết, đi theo ông bạn đến tận nhà tôi. Bởi bà biết rõ về tôi, nên mới
đi theo chú em chồng mà đến, mục đích cầu xin tôi cứu bà (những người an chay
niệm Phật đều có một vầng kim quang bao phủ, hễ tu càng giỏi, thì kim quang
càng dày, càng tỏa ánh sáng ngũ sắc khiến bất kỳ yêu tà quỷ thần gì cũng đều phải
kính sợ, không dám xâm phạm).
Tôi hỏi bà:
- Có biết vì sao mình bị đọa vào cõi quỷ
chăng?
Bà kể sau khi mình được gả cho nhà đó,
bình thường hay nhín ăn nhịn thèm để có được danh tiếng tốt, khiến mọi người chấp
nhận cảnh ăn uống đạm bạc. Nhưng tối đến bà và chồng thường lén cùng nhau dùng
đồ ngon, ngay cả tết đến cũng chỉ cho mẹ chồng ít đầu cá, cẳng gà.
Do mẹ chồng thoái hưu lương ít, nên hễ
cho có một xu thì bà liền nổi nóng gây gỗ cùng chồng, lại do bà sát sinh thái
quá, nên mới 40 tuổi thì đã bạo tử tại nhà.
Sau 49 ngày, bà đọa vào cõi quỷ, bây giờ
chịu đói tới hai con mắt nổ lửa, khổ hết chỗ nói, chỉ biết cầu xin chúng tôi cứu
bà.
Lúc này Quả Lâm vừa nhìn thấy bà, thì đã
nhận ra do phạm tội gì rồi, thế là nó liền dạy bà niệm “Nam mô A Di Đà Phật!”.
Chỉ niệm ba câu thì bà được đi đầu thai.
Do lúc sống làm người tham lam bỏn sẻn,
nên dù được đầu thai vào nhân gian, bà phải sinh làm một người dân nghèo, cả đời
sống túng thiếu. Nhưng có điều an ủi là bà sẽ gặp được Phật pháp tu hành và nhờ
đây mà chuyển biến vận mệnh. Nếu như không nhờ đi theo chú em chồng, được Quả
Lâm dạy niệm Phật và ngay đó thoát thân ngạ quỷ, thì bà phải chờ đến lúc thọ
báo kiếp quỷ tận, mới được sinh vào nhân gian, làm kẻ bần cùng khốn khổ, phải
đi xin ăn.
Sám
văn:
Kẻ
đem đồ ăn xấu tệ (ác thực) cho người, sẽ bị sinh làm heo lợn, bọ hung.
Giải thích:
Ác thực là thức ăn ôi thiu biến chất, những
ai lấy đồ thúi, cũ… ngụy trang giả làm thức ăn ngon tốt đem cho hoặc bán, tiêu
thụ thì tương lai sẽ bị làm heo, bọ hung, chịu quả báo ăn đồ thiu dơ, ôi thúi.
Cuối cùng heo còn bị giết ăn thịt. Bọ hung là loài chuyên vùi đầu ăn phân.
Ác thực là từ ngữ chỉ tất cả thực phẩm
có hại cho sức khỏe con người. Hiện nay đa số người tín ngưỡng kém, đạo đức suy
đồi, chỉ biết có tiền, không quan tâm đến việc bảo vệ sức khỏe cộng đồng, họ
dùng đủ thứ phụ gia hay hóa chất có hại bỏ vào trong thực phẩm, thuốc men khiến
vấn đề an toàn thực phẩm trở thành nguy hại nghiêm trọng, rất đáng lo.
Chúng ta cần nỗ lực tuyên truyền nhân quả
trong xã hội, cảnh tỉnh và đánh thức lương tâm những người tỉnh bơ đem đồ ác
cho người dùng, nếu họ cứ làm vậy, tương lai sẽ bị đọa và cõi xấu thọ khổ báo.
Sám
văn:
Cướp
đoạt của người, sau đọa làm dê, bị thế gian lột da ăn thịt.
Ưa
trộm cướp tài vật của người, sau sinh làm trâu, bò, ngựa bị người sai khiến,
hành hạ.
Giải thích:
Làm trâu ngựa chở nặng đi xa, hứng chịu
đòn roi của người, đến già không còn làm được, thì bị giết ăn thịt, để trả nợ
kiếp trước trộm cướp tài vật của người.
Sám
văn:
Ưa
nói dối, rêu rao điều xấu của người, sau đọa địa ngục, bị rót nước đồng sôi
nóng đỏ vào miệng, bị kéo lưỡi ra cho trâu cày. Đền tội xong thì sinh làm chim
cú, ai nghe tiếng nó kêu cũng ghét sợ, cho là yêu quái đem điềm gở tới, đa số đều
nguyền rủa mong nó chết.
Giải thích:
Kẻ ác hạnh ưa nói dối, thêu dệt, bịa đặt,
rêu rao điều xấu cho người, là tự tạo quả báo đọa địa ngục nặng nề, mãn kiếp địa
ngục rồi thì chuyển sinh làm loài chim cú có âm thanh khó nghe, khiến người hoảng
sợ chán ghét, họ xếp loại chim này mang điềm bất tường, nên hay nguyền rủa trù
chết. Tội ác ngữgian dối, vu rao lỗi người, nếu là bịa đặt vu khống rao lỗi tứ
chúng đệ tử Phật (chư Thiện tri thức, đại đức, cao tăng của Phật môn), thì tội
này càng nặng, Phật xếp việc nói lỗi tứ chúng là tội nặng trong Bồ tát giới,
tuyệt đối phải tránh không phạm.
Có nhiều đoạn trong “Lương Hoàng Bảo
Sám” viết “Cù dục” (鴝鵒) là chim bát ca (八哥) là loài chim sáo, nhưng sáo là loài con người
rất ưa nuôi, thông minh lanh lợi, giỏi bắt chước tiếng người, rất được yêu
thích, nên văn viết cù dục là sai, không hợp. Tôi đã tra trong sách cổ, thấy
ghi có loài chim tên cù các (tiếng kêu the thé chói tai). Vậy từ “các” này mới
là đúng! Có thể khẳng định rằng chữ “cù các” bị viết thành “cù dục”. Do người cầm
bút trong khi sao chépkinh đã viết sai nét nên mới biến chữ “các” (各鳥) thành
chữ “dục” (谷鳥) gây ra nhầm lẫn, xin nhắc nhở mọi người lưu
ý chỉnh lại cho đúng.
Sám văn:
Người ưa uống rượu say, sau đọa vào địa ngục
phẩn trào. Tội hết rồi sinh vào loài đười ươi. Mãn nghiệp, được sinh làm người
ngu si, không ai thu dùng.
Giải
thích:
Người ưa
uống rượu, cả ngày ở nơi bàn nhậu, nếu thích say sưa không bỏ được, thì đời này
đa số chết vì rượu, chết rồi lập tức đọa vào ngục phẩn cuộn. Ở nhân gian cũng
có những chỗ giống như vậy, là hầm phân của những vùng nông thôn chưa phát triển
chứa đầy giòi, giòi cả ngày say sưa bầu bạn với phân giống như người uống rượu,
cho rượu là thứ cực ngon, nhưng người không ưa rượu thì nghe hơi xông ra từ kẻ
nhậu rất khó ngửi, tanh hôi. Nhất là uống rượu mà còn ói mửa, thì hôi thối
không cùng. Do tham đắm vị rượu, bị quả báo chết rồi ăn phân, uống nước giải.
Nhân như thế thì quả như thế, tự làm tự chịu. Ác báo này hết, thì đọa làm đười
ươi, sau được sinh vào nhân gian, nhưng ngu muội vô trí, bị người khinh khi
chán ghét.
Sám văn:
Kẻ tham lam bóc lột sức người, bị sinh làm
voi.
Giải
thích:
Hay sai
khiến, lạm dụng sức người, trả lương ít cho công nhân hoặc mượn tiền mà không
trả, chết rồi làm voi. Là loài chỉ ăn cỏ nhưng phải làm việc chuyên chở nặng và
còn phải nhẫn nhục chịu đựng.
Sám văn:
Kẻ có địa vị giàu sang, làm người trên mà đánh
đập kẻ dưới. Kẻ dưới không biết thưa kiện với ai. Những người giàu ác này, chết
rồi vào địa ngục, chịu quả báo đau khổ cả ngàn vạn năm.
Từ địa ngục thoát ra, lại đọa làm trâu, bị xỏ
mũi lôi thuyền kéo xe, hứng chịu đòn roi nặng nề khổ sở, để đền lại nợ oán trái
xa xưa.
Giải
thích:
Người giàu sang hay kẻ có quyền thế, làm
chủ xí nghiệp hoặc tư gia, hay đánh mắng ngược đãi tôi tớ hoặc công nhân, thuộc
hạ, mà người bị đánh do sợ quyền lực hoặc sợ bị mất việc mà không dám tố cáo.
Hoặc do họ không tìm được ai bênh vực mình. Đối với những chủ nhân bắt nạt
khinh người này, đến một ngày phúc báu hưởng tận thì họ sẽ đọa vào địa ngục, thọ
khổ mấy ngàn vạn năm, mãn kiếp địa ngục thì sinh làm trâu, bị người xỏ mũi bắt
lao động nặng, còn phải hứng chịu đòn roi đau đớn để trả nợ xưa.
Sám
văn:
Làm
người ăn ở dơ bẩn là từ trong loài heo mà ra.
Người
xan tham keo kiết, không biết tự tính là từ trong loài chó mà ra.
Những
người độc dữ, tự dụng một mình là từ trong loài dê mà ra.
Người
có tánh hiếu động, nóng nảy, không giỏi nhẫn là từ trong loài khỉ, vượn mà ra.
Người
có thân thể tanh hôi là từ trong loài cá, ba ba mà ra.
Người
có tâm hiểm ác là từ trong loài rắn độc mà ra.
Người
không có từ tâm, tàn nhẫn, bạo hại là từ trong loài hổ báo, sài lang mà ra.
Giải thích:
Tập khí tính tật mỗi người, đều có quan
hệ với đời quá khứ. Xin kể câu chuyện như sau:
NAM
CƯ SĨ X
Nam cư sĩ X là pháp lữ của tôi, vốn là
nhân vật có tiếng tăm gốc người Bắc Kinh, dung mạo kỳ lạ, đang độ tuổi trung
niên. Ông tu hành tinh tấn, dốc lòng hoằng dương Phật pháp. Tướng người cao lớn,
uy mãnh oai hùng, nhất là ngũ quan kỳ dị, ẩn hình bóng xà. Những lúc ông nổi giận,
trông hung mãnh lắm, ai cũng sợ.
Tôi từng nghe ông kể qua, tiền kiếp mình
là đệ tử của sư phụ, ngài giao ông giữ nhiệm vụ hộ pháp.
Hôm nọ tình cờ ông thổ lộ: Tiền kiếp ông
tuy là một vị tu hành, nhưng kiếp trước đó nữa thì lại là mãng xà. Kiếp trước của
mãng xà thì làm báo biển, ông còn nhớ rất rõ lúc làm báo biển đã từng giao đấu
với gấu bắc cực ra sao.
Do kiếp vừa rồi ông là người tu hành,
nên đời nay mới mấy tuổi đã biết rành nghi thức hành trì Mật tông và nhận ra rất
nhiều pháp khí. Thậm chí còn am tường mọi cấm kỵ trong tông môn. Hiện tại, ông
vẫn nhớ rõ chuyện ba kiếp trước của mình. Ở kiếp thứ hai ông làm mãng xà, nhờ
nhân duyên đặc biệt may mắn nên sau khi xả báo thân mãng xà thì chuyển lên làm
người, được quy y Tam bảo tu hành. Nhưng do ông sống quá lâu trong kiếp mãng xà
nên đời này vẫn còn lưu nhiều tập khí mãng xà, chẳng hạn như từ nhỏ đến lớn đều
rất ưa ăn trứng gà, hễ nhìn thấy gà là phấn chấn. Mỗi năm vào mùa đông, đôi tay
ông vẫn còn bị lột da ba lần. Hiện nay nhờ tu hành nhiều năm nên nét hung tợn
nơi ngũ quan ông đã giảm bớt. Đối với thế gian huynh X không có hứng thú với
danh lợi, bất kể là thức ngon, mỹ sắc, ông không hề động tâm. Ông chỉ có tập
khí rất ưa ăn thịt, nhưng từ khi phát tâm tu hành thì đã bắt đầu trường trai.
Qua đây đủ thấy, bất kể chúng ta từ đâu
tới nhân gian, nhưng hôm nay được gặp Phật pháp, có thể hành trì bái sám, chứng
tỏ đời quá khứ chúng ta từng là đệ tử Phật, nếu không thì đâu thể tiến vào đại
môn để tham dự bái sám này.
Bạn xem, hiện tại tứ chúng đệ tử không
phải là mỗi người đều có tập khí tật riêng hay sao? Nếu như ngay trong đời này có
thể thệ nguyện nghiêm trì giới luật Phật chế, bỏ hết thói xấu, thì nhất định đạo
nghiệp sẽ thành.
Còn nếu đến phút lâm chung, tật xấu của
mình vẫn chưa sửa đổi, thì tánh tật đó sẽ thành nhân tệ ác, chết rồi ắt phải
theo nhân mà thọ quả xấu. Từ vô thỉ đến nay, mỗi người chúng ta đã có vô số lần
vào thai lừa bụng ngựa, từng xuống địa ngục, lên thiên đường, làm người vô số lần,
học Phật cũng vô số lượt, nhưng chính do không chịu đoạn dục khử ái, không
buông hết vọng tưởng chấp trước, bị vô minh che lấp, nên cứ trầm luân thọ khổ
vô tận trong tam giới, quay đầu chẳng thấy bờ. Hiện nay chúng ta đã hiểu sâu lý
này, nếu như không khéo buông bỏ, không ném hết những ân oán thế gian, thì biết
đâu một khi vô thường đến, mình chết đi, đâu ai bảo đảm là ta có thể quay trở lại
làm người.
Sám
văn:
Sinh
ra làm người bị nhiều bệnh, chết sớm, chịu bao thống khổ không thể kể xiết, như
thế là do ba nghiệp ác gây ra, khiến ta mắc phải quả báo trong ba đường dữ.
Giải thích:
Kiếp người chúng ta nhiều bệnh, đoản thọ,
thống khổ trùng trùng, đều là do ba nghiệp thân, khẩu, ý tạo ra, làm người mà
có khẩu ác, tâm ác, thân ác tất phải bị ác báo.
CĂN
BỆNH ĐÁNG SỢ
Hai năm trước tôi đến thành phố nọ ở
Giang Tây, đã cùng Ngô cư sĩ ghé thăm nhà một bệnh nhân.
Đây là một ngôi biệt thự cực kỳ lộng lẫy
sang trọng, nhưng ông chủ lại bị bệnh, đang ở trong nhà. Tôi thấy ông quỳ trên
giường, hạ thể quấn tả, trông khoảng hơn 30 tuổi.
Sau khi Ngô cư sĩ giới thiệu tôi với chủ
nhà xong, ông ta cười đau khổ, hỏi tôi có muốn kiểm tra hay khám bệnh gì cho
ông chăng? Tôi nói không cần.
Lúc đó tôi có cảm giác ngũ tạng cùng tứ
chi ông không bị bệnh nặng gì, tôi bèn hỏi:
- Ông mắc bệnh chi?
Vợ ông kể chồng bà trước đây bị mọc ung
bướu nơi hậu môn, lúc đại tiện đau đớn vô cùng, đã đi bệnh viện cắt bỏ rồi, nhưng
vết thương chẳng những không lành, mà ngược lại còn thối rữa lở loét, nên phải
mổ tiếp lần hai, vì vậy hậu môn cũng mất đi công năng, khiến ông không thể nằm
xuống, chỉ có thể quỳ mới thấy bớt đau. Bệnh này chẳng gây ảnh hưởng gì đến ăn
uống, nhưng ông chẳng thể khống chế đại tiểu tiện, nó cứ tự động tuôn ra do vậy
mà khổ hết chỗ nói. Bệnh viện Tây y bó tay vô phương chữa, nên hiện giờ ông
đang trị theo Đông y, song chữa chạy đã nhiều ngày, mà không thấy hiệu quả.
Cư sĩ Quả Năng là bạn đạo đi cùng tôi, bỗng
lên tiếng hỏi:
- Trong lúc bà đang kể, thì tôi thấy trước
mắt mình hiện hình dạng một cái cân rất lớn, bàn cân hai bên liên tục trồi lên
hạ xuống không ngừng. Còn thấy trên hai cái bàn cân này, mỗi bên có một tiệc rượu,
vậy công việc của ông nhà liên quan đến những gì?
Bà vợ đáp:
- Dạ, ảnh làm thẩm phán, công tác tại
Pháp đình.
Tôi bảo:
- Trong kịch bản phim truyền hình “Tể tướng
họ Lưu” có lời thoại rằng: “Giữa đất trời có cán cân”, đây là cán cân công lý rất
bình đẳng đối với mọi người. Bất luận làm việc gì, dù đối với người ngoài hay
là quyến thuộc, thì khi tham dự xử án nhất định phải công tâm, không được lừa
trên dấu dưới, biến trắng thành đen, không được làm tổn người lợi mình.
Trong Phật giáo từng giảng: “Hạt gạo thí
chủ nặng như núi tu di, ăn mà không tu phải mang lông đội sừng đền trả”. Mấy
câu này, ai cũng phải luôn nhớ và hiểu rằng “Vô công bất thọ lộc”.
Nếu như đã nhận tiền của, quà lễ (hoặc
ăn của người thật nhiều) mà chẳng làm gì cho họ, còn khiến họ mang cảm giác bị ức
hiếp, dối lừa, tất nhiên lòng dấy lên căm hận. Nếu hành vi xấu này tái lập quá
nhiều, ắt đương sự sẽ bị đại chúng căm hận nguyền rủa và mãnh lực đó sẽ biến
thành sức mạnh cực lớn, tuy vô hình nhưng gây hại không nhỏ cho người cậy quyền
thế “vô công thọ lộc”, và quả báo sẽ hiển hiện qua dạng báo ứng, nghĩa là bệnh
hoạn đau khổ sẽ giáng xuống thân thể đương sự.
Vì vậy mà Phật giáo giảng: “Làm tổn hại
người chính là làm tổn hại mình!”.
Mỗi người cần tha thiết sám hối tội nghiệp
mình đã tạo. Nếu trước đây từng ăn nhiều thịt chúng sinh, thì phải nên phóng
sinh thật nhiều, nếu như lỡ thu nạp nhiều tài vật mà bản thân mình không xứng
đáng nhận nhưng không thể trả lui, thì hãy dốc hết vào việc ấn tống kinh, sách
thiện và phóng sinh hoặc đóng góp vào quỹ phúc thiện lợi ích cho cộng đồng, làm
vậy sẽ giúp tiêu nghiệp diệt tội.
Tốt hơn hết là, mỗi ngày bệnh nhân này
nên tụng ít nhất một bộ Kinh Địa Tạng. Cần nghiên cứu hiểu rõ giáo lý Phật giảng
mới có thể phát tâm sám hối chân chính.
Nếu ông nhà muốn lành bệnh, thì phải xem
ông có phát tâm sám hối chí thành hay không? Người thân cũng có thể góp sức phụ
tụng Kinh Địa Tạng để hỗ trợ ông sớm hồi phục. Nhưng phải lưu ý: Bắt buộc phải dứt tuyệt đồ mặn ăn chay trường
mới có công đức và hiệu quả.
Lúc giã từ, vợ ông hỏi:
- Thưa, ở đâu có Kinh Địa Tạng ạ?
Ngô cư sĩ nói ngày mai ông sẽ đem đến.
Quả Năng bổ sung thêm:
- Hiện tại cần niệm Nam mô Quan Thế Âm Bồ
tát và niệm ra tiếng, nếu mệt thì có thể niệm thầm, sẽ giúp giảm bớt thống khổ.
Tôi dặn dò:
- Sau khi Kinh Địa Tạng mang tới rồi thì
mỗi ngày chịu khó tụng, sức có thể tụng mấy bộ thì ráng tụng bấy nhiêu. Lúc
rãnh thì niệm Nam mô Địa Tạng Vương Bồ tát, Nam mô Quan Thế Âm Bồ tát đều tốt cả.
Hiện nay có rất nhiều người đang phạm lỗi
làm tổn hại người lợi mình, rất ưa rút công bồi tư và hoàn toàn quên mất lời cổ
huấn: làm nhiều việc bất nghĩa là tự hại mình thê thảm!”.
Câu chuyện này xin cảnh báo những ai
đang làm việc liên quan đến pháp đình, phải hết sức cẩn thận và nên khắc ghi
vào lòng câu: “Chấp pháp công minh, quyết không lợi dụng chức quyền để tham
nhũng, hối lộ, ăn hiếp, trấn lột, đoạt lừa của người”.
Bạn thấy ác báo của ngài thẩm phán này
chăng? Khi cái miệng ở trên vừa thu nạp cho vào toàn cao lương sơn hào hải vị,
thì cái “miệng” ở dưới do công năng bị hư, không thể kiềm chế, nên cứ tự nhiên phun
bắn ra ngoài toàn những thế phẩn uế, huyết tanh. Cho dù người bệnh chưa chết,
nhưng sống mà bị như thế cũng giống như đã nếm cảnh địa ngục rồi. Nếu muốn chuyển
hóa ác báo này, đương sự bắt buộc phải thành tâm sám hối. Nguyện từ đây đoạn ác
tu thiện, phải hết sức chân thành, thực lòng ăn năn tu sửa. Nếu làm được vậy
thì không những giúp mình tiêu trừ ác bệnh, lìa khổ được vui, mà tương lai còn
có thể dùng chuyện xảy ra cho bản thân mình để thuyết pháp làm gương, cảnh tỉnh
người, rộng tạo công đức lớn.
Chớ
gieo nhân xấu khổ không lường
Vinh
hoa phú quý tựa khói sương
Đêm
qua còn đủ ngàn thứ tốt
Sáng
nay thọ tội: Quỳ trên giường
Tham
của, tâm tà hành sai luật
Biến
thành phẩn uế rơi vãi vương
Nếu
không hối lỗi siêng niệm Phật
Bệnh
khổ hành quỳ đến ly trần!
Mạng
sống vô thường, xin tinh tấn
Dứt
ác tạo lành, phúc thọ khương!
Sám
văn:
Bỗng
trong nháy mắt, đến chốn Diêm vương, ngưu đầu, ngục tốt ở địa ngục không kể tôn
ti, chỉ xét tội phước nặng nhẹ, kiểm thiện ác nhiều ít, lúc sinh tiền đã làm thế
nào thì thần thức tự thú tội không dám che giấu. Do nhân gieo mà tùy nghiệp trả
quả, đến chỗ khổ hay vui là do mình làm mình chịu.
Vả
lại, các thiện thần ghi chép thiện ác của người không thiếu sót mảy may. Người
thiện làm lành được phước thêm thọ, người ác làm dữ, giảm thọ thêm khổ. Cứ xoay
vần như vậy, nếu bị đọa làm quỷ đói thì hết kiếp quỷ đói, lên làm súc sinh. Thống
khổ khó kham, không bao giờ cùng.
Xin kể câu chuyện:
CÁNH
TAY ĐAU NHỨC
Có một anh nọ khoảng hai mươi mấy tuổi,
vô duyên vô cớ cánh tay phải bị đau nhức nên tới tìm tôi.
“Tay anh vì sao đau như thế?”… Tôi vừa mới
khởi niệm thắc mắc, lập tức đã nhận ra: Anh này có tật hay chôm chỉa, móc túi
trộm đồ người.
Thế là tôi hỏi:
- Anh có lấy đồ người làm của mình (móc
túi, chôm chỉa tài vật của người) chăng?
Mặt anh ta đỏ lên nhưng vẫn ráng đáp:
- Sao tôi có thể… làm như vậy chứ?
Tôi bảo:
- Nếu anh không nhớ được thì tôi đành chịu,
vì không thể giúp anh.
Anh hỏi:
- Nếu như tôi có… phạm… lỗi này… thì phải
làm sao?
Tôi bảo:
- Hãy đem những tiền bạc anh trộm lấy của
người, tính thêm cả lãi vào để bồi hoàn (bằng cách đem đến hiến tặng Viện dưỡng
lão hay cô nhi), nhớ khi làm đừng lưu danh tính mình thì tay anh có hy vọng
lành.
Sau đó quả nhiên tay phải anh được lành,
anh đến cảm tạ tôi và thưa:
- Từ rày tôi nguyện không dám làm các việc
xấu nữa.
Rồi anh hỏi tôi:
- Vì sao ngài biết tôi làm những việc xấu
này vậy?
Tôi nói:
- Thì cũng giống như nhân gian, trên trời
cũng có rất nhiều “thiên thần tuần cảnh” chuyên trông coi việc thiện ác của thế
gian và ghi lại tỉ mỉ tất cả hành vi thiện ác của chúng sinh vào trong sổ nghiệp
(họ lưu trữ cũng giống như máy tính sao lưu vậy). Cho nên lúc anh hỏi tôi
nguyên nhân bệnh kia, thì tuần cảnh liền đem những việc xấu anh đã làm (được
thu hình) chiếu ra hết cho tôi xem.
Anh chàng này hiện nay học Phật rất tinh
tấn, bỏ hẳn thói xấu kia. Anh còn chí thành lễ bái trước hình ngài Tuyên Hóa vạn
bái, giờ đã là tiểu sư đệ của tôi.
Năm 1990, tôi vừa mới học Phật, nghe nhiều
người kể một nữ đồng nghiệp của tôi có phẩm hạnh buông thả, phóng túng tà dục,
lại không biết kiểm điểm.
Lúc nghe vậy tôi chỉ khởi niệm: “Quả có
chuyện này hay sao?”
Vừa thắc mắc như thế thì trong óc tôi lập
tức hiện hình ảnh: Có sáu nam nhân đang quanh quẩn bên cô ta. Tôi không tin nên
khởi niệm nghi ngờ.
- Có lẽ bọn họ chỉ là bạn tốt của nhau.
Vừa nghĩ vậy thì lập tức tôi thấy ngay cảnh
bọn họ có hành vi phi lễ vượt quá giới hạn cho phép. Tôi liền khởi niệm: Mình
không muốn xem những cảnh này!
Lập tức cảnh tượng ấy biến mất, còn có
nhiều điều khiến tôi rất kinh ngạc, hoảng sợ, nhưng tôi không tiện kể rõ.
Lúc đó, trong tâm tôi không hề khởi chút
ý coi khinh vị nữ đồng nghiệp này, ngược lại còn gấp rút phản tỉnh, tự kiểm xem
mình có từng tạo lỗi lầm gì sai trái chăng.
Từ đó tôi thấm thía câu: “Muốn người đừng
biết, thì mình đừng làm!”
Tôi cảm thấy giống như trên trời có một
máy quay phim cực lớn, mỗi giây mỗi khắc đều ghi lại hết những gì tạo tác của mỗi
cá nhân: Từng câu nói, ý nghĩ, hành vi ta làm ra. Tất cả những việc lỗi lầm, tệ
xấu lúc ta mê muội tạo tác, thậm chí những việc mình khó thể mở miệng hé răng
nói với ai, cứ tưởng không ai biết và tự cho mình thông minh, chẳng ngờ những
việc làm xấu ấy cuối cùng thành ra tự hại mình!
Con gái tôi sau khi tham gia tu tập thiền
tọa rồi, trí huệ nó khai mở vượt xa tôi. Tuy nó chẳng xem nhiều kinh điển, chỉ
tùy duyên thuyết pháp gở rối cho người, song nó chỉ cần nói một câu là có thể
chỉ ngay căn nguyên phiền não, giúp giải khổ mau lẹ cho chúng sinh, lời luôn khế
hợp với giáo lý của Phật.
Tôi chẳng chút ganh tị, phỏng vấn nó:
- Con là con ta, chính ta hướng dẫn con
đả tọa, tu hành, nhưng vì sao con lại giỏi hơn ta vậy hả?
Nó cười bảo:
- Ba à, bởi vì ba làm việc xấu nhiều hơn
con mà!
Lúc đó tâm tôi bỗng thấp thỏm bất an. Quả
thực tôi có sợ những gì mình đã tạo (khi nghĩ đến những điều đáng xấu hổ của
mình) bị con gái thấy rõ mồn một.
Nói một cách phiến diện thì theo quy luật
vũ trụ, chỉ có làm các điều lành mới giúp ta khai mở trí huệ vốn có trong tự
tính.
Thực ra, vẫn có nhiều người có trí huệ
cao hơn, vượt xa con gái tôi. Tính nội trong quốc gia này thôi, tôi đã gặp hơn
trăm vị, ấy là chưa kể đến những vị ẩn cư tại núi cao rừng thẳm (những vị đã đoạn
dục khử ái hay là bậc cao tăng xuất gia tu hành). Tôi dám khẳng định tuyên bố với
chư đồng tu rằng: Hễ ai trì chí bền tâm nghiêm trì ngũ giới, tu thập thiện dài
lâu, chịu khó thiền tịnh song tu, đối với những nghiệp đã tạo trong dĩ vãng sám
hối triệt để thì trí huệ nhất định sẽ xuất hiện.
Hơn nữa, nếu sám hối càng triệt để, tha
thiết, thì trí huệ xuất hiện càng sớm. Chỉ cần bạn chịu tu thực sự, tất sẽ được
Phật lực gia trì, khai mở trí huệ có sẵn.
Trên thế giới này những người sở hữu trí
huệ uyên thâm đã có nhiều như thế, thì nói chi đến các bậc đại trí như chư Phật,
Bồ-tát? Phật Thích Ca nếu không có trí huệ quảng đại viên mãn, sao có thể nói
ra chân tướng vũ trụ? Sao có thể giảng nhiều kinh điển như thế?
Tôi chẳng phải không tham (tài, sắc,
danh, lợi), mà chính vì nhờ hiểu rõ Phật pháp rồi nên không còn dám tham nữa.
Thậm chí ngay cả trong ý nghĩ cũng không dám có. Trong Kinh Lăng Nghiêm giảng: “Nhiếp tâm là giới, nhân giới sinh định,
nhân định sinh huệ”thế thì nếu cứ để tam độc hừng thịnh, làm sao chúng ta
có thể nhiếp tâm?
Cần phải hiểu và tin sâu nhân quả luôn
có thật không dối, như vậy chúng ta mới có thể đạt đến nhiếp tâm giữ giới.
Trong “Báo ứng hiện đời” tôi có viết rằng: “Những người đến cầu Hòa thượng Diệu
Pháp chỉ giáo, thảy đều là thầy tôi, vì nhờ họ mà tôi biết rõ báo ứng nhân quả
chân thật không dối”. Sau khi bọn họ lành bệnh rồi, lại dùng tiền tài để cảm tạ
tôi, không phải tôi không cần, mà là không thể tham, cũng chẳng dám cầu. Bởi vì
hiện tại giáo pháp nói ra truyền lợi ích cho người, ân này vốn thuộc về Phật
Thích Ca, nếu muốn tạ thì phải tạ ân Ngài. Chúng ta chẳng thấy được sắc thân Phật,
cần nên cúng dường Tam bảo tạ ân Ngài mới đúng. Huống nữa bản thân tôi cũng nhờ
Phật lực gia trì nên mới có thể cải tà quy chính. Đã có chư thiên thần ghi thiện
ác của từng cá nhân kỹ đến mảy lông cũng không thể lọt đó là chưa kể bạn và tôi
ngay hiện tại mỗi một niệm khởi, mỗi một hành vi, chư Phật, Bồ-tát đều biết hết,
thấy hết. Vì vậy, bạn hãy mau mau buông bỏ tất cả ân oán thế gian, thực nhiện
nhiếp tâm là giới, cùng tu chánh đạo xuất thế.
Nếu chẳng lo tu, bỗng chốc vô thường tới,
thân xuống chỗ Diêm la, lúc này mới nhận ra tội của mình thì e quá muộn.
Chúng ta còn phải cảm tạ chính phủ đã
cho phép Phật pháp được lưu truyền, nhờ họ mà chúng ta được đọc, xem kinh Phật
như hiện nay. Vì vậy mà mỗi người Phật tử chúng ta, trước tiên cần phải làm một
công dân tốt, tuân thủ quốc pháp, vì lợi ích dân tộc quốc gia mà phụng hiến báo
ân đất nước.
Sám
văn:
Ngày
nay mỗi người nên tự giác ngộ sinh tâm hổ thẹn.
Đã
hiểu làm lành gặp lành, làm dữ gặp dữ thì không nên làm ác; đã biết làm lành chẳng
mất quả lành, làm ác tự rước lấy tai họa thì chớ nên khinh thường sám pháp này.
Chớ
khinh thường điều thiện nhỏ, cho là không phước, giọt nước tuy nhỏ, chảy lâu
cũng đầy bát to. Không tích thiện nhỏ đâu thể thành Thánh hiền. Chớ cho ác nhỏ
là không tội, bởi ác nhỏ nếu tích chứa lâu ngày cũng đủ chiêu họa diệt thân.
Giải thích:
Mỗi chúng ta cần phải tự mình giác ngộ,
khởi tâm hổ thẹn ăn năn sám hối, quả báo thiện ác không sai mảy may. Lành dữ họa
phúc đều do tâm ta chiêu cảm nên. Mặc dù mắt phàm của ta không thể nhìn thấu
quá trình diễn tiến từ nhân đến quả, nhưng đây là điều hoàn toàn có thực.
LÝ
DO TUYỆT TỰ
Hai năm trước tôi đi Quảng Đông, gặp một
anh hơn ba mươi tuổi, kết hôn đã được hai năm, do bị chứng chết tinh và viêm
tuyến tiền liệt mà vợ không thể mang thai nên hướng tôi cầu giúp đỡ.
Tôi bảo:
- Anh sở dĩ mắc chứng bệnh này, trị đã
lâu mà không khỏi, nguyên nhân là do trước khi kết hôn anh thường lăng nhăng,
có lắm mối quan hệ yêu đương bừa bãi bất chính, từng xâm hại, phá hủy nhiều
trinh tiết phụ nữ. Nếu như không chân thành sám hối, nguyện vì những cô gái bị
anh hại đó tụng Kinh Địa Tạng hồi hướng, bày tỏ lòng ăn năn, hối lỗi thì nội
oán hận của bọn họ dành cho anh thôi, cũng đủ để khiến anh ngay trong đời này
phải đoạn tử tuyệt tôn! Nếu như anh có thể phát nguyện từ đây nghiêm trì ngũ giới,
thệ dứt tuyệt đồ mặn ăn chay trường, hằng ngày kiên trì vào mỗi buổi sáng hoặc
tối quỳ trước Phật tụng một bộ Kinh Địa Tạng hồi hướng cho những cô gái bị anh
phá hại đời, thì dần dần bệnh sẽ khỏi.
Còn nữa, những lúc rảnh thì nên niệm thầm
“Nam mô Quan Thế Âm Bồ tát”, tất sẽ sinh được con hiếu thuận khỏe mạnh, dễ
nuôi. Anh muốn cải tà quy chánh thì phải phát thệ như tôi bày, trừ việc tụng
kinh ra còn phải mỗi ngày lễ Phật một trăm lạy.
Năm nay tôi lại đi Quảng Đông, vợ chồng
họ ẳm một bé trai một tuổi đến gặp tôi, thằng bé mi dài mắt to, tướng hảo
phương phi, trông thật bụ bẫm, khiến họ vui mừng khôn xiết.
Nguyện cho nam nữ thanh niên trong thiên
hạ, có thể nghiêm trì ngũ giới, thường tụng Kinh Địa Tạng, được vậy thì tương
lai nhất định bản thân họ sẽ có một gia đình hạnh phúc mỹ mãn. Vì trồng thiện
nhân ắt được thiện quả, tạo ác tất phải chiêu họa ương. Họa phúc, lành dữ, thảy
đều do tâm tạo.
Kinh Địa Tạng chính xác là một bộ kinh
vi diệu không thể nghĩ lường, trong kinh giảng về quả báo tu thiện làm ác của
người đời này lẫn đời sau, mô tả cảnh địa ngục đáng sợ, đủ khiến chúng sinh
nghe xong kinh hoàng, hồi đầu dứt ác hành thiện. Nếu có thể từ đó thệ giữ ngũ
giới, lễ Phật tụng kinh tu hành tinh tấn, sẽ càng thu được lợi ích lớn.
Trong kinh nói: “Lại vầy nữa, này Phổ Quảng!
Trong mỗi tháng những ngày: mùng một, mùng tám, mười bốn, rằm, mười tám, hăm
ba, hăm bốn, hăm tám, hăm chín và ba mươi, mười ngày trên đây là ngày mà các
nghiệp tội kết nhóm lại để định là nặng hay nhẹ.
Tất cả những cử chỉ động niệm của
chúng sanh trong cõi Nam Diêm Phù Đề không có điều gì chẳng phải là tội lỗi, huống
nữa là những kẻ buông lung giết hại, trộm cắp, tà dâm, vọng ngữ trăm điều tội lỗi.
Về đời sau, nếu có chúng sanh nào
trong mười ngày trai kể trên đây, mà có thể đối trước hình tượng của chư Phật,
Bồ Tát, Hiền, Thánh để đọc tụng Kinh, này một biến, thời chung quanh chỗ người
đó ở bốn hướng Đông, Tây, Nam, Bắc trong khoảng một trăm do tuần không có xảy
ra những việc tai nạn.
Còn chính nhà của người đó ở, tất cả
mọi người hoặc già, hoặc trẻ về hiện tại và vị lai đến trăm nghìn năm xa khỏi hẳn
các ác đạo.
Trong mười ngày trai trên đây nếu
có thể mỗi ngày tụng một biến Kinh này, thời trong đời hiện tại hay làm cho người
trong nhà không mắc phải bịnh tật bất ngờ, đồ ăn mặc dư dật.”
Tụng Kinh Địa Tạng có nhiều lợi ích, nhiều
điều hay như thế, những vị mới biết đến Phật pháp, nếu không ngại xin mời tụng
thử hơn một tháng xem? Nếu vị nào do bận rộn công tác, không thể y theo ngày
tháng liệt kê trên mà tụng kinh, thì cũng có thể tụng bất kỳ thời gian nào. Cần
nhớ kỹ tuyệt đối không nên sát sinh giết vật để ăn, phải bỏ mặn ăn chay, cũng
không nên ăn ngũ tân, làm được vậy thì quý vị sẽ thấy ngay trên thân mình sẽ
phát sinh việc tốt lành bất tư nghị.
Người đời đa số đều nghĩ sai lầm, cứ cho
rằng chết là hết, cảnh giới sau khi chết cũng như thuyết lục đạo luân hồi của
nhà Phật giảng là hoàn toàn không có thực, nhưng hiện nay không ít học giả
chuyên môn nghiên cứu kinh nghiệm lúc cận tử đã viết bài đăng lên báo, làm thay
đổi quan niệm này.
Ngày 5/9/2006, Thời báo Sinh Mệnh đã
đăng bài nghiên cứu của Giáo sư Phùng Chí Dĩnh - tiền Viện trưởng Bệnh viện An
Định ở Thiên Tân là chuyên gia nghiên cứu đã viết bài “Kinh nghiệm sắp chết” của
một trăm vị sống sót trong trận động đất ở Đường Sơn, trong số nạn nhân này có
nữ sĩ họ Địch tâm sự như sau: Ý thức tôi hầu như dần dần lìa khỏi thân, bởi tôi
đã có thể nhìn thấy mình, tôi bắt đầu nhớ lại các việc trước đây. Từ bé thơ rồi
đi học, trưởng thành, yêu đương, những chuyện bình thường không hề lưu tâm
nhưng bỗng dưng đều nhớ rõ hết.
Tình cảnh này chứng minh trong Kinh Lăng
Nghiêm miêu tả: “Lúc lâm chung chưa xả hơi ấm, thiện ác cả đời ngay đó đều hiện
ra”.
Tôi trước đây từng đọc nhiều bài viết
trong nước lẫn ngoài nước hoặc xem các VCD về vong linh của nước Mỹ, tường thuật
những liên quan sau khi chết. Nội dung chứng tỏ lục đạo luân hồi là có thực, có
tồn tại giống như trong Kinh Lăng Nghiêm, Kinh Địa Tạng Phật đã giảng. Chỉ là
do người không đồng quốc gia tường thuật mà thôi. Đây cũng chứng minh lời Phật
Thích Ca nói là chân ngữ, thật ngữ. Trí huệ Phật thấu suốt tất cả, chúng ta
không thể không tin.
Sám
văn:
Chúng
con vô phước sinh vào đời mạt pháp, nếu không siêng năng học tập tu hành, không
dốc sức làm lành, thì đến phút cuối, có ăn năn cũng muộn. Bây giờ đã biết rõ mọi
tội lỗi trong kinh Phật dạy, đã nhận ra tội mình thì lẽ nào không bỏ ác hành
thiện? Vì đời này nếu không xả thân cầu đạo e rằng phải đọa địa ngục. Bởi trong
lúc tạo tội, thường ôm lòng độc ác, nóng nảy, giận hờn mãnh liệt. Giống như giận
người nào thì muốn người ấy chết. Ghét một người nào, thì không ưa thấy điều tốt
của họ. Muốn hủy hoại ai, thì quyết dồn họ vào thống khổ. Muốn đánh người nào,
thì quyết cho người ấy đau thấu trời đất.
Khi
nổi sân hung bạo thì vô lễ chẳng kể tôn ti thượng hạ, thốt toàn ác ngữ thô
ngôn, mắng nhiếc đủ điều; thậm chí la hét chửi vang như sấm dậy, mặt mày tóe lửa.
Giải thích:
Chúng ta hiện đang khỏe mạnh nên dốc
lòng học Phật tu hành, đừng ỷ y phút lâm chung sẽ có con cái siêu độ giùm cho.
Dù con cái chí hiếu hết lòng tổ chức lễ tụng kinh siêu độ, nhưng nên nhớ kỹ
công đức có bảy phần, bản thân người được hồi hướng chỉ hưởng một phần. Vì vậy,
phải lợi dụng cơ hội mình đang còn khỏe mạnh, mà nỗ lực tự tu, lo tụng kinh,
sám hối, dùng tiền của chính bản thân bỏ ra phóng sinh, in kinh, sách thiện tạo
công đức v.v… như vậy thu hoạch sẽ trọn vẹn, chắc chắn hơn.
Lời trong kinh nói chân thực bất hư, cho
nên nhất định ngay đời này chúng ta phải phát đại Bồ đề tâm, tu thoát tam giới,
nếu không chắc chắn sẽ đọa địa ngục. Bởi vì những lúc ta tạo ác nghiệp, thường
khởi tâm ác độc như sói lang. Nếu hận người nào, thì muốn họ chết ngay. Nếu tật
đố ai, thì không thấy điểm tốt nào của họ. Nếu muốn hủy một người nào, nhất định
làm cho họ khổ mới nguôi hận. Khi đánh ai, là muốn họ đau thấu trời đất. Lúc phẫn
nộ, hai mắt phóng ánh nhìn tóe lửa. Bất kể thân phận địa vị, tất cả lời ác độc
đều phun hết ra, mù quáng tạo đủ thứ tội lỗi.
Sám
văn:
Khi
làm phước thì thiện tâm yếu ớt. Tuy lúc đầu muốn làm nhiều, sau lần lần giảm ít
đi. Tâm đã không quyết chí, luống để ngày tháng trôi qua, do dự mãi cho đến khi
không còn nhớ đến hành thiện.
Đủ
biết lúc làm tội, tâm rất mãnh liệt; còn lúc làm phước thì ý chí bạc nhược yếu
hèn. Nếu đem cái nhân làm phước yếu hèn ấy mà cầu thoát quả báo tạo ác dữ dội
kia, thì làm sao được?
Giải thích:
Có lúc chúng ta khởi niệm muốn làm chút
việc tốt, nhưng do niệm thiện mỏng manh nên ý lành này nhanh chóng tiêu tan.
Thí như muốn cứu giúp nạn khổ, lúc vừa nghe thì tâm muốn đóng góp, song đến lúc
cầm tài vật trong tay đem cho, thì lại khởi tâm tiếc, nên cho không được bao
nhiêu.
Mới đầu phát nguyện hùng hổ vậy, nhưng
chỉ là đầu voi đuôi chuột, lúc nói thì mạnh như sấm nổ rền vang nhưng lúc làm
thì như nước nhỏ giọt, cứ do dự trù trừ mãi. Rồi theo thời gian bèn đổi ý, quên
luôn.
Hôm nay chúng ta muốn dùng chút nhân
toan làm thiện tí tẹo đó để cầu quả báo thoát ly ba cõi ác hoặc sinh về thế giới
Cực Lạc, thì làm sao nguyện có thể thành?
Nếu như có cơ hội làm việc lành, thì nhất
định phải hết sức trân quý, vì đấy chính là trồng phúc điền cho mình.
PHƯƠNG
THUỐC GIẢI ĐỘC
Tại An Huy có một người tên là Tưởng Tử
Viên, có phương thuốc bí truyền giải độc thạch tín rất hay và cực kỳ hiệu quả.
Nhưng ai đến cầu trị, y đều đòi giá rất cao. Nếu như không đáp ứng đủ cho y, thì
y cứ ngồi nhìn, để mặc người bệnh trúng độc chết, chẳng chút động lòng.
Một hôm y sang huyện kế bên hành nghề, nửa
đêm bỗng dưng chết đi. Y báo mộng cho người chủ phòng trọ nói:
- Tôi do tham tiền, hành động sai lầm, để
mặc chín mạng người chết. Bọn họ chết rồi dâng cáo trạng kiện, nên Âm ty phán
tôi chín đời đều bị uống nhầm Thạch tín mà chết. Giờ tôi xin đem bí phương giải
độc Thạch tín này mà nói cho ông biết, nếu như ông có thể dùng phương thuốc đó
cứu một người, thì tôi giảm được một đời thọ báo ác.
Cuối cùng y nói:
- Giờ tôi hối hận thì đã quá muộn!
Câu chuyện này trích từ “Nhân Quả Tuyển
Tập” do Uông Đạo Đỉnh đời Thanh viết. Trong bài ghi bí phương chỉ có một vị thuốc
là: Phòng phong (防風)
một lạng, đem nghiền nát thành bộ, dùng nước hòa uống. Ngoài ra trong “Dị Đàm
Khả Tín Lục” có ghi: Dùng nước lạnh hòa Thạch cao cũng có thể giải độc Thạch
tín.
Sám
văn:
Kinh
dạy rằng: “Sám hối thì không tội nào mà không diệt”.
Nhưng đến lúc sám hối, quyết phải đầu
thành đảnh lễ, năm vóc sát đất như núi Thái sụp đổ, thậm chí không tiếc thân mạng.
Vì muốn diệt tội mà ân cần, khuyên nhau tự kiểm điểm xem mình từ khi sinh ra đến
nay đã gây ra bao nhiêu tội lỗi? Phải biết tự trách, ân hận không tiếc thân mạng,
có kham được khổ nhọc mà chân thành sám hối như thế mới thu quả tốt.
Trong
kinh có dạy:
“Chưa
từng thấy có chút thiện nào từ giãi đãi lười biếng mà sinh; chưa thấy có chút
phước nào từ kiêu mạn, buông thả mà được”.
Giải thích:
Trong kinh giảng: Chân thành sám hối
không tội nào mà không tiêu. Thế nhưng gọi là sám hối, tức phải biết nhận tội
kiểm lỗi, thống trách mình quá khứ không hiểu Phật pháp, nên tạo nhiều tội.
Nhân đó năm vóc gieo sát đất, là biểu hiện thành tâm sám lỗi, giống như địa chấn
núi sụp vậy. Thậm chí cảm thấy mình hiện tại đáng phải đọa địa ngục, hoặc có chết
nhiều lần cũng không giải hết nỗi ân hận trong lòng. Nội việc chỉ nghĩ đến tội
trong một đời này ta đã giết ăn biết bao chúng sinh, cũng đủ đáng chết trăm
ngàn lần rồi, huống nữa là các tội khác.
Bởi vậy khi sám hối, tụng kinh, niệm Phật
tất cả công đức đều phải hồi hướng cho chúng sinh. Nếu chỉ vì cầu khỏe mạnh, cầu
phúc cho mình mà tụng kinh bái sám, thì là tâm ích kỷ, không thể làm tiêu tan
tâm oán hận của những chúng sinh bị mình giết hại.
Vì vậy chư vị đồng tu, các gia đình Phật
hóa, cần nên đốc thúc khuyến khích nhau, giúp nhau nhớ lại những tội thập ác mà
mình đã tạo mà sám hối, còn phải đặt mình vào vị trí kẻ bị hại để thấu hiêu cảm
thông rằng: Những lúc ta giết vật đó, chúng đau đớn kinh hoàng biết dường nào,
mới thấy ta độc ác và ti tiện biết bao nhiêu!
Khi đó bạn sẽ sinh tâm đồng thể đại bi,
khởi tình thương xót chúng sinh, sinh lòng ăn năn tự trách, mới có thể cam chịu
khổ nhọc mà chịu đến đạo tràng bái sám.
Nếu như không thể phát tâm đồng thể đại
bi thì khi niệm Phật, nhiễu Phật chưa được mấy vòng, tâm sẽ sinh mỏi mệt, chán
nản, hoặc lạy chưa bao nhiêu đã thấy sức không kham nổi.
Lại có người ngồi thiền tĩnh tâm chưa được
bao lâu, đã thấy chân đau, lưng nhức, muốn đi nằm nghỉ. Vừa duỗi chân nằm là ngủ
say như chết, ném hết việc lễ Phật tu hành lên tận chín tầng mây.
Từ xưa đến nay, chưa từng thấy ai biếng
nhác mà thành đại sự, nói chi tới thành đạo? Cũng không có ai thành tựu việc lớn,
mà sinh tự mãn, phóng túng tự kiêu.
Sám
văn:
Đệ
tử hôm nay tuy được thân người, nhưng tâm hằng trái đạo, vì từ sáng đến trưa,
chiều, tối từng giờ từng phút, từng niệm, từng giây không hề nhớ Tam bảo, nhớ
pháp tu. Nay thử kiểm lại thì thấy không có công phu nào đáng nói.
Chỉ
có phiền não trọng chướng mịt mù, nếu không kiểm điểm thì cứ tưởng lầm, tự cho
là mình có nhiều công đức.
Giải thích:
Xin kể câu chuyện nhỏ:
TỔN
NGƯỜI LÀ HẠI MÌNH
Ngày nọ Khổng sư đệpháp danh Quả Mạnh đến
nhà tôi, kể rằng mấy hôm trước vợ chồng người chị gái đến nhà thăm ông.
Chị ông vừa vào nhà thì liền đến bên giường
chơi đùa với đứa con gái mới sinh tám tháng của ông, con bé tỏ vẻ vui thích, bật
cười sáng khoái. Nhưng lúc chị khom xuống, bé nhìn thấy anh rể Quả Mạnh (là chồng
chị đang đứng phía sau) thì lộ vẻ kinh hãi khóc to. Mẹ bé (vợ Quả Mạnh) vội ôm
con lên, thì bé im bặt, nhưng mắt vẫn mở to nhìn trừng trừng vào khoảng không
phía sau anh rể họ. Mẹ cháu vội xoa lưng, vỗ về con để trấn an. Nhưng một tiếng
sau thì bé phát sốt cao.
Quả Mạnh lại kể, anh rể ông nửa tháng
trước đang chỉ đạo xây một tòa kiến trúc, thì vô ý bị té ngã suýt chút nữa là đầu
bị đập vào đống gỗ tạp, xem như anh may mắn thoát hiểm trong gang tấc.
Thực ra ngay lúc Quả Mạnh kể thì tôi liền
quan sát và hiểu ngay nguyên nhân khiến cháu bé khóc. Đó là do cháu nhìn thấy một
cái đầu lâu và rất nhiều vong quỷ đang bu quanh người anh rể này, chúng vừa chỉ
trỏ vào ông vừa căm hận trách: “Đồ ác nhân xảo biện hại người!”
Quả Mạnh nói:
- Anh rể ông là cán bộ cao cấp tại một bệnh
viện lớn nọ, ông chuyên xử lý việc tranh chấp. Hễ xảy ra sự cố có người chết
oan, thì ông sẽ đứng ra tranh cãi giúp cho y viện, dốc sức giúp y viện thoát tội,
không bị bồi thường hoặc trả phí thật ít cho người chết.
Tôi nói:
- Bệnh nhân tuy không do anh rể ông hại
chết, nhưng anh ta xử lý không công bình, toàn lợi dụng tài ăn nói của mình để
biện hộ giành phần thắng về cho y viện, khiến người chết bị thiệt thòi, chịu
hàm oan, thân quyến họ cũng không được bồi thường xứng đáng! Do vậy mà những
vong này ôm thù nhất quyết tìm ông rửa hận.
Tôi thúc Quả Mạnh hãy mau mau đi khuyên
anh rể: Đừng làm những việc mê muội thất đức, trái lương tâm như vậy nữa, vì
khi ác báo ập tới thì xem như hết cứu.
- Hãy bảo chị và anh rể ông phải mau học
Phật ăn chay, nên vì những oan quỷ đó tụng Kinh Địa Tạng, cầu siêu và hướng họ
sám hối. Hằng ngày còn phải vì mỗi vị tụng một bộ kinh, ít nhất cũng phải tụng
cho đến khi oan quỷ báo mộng, phát tín hiệu tốt.
Tôi nhắc lại:
- Về bảo với anh rể ông là bắt buộc phải
hành đúng như tôi chỉ bày, ắt sẽ giúp anh ta kéo dài thọ mệnh và tương lai có
chuyển biến tốt.
Anh rể Quả Mạnh vốn được mọi người công
nhận là hiếu tử. Nếu như anh bị té và chết bất ngờ, thì mọi người chắc chắn sẽ
buông lời oán trách: “Trời già bất công, người hiền không được trường thọ”.
Rõ ràng là do chẳng am tường nhân quả và
không biết Phật pháp nên anh đã hành sự điên đảo, vậy có khổ hay không?
Sám
văn:
Nếu
làm được chút việc thiện gì liền nói: Ta làm, ta biết thực hành, người khác thì
không! Tâm sinh cao ngạo, xem “mục hạ vô nhân”, thấy quanh mình không có ai
đáng để mắt tới. Tự xét ngẫm nghĩ thật đáng xấu hổ.
Giải thích:
Nếu chân thành nghĩ đến những tội mình
đã tạo ra như sám văn đã nói, thực lòng ăn năn, chân thành hổ thẹn, mới gọi là
sám; chứ không phải chỉ đọc văn sám suông. Nếu cứ đọc suông cho đủ số thì xem
như sám mà không phải sám, chẳng thể phát huy tác dụng diệt tội.
Đã sám tội quá khứ của mình, còn phải
nhìn thấy ánh sáng quang minh nơi tâm, hoan hỷ bố thí cho chúng sinh. Nguyện
chúng sinh đều có thể bỏ tối về sáng, thân cận Tam bảo. Tự thanh tịnh bản tâm,
tự tăng lợi ích. Nhân quả báo ứng không sai mảy may. Các tội lớn lỗi nhỏ thảy đều
có báo ứng, không thể che giấu lừa dối, vì vậy bắt buộc phải sám hối trừ sạch.
Sám
văn:
Đại
chúng chớ nói: “Tôi không có tội gì, mà đã không tội, thì đâu cần sám hối?” Nếu
có ý này, xin hãy từ bỏ ngay. Bởi vì chính những lầm lỗi sơ sót nhỏ nếu gộp lại,
sẽ thành tội lớn.
Một
khi phẫn hận, sân si khởi lên, huân lâu thành thói quen khó sửa. Chẳng nên
buông thả tâm ý, để niệm chạy cuồng mà không điều phục. Nếu khéo nhẫn nhịn điều
phục tâm, thì phiền não có thể trừ. Nếu cứ giãi đãi lười biếng buông lung thì
chẳng cứu được.
Giải thích:
Bất kỳ ai cũng không nên nói “Tôi chẳng có
tội, đâu cần sám hối”. Cho dù là người ưu tú nhất thế gian, thậm chí là người
không làm ác, chuyên tâm làm lành trong đời này, cũng không bảo đảm là đời trước
hoặc nhiều kiếp nữa mình chưa từng tạo vô số nghiệp ác (sát, đạo, dâm, vọng)…
Không ai có thể nói: “Tôi không có tội đâu cần sám hối!”.
Ngày thường không để ý lưu tâm, là bất
chợt sẽ phát ngôn bừa, tạo thành lỗi, nếu không kịp tỉnh, sửa lỗi ngay, thì đã
cấu thành tội ác khẩu!
Lần đầu tham chút lợi nhỏ, lấy của người
mà chẳng nhận ra đó là lỗi, do thường tham lợi nhỏ, tật này “tích tiểu thành
đa” lâu ngày tội nhỏ hóa lớn, biến thành kẻ đại ác!
NI
DIỆU HÂN
Năm 2004, tôi và cư sĩ Quả Năng đi đến
Am Pháp Hoa. Lúc tôi đang giảng trên đại điện, bỗng thấy một nữ cư sĩ dìu một
Sư ni khoảng 40 tuổi tiến vào đại điện. Vị Sư này chân trái không nhắc lên để
bước qua bậc của được, nên cô Phật tử phải dùng hai tay phụ nhấc chân Ni lên
đưa giúp vào đại điện.
Ngay khi đó, tôi bỗng nhìn thấy rõ ràng
có vong một con rắn to đang quấn chặt quanh chân trái Sư ni này.
Đợi đến lúc Sư hỏi nguyên nhân căn bệnh
của mình, tôi liền chất vấn:
- Trước khi xuất gia bà có giết qua nhiều
rắn hay không? Trong số đó có một con rắn to, tôi dùng hai tay miêu tả độ dài
ngắn của con rắn.
Bà lập tức nói:
- Trước khi xuất gia tôi làm công tại tiệm
ăn, từng giết rất nhiều loài vật, trong số đó có một con rắn to. Sau khi xuất
gia rồi tôi cũng đã sám hối trước Phật.
Tôi giải thích:
- Con rắn này là xà vương, đời quá khứ
nó cũng từng xuất gia tu hành, do tâm sân nặng mà bị đọa làm vua rắn. Xin bà
hãy vì nó tụng bảy bộ Kinh Địa Tạng để siêu độ, cầu cho nó sinh làm người trở lại
xuất gia tu đạo và tôi mong tất cả chúng ta hãy cùng giúp đỡ nó.
Rồi tôi dặn dò:
- 9 giờ tối nay, khi bà tĩnh tọa, hãy vì
xà vương niệm “Nam mô Quan Thế Âm Bồ-tát” khoảng nửa tiếng là được rồi, tôi và
Quả Năng cũng sẽ phụ giúp bà siêu độ xà vương cho thành công. Bảy bộ Kinh Địa Tạng
này bắt buộc bà phải tụng xong trong ba ngày, tùng càng nhiều càng tốt!
Tối đến khi tĩnh tọa, tôi giảng “yếu
nghĩa tâm kinh” cho vong linh xà vương nghe và khuyên nó nên buông bỏ tâm sân hận,
vì làm vậy chính là tạo công đức, tức khắc sẽ được đầu sinh nhân gian trở lại
tu hành.
Xà vương vâng lời, thế là nó liền đi đầu
thai. Sinh vào một nhà phú quý, là một bé trai. Tôi quán sát thấy đến năm 17 tuổi
thì nó sẽ đến Thiên Đài xuất gia làm Tăng.
Hôm sau, lúc tôi và Quả Năng dùng cơm
sáng, vị Sư ni đến cảm tạ và nói cái chân đau đã lành rồi.
Tôi nhắc bà phải tụng cho xong bảy bộ
Kinh Địa Tạng để gia tăng thêm phúc báu cho bé trai kia ở nhân gian.
Hôm ấy giảng pháp sáng xong, tôi nghĩ
dùng cơm trưa xong thì giảng tiếp đến bốn giờ rưỡi chiều, rồi đợi cư sĩ Ninh Ba
lái xe đến đón về.
Nhưng khoảng bốn giờ chiều, thì vị Sư ni
kia đột nhiên đứng dậy, chạy tới trước tôi la lớn:
- Ngài Quả Khanh! Xin hãy cứu tôi!
Rồi bà đứng tại đại điện vung vẫy tay áo
tràng, quơ tay múa chân.
Lúc đó các cư sĩ trong điện đều rời chỗ
ngồi đứng dậy vây quanh. Tôi thỉnh mọi người hãy vì Sư niệm “Nam mô Quan Thế Âm
Bồ-tát”. Riêng tôi vẫn đứng giữa điện vừa trì Chú Đại Bi vừa quan sát để tìm
xem là linh thức nào đang gá vào thân bà?
Một phút, hai phút, ba phút trôi qua…
tôi vẫn chưa nhìn ra là vong linh nào đang đến đòi nợ vị Ni kia, đành phải cầu
Bồ-tát Quan Thế Âm gia hộ. Đột nhiên vị Ni đang quơ tay múa chân kia bỗng té
nhào xuống nằm sóng xoài trên đất chân trái duỗi ra, chân phải cong lại. Trong
chớp mắt tôi nhận ra hình dạng này giống y như hình hài một cô gái bị té lầu chết.
Lúc đó tôi rất bàng hoàng, lòng thực sự lo âu vì tình huống phát sinh bất ngờ
này, những niệm ưu tư này trong chớp mắt đã tan biến, bởi tôi tin chắc rằng Phật,
Bồ-tát tuyệt không hề ngồi nhìn mà bất quản! Nhất định các Ngài sẽ từ bi gia hộ.
Khi đó mọi người niệm Phật vang rền đại
điện, Chú Đại Bi lại về trong tâm tôi. Tôi tin chắc vị Sư này không thể chết
đi, cho dù sắc diện bà đã chuyển sang sắc tối đen cực kỳ u ám. Trong suốt mười
phút, vị Sư không hề động đậy, tôi cảm thấy đại chúng cũng đang lo âu cho sự sống
chết của bà. Nhưng do tôi cứ đứng yên chắp tay trong đại điện, nên mọi người
cũng an lòng, bình tĩnh niệm Nam mô Quan Thế Âm Bồ-tát.
Đột nhiên, vị Ni kia lồm cồm đứng dậy,
hai tay chắp lại đi về phía tôi, miệng lớn tiếng rên rỉ:
- Ngài Quả Khanh, xin hãy cứu tôi!
Tôi thầm cảm tạ Phật lực gia trì, khẽ hỏi:
- Ngươi là ai?
Vong linh đáp:
- Tôi là một cô gái hai mươi hai tuổi,
nguyên là có hai nam nhân muốn cưới tôi. Nhưng hắn (chỉ tiền thân vị Ni này kiếp
trước là nam) vì muốn chiếm đoạt tôi, nên đã lừa tôi lên lầu, dở trò xâm hại vô
lễ, nhưng tôi kiên quyết không thuận theo, vì không được thỏa mãn thú tính nên
hắn đã xô tôi té lầu mà chết. Lúc đó oan hồn tôi một mực đeo theo hắn, rất muốn
báo thù, giết hắn chết, nhưng do hắn còn phúc báu quá lớn, nên tôi không thể tiếp
cận làm hại được. Mãi đến sau này, khi hắn chết đi rồi thì đầu thai làm nữ
nhân, song tôi vẫn chưa thể tiếp cận báo thù được.
Rồi đến khi hắn vào làm ở tiệm ăn, tạo đại
sát nghiệp, tự tàn phá phúc báu của mình khiến phúc thọ bị giảm thì xem như tôi
đã có cơ hội báo thù rửa hận! Nhưng đột nhiên hắn lại xuất gia! Vì vậy mà ngay
trong đời này của hắn, tôi vẫn chưa báo được cừu thù.
Suốt hai ngày nay, tôi đã được nghe ngài
thuyết pháp, nên cũng minh bạch lý nhân quả. Tôi thầm nghĩ: “Đời trước hắn hại
tôi chết, ắt là có nguyên nhân khuất tất trước đó nữa. Biết đâu, tôi cũng đã từng
hại chết hắn? Nếu như bây giờ tôi báo thù, thì oan oan tương báo sẽ tiếp nối
tái diễn không bao giờ dứt, thế thì tôi sẽ thống khổ hết chỗ nói”. Vì vậy mà
tôi không còn muốn báo thù hắn nữa, cầu xin ngài hãy chỉ cho tôi con đường sáng
để đi.
Dù khi nạn nhân trình bày, lời nói không
được rõ ràng, nhưng tôi rất hiểu: Oan hồn cô gái này đã hỷ xả, chịu buông bỏ
oán thù, phát tâm muốn quy y Phật. Thế nên tôi bảo:
- Nơi này gần Phổ Đà, cô hãy đến đó bái
Bồ-tát Quan Âm làm thầy mà tu hành nha.
Tôi nói xong, liền thấy Sư ni thần thái
khôi phục lại bình thường, nhưng vẫn còn ẩn hiện vẻ phấn khởi mừng vui của vong
linh. Mấy vị nữ cư sĩ liền dìu bà vào liêu phòng nghỉ ngơi.
Lúc này đã hơn 5 giờ chiều. Cư sĩ Ninh
Ba thúc tôi khởi hành. Lúc tôi chuẩn bị lên xe, bỗng nghe tiếng gọi to:
- Ngài Quả Khanh, xin hãy đợi một chút!
Tôi quay đầu nhìn, thấy Sư ni hồi nãy
hình dáng giống cô gái trẻ tuổi bước ra, tiến đến trước tôi quỳ xuống bậc thềm
biểu thị lòng cảm tạ.
Tôi bảo:
- Đó là nhờ Bồ-tát Quan Âm từ bi gia hộ,
chúng ta nên làm đệ tử ngoan của Bồ-tát. Ngài lúc nào cũng gia hộ cho các Phật
tử.
Qua câu chuyện này, tôi muốn nhắc nhở: Nếu
tâm sinh khởi chút ý hận cho dù là trong khoảnh khắc cũng sẽ huân thành tập
quán xấu, vì vậy phải lo tu chỉnh, sửa sai ngay.
Không nên dung dưỡng chút lỗi nhỏ nào, cần
cảnh giác trong từng khởi tâm động niệm, lúc nào cũng phải luôn đề tỉnh, giữ
chánh niệm, tăng gia quán chiếu tập tu hạnh nhẫn. Được vậy mới không sinh phiền
não mà còn tăng thêm công phu tu cho bản thân.
Sám
văn:
Xin
đại chúng hãy lắng nghe kinh “Tội Nghiệp Báo Ứng Địa Ngục” dạy:
Ngày
nọ Phật đang ở nơi núi Kỳ Xà Quật, thành Vương Xá, cùng với chư Đại Bồ-tát, chư
Thanh Văn và quyến thuộc của các Ngài, cùng các Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc,
Ưu bà di, chư thiên, quỷ thần… thảy đều đến dự hội.
Lúc
đó Bồ-tát Tín Tướng bạch Phật:
-
Bạch Thế Tôn, hôm nay có đủ các loài chúng sinh sang, hèn, giàu, nghèo, có cả
các chúng sinh ở địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh… Họ nghe Phật thuyết pháp cảm thấy
hạnh phúc như con thơ gặp mẹ, như bệnh gặp thuốc, như lạnh có áo, như tối có
đèn.
Lúc
này Phật quán sát thấy thời cơ đã đến liền phóng đạo hào quang trắng giữa đôi
mày, soi khắp mười phương vô lượng thế giới, ngay lúc đó địa ngục ngưng hành
hình, thống khổ hóa an. Tất cả chúng sinh đang thọ tội, nương theo ánh sáng
quang minh của Phật mà tới; nhiễu quanh Phật bảy vòng, thành tâm lễ bái thỉnh
Phật thuyết pháp và nhờ đây mà được giải thoát.
Giải thích:
Tôi xin phụ giải đoạn mô tả: “Lúc phật
phóng quang giảng pháp thì địa ngục ngưng hành hình, thống khổ hóa an” bằng câu
chuyện sau đây:
Năm 1990, sau khi cả nhà tôi ăn chay niệm
Phật rồi, toàn gia pháp hỷ sung mãn, đúng là “hạnh phúc như con thơ gặp mẹ, như
bệnh được lành, như lạnh được áo, như tối được đuốc” chỉ cần vừa về đến nhà, nếu
không tụng kinh thì tôi trì chú. Hơn nữa gặp ai đến thăm nhà, tôi luôn khuyên họ
giữ giới, niệm Phật, tụng kinh, trì chú, tập tĩnh tọa để khai mở trí tuệ. Trong
thời gian chưa đầy sáu tháng, nhiều người khai mở được thiên nhãn, thiên nhĩ…
tính ra có hơn mấy mươi vị. Nhưng mấy tháng sau lúc tôi gặp lại họ, thì đại đa
số năng lực này đều bị mất hết, bởi do họ không thể giữ giới, chẳng bỏ được rượu
thịt.
Kinh Kim Cang nói: “Phàm những gì có hình
tướng đều là hư vọng”. Tôi kể câu chuyện dưới đây ngoài việc chứng minh cho cảnh
trong kinh đã thuyết ra, tuyệt không có ý xúi người học Phật đắm chấp hình tướng,
mê cầu thần thông huyền diệu; thực lòng tôi kể chuyện này chỉ là muốn giúp mọi
người hiểu rõ nhân quả, tăng thêm tín tâm, tinh tấn tu hành mà thôi. Nên nhớ rằng
người chân chính học Phật phải luôn luôn dụng công tu, thường điều phục tâm,
nghiêm trì giới luật, chí thành sám lỗi, sửa sai tối kị ham mê thần thông,
ngoài tâm cầu pháp!
TIỂU
PHÍ
Có một thanh niên tên Tiểu Phí, sau khi
tôi khuyên y dứt tuyệt đồ mặn, ăn chay trường, tập tĩnh tọa rồi, thì chưa đầy mấy
ngày y đã đạt được một số năng lực vi diệu. Một hôm y đến nhà tôi chất vấn:
- Ngài nói tụng Chú Đại Bi uy cảm thiên
địa hả? Nhưng hằng ngày, sáng nào tôi cũng đều tụng mười biến Chú Đại Bi, song
chẳng thấy hiện tướng lành gì ráo, chỉ thấy quỷ thần qua đường ngó tôi nửa mắt
mà thôi, việc này là sao vậy?
Lúc đó Quả Đạt (con trai tôi) 15 tuổi
cũng đang ở đó. Thế là tôi bảo cả hai:
- Bây giờ tôi tụng Chú Đại Bi , Tiểu Phí
thì lo nhìn cảm ứng trên trời, còn Quả Đạt thì theo dõi cảm ứng nơi địa ngục
nhé![10]
Căn dặn xong tôi liền ngồi khoanh chân, gõ mỏ chuông (lúc đó tôi còn rất chấp
tướng, thực ra chẳng cần vậy) và bắt đầu tụng Chú Đại Bi. Tôi tụng chưa được mấy
câu, thì chợt nghe tiếng Tiểu Phí khóc nức nở bên tai. Sau khi tụng xong, tôi hỏi
y:
- Vì sao mà khóc vậy?
Y đáp:
- Ngài vừa gõ chuông, thì tôi thấy có rất
nhiều Thiên nhân, quỷ thần tụ hội, ngài vừa đọc chú lên thì có rất nhiều thiên
chúng đồng quỳ xuống chắp tay nghe, có lúc họ đứng chắp tay nghe, còn có hai
con rồng đang bay cũng đáp xuống, nằm trên đất lắng nghe. Ngài tụng xong rồi
thì tất cả đều hành lễ mà đi, tôi chấn động quá nên bật khóc.
Quả đạt thì kể trong lúc tôi tụng chú,
nơi địa ngục liền đình chỉ tất cả hình phạt trị tội. Toàn bộ kẻ thọ hình đều quỳ
tại đó chắp tay hướng lên nghe Chú Đại Bi. Tụng chú xong, thì nơi địa ngục bắt
đầu hành hình lại, nhưng mức độ giảm đi, người thọ hình chịu thống khổ cũng nhẹ
hơn.
Nghe họ kể tự nhiên tâm tư tôi cao hứng,
thế là tôi bảo Tiểu Phí:
- Giữ giới chẳng phải chỉ là không sát
sinh, không ăn thịt mà còn phải: Không
làm các điều ác, siêng làm các điều lành, thành thật sám hối các tội nghiệp đã
tạo trong quá khứ nữa.
Hễ bạnh càng tinh tấn sửa tật tánh mình,
thì âm thanh tụng chú biến chuyển càng vang xa và chúng sinh đến nghe kinh càng
đông! Tụng kinh là như vậy đó! Tụng chú là nương sức mạnh của chú làm tiêu tội
nghiệp, quỷ thần Thiên nhân nghe rồi lập tức cũng tiêu định nghiệp của họ.
Tụng kinh ắt có thể khiến chúng sinh
minh lý, biết sai hối lỗi, vĩnh viễn dứt vô minh. Người tu hành chân chính tụng
kinh, sẽ khiến Thiên nhân nghe được tăng thọ, quỷ thần sớm ra khỏi ác đạo chuyển
sinh vào cõi lành. Hễ ai không làm các điều ác, luôn làm các điều lành, thì khi
tụng kinh trì chú sẽ chiêu cảm vô lượng công đức.
Nếu người tham sân si nặng hoặc không giữ
giới mà tụng kinh trì chú thì chẳng đạt được kết quả tốt.
Lúc đó tôi mới trì giới, thời gian bỏ mặn
ăn chay chưa được lâu, cho nên chỉ tụ tập được nhiều thiên nhân, quỷ thần đến
nghe chú. Nếu như tôi tu hành tốt, ắt sẽ có vô lượng chúng sinh đến nghe kinh,
thọ ích. Hơn nữa trong lúc tụng kinh chú, tâm phải định tĩnh chuyên nhất, nếu
không sẽ khó đạt kết quả tuyệt đối.
Ngày 23/10/1994, lần đầu tôi đi Vạn Phật
Thánh Thành (đến chỗ ngài Tuyên Hóa), sau khi quay về rồi, lúc tôi và con gái
Quả Lâm đến Phổ Đà Sơn lễ Phật, tại Phổ Tế Tự đã gặp một vị thọ thần cây Chương
ngàn năm, ông nói mình nghe ngài Tuyên Hóa giảng “Tâm Kinh” rồi, nhưng không hiểu
nghĩa câu “Vô khổ, tập, diệt, đạo” và hướng tôi cầu xin giải thích.
Chúng tôi hiếu kỳ hỏi ông:
- Đại sư giảng kinh tại Mỹ, ông ở tại Phổ
Đà Sơn (Đại Lục), vì sao có thể nghe ngài giảng kinh được chứ?
Thọ thần nói:
- Khị ngài Tuyên Hóa giảng kinh, khắp
pháp giới đều nghe được hết, chỉ có con người bị tài sắc danh lợi che mờ làm lụy
mới không nghe không thấy, còn tất cả các chúng sinh khác đều im lặng nghe Thượng
nhân giảng pháp, lo tự huân tu, bồi dưỡng hạt giống Bồ-đề.
Ông kể mình đã nghe ngài Tuyên Hóa thuyết
pháp từ rất lâu rồi.
Lúc đó tôi giải đáp những điều thắc mắc
trong Tâm kinh cho ông nghe. Hơn nữa sau khi về nhà, tôi đã gọi điện trình báo
sự tình này với ngài Tuyên Hóa. Sau đó tại Thánh tự ở Los Angeles, ngài Tuyên
Hóa đã đặc biệt vì Thọ thần này, tổ chức lễ quy y chính thức cho ông.
Khi đó tạp chí “Tổng hội Phật giáo Pháp
giới” cũng có đăng bài tường thuật việc này. Nếu pháp lữ nào đi Phổ Đà Sơn lễ
Phật, không ngại thì hãy đến Phổ Tế Tự hỏi trực tiếp vị đệ tử đặc biệt kia của
ngài Tuyên Hóa. Cây này là đệ nhất cổ thụ cực kỳ to lớn, nằm bên trái phía
trong cổng chùa.
Ngài Tuyên Hóa giảng: Người đã đoạn sát,
đạo, dâm, vọng… thì thân tâm thanh tịnh, chỉ cần họ nói một câu: “Vãng sinh
đi!” thì đã có thể siêu độ vong linh vào cõi thiện rồi, huống chi là còn thuyết
giảng kinh pháp. Bởi vậy, tất cả đệ tử Phật, đều cần phải lấy giới làm thầy, lấy
đức dưỡng đạo, phúc huệ song tu, mới có thể giúp chúng sinh đạt đến lợi ích cực
lớn, đồng thời cũng làm lợi cho chính mình.
Sám
văn:
Đại
chúng lắng nghe lời kinh:
Bấy
giờ Thế Tôn phóng hào quang trắng giữa đôi mày chiếu sáng khắp hết thảy chúng
sinh trong sáu đường. Khi ấy Bồ-tát Tín Tướng vì thương xót chúng sinh, liền từ
tòa đứng dậy đến trước Phật quỳ gối chắp tay thưa rằng:
-
Bạch Thế Tôn! Con thấy có chúng sinh bị các ngục tốt cắt chặt bằm giã thân thể
từ đầu đến chân. Khi họ chết đi thì xảo phong thổi sống lại, rồi bị chém chặt,
bằm giã tiếp, họ phải thọ khổ báo như thế vô cùng vô tận không bao giờ ngừng,
là do tội gì vậy?
Phật
đáp: Những chúng sinh ấy ở đời trước không tin Tam bảo, không biết cúng dường,
bất hiếu cha mẹ, tâm ác hừng thịnh; làm nghề hàng thịt, chuyên chém chặt bằm
giã chúng sinh, vì các lỗi ấy nên bị hành tội như vậy.
Giải thích:
Xem trong Kinh Tạp Bảo Tạng Đồng Nữ Nhân
Duyên, Phật cũng dạy chúng ta: “Đối với cha mẹ, làm chút cúng dường được phúc
vô lượng, tạo chút bất hiếu, bị tội vô lượng”. Do vậy Phật dặn dò mỗi chúng ta
cần phải tận tâm tận lực cung dưỡng cha mẹ.
Sám
văn:
Lại
có chúng sinh, thân thể sần sùi, mày râu rụng hết, toàn thân lở loét, bạn với
chim muôn, bị người xa lánh, bà con ruồng bỏ, không ai muốn gặp. Ác báo này là
bệnh phong hủi. Do nhân duyên gì mà bị như vậy?
Phật
đáp: Do đời trước người này không tin Tam bảo, bất hiếu cha mẹ, phá tháp hủy
chùa, sang đoạt, cướp của người tu, chém bắn Thánh hiền, làm thương hại Sư trưởng,
chưa từng biết lỗi; vong ân bội nghĩa, thường hành động như súc sinh, cưỡng hiếp
làm nhục người trên, không kể thân sơ, không biết hổ thẹn, vì nhân duyên ấy nên
mắc phải khổ báo như vậy.
Giải thích:
Hồi thiếu niên tôi từng gặp một người ngủ
lang ngoài đường, toàn thân ghẻ lở chảy mủ, có hình dạng giống y như trong kinh
mô tả: “Bị người lánh xa, thân quyến ruồng bỏ”. Do mọi người chán ghét, nên y
phải lang thang đầu đường xó chợ.
Đời trước do không tin Phật, tạo nhiều
ác nghiệp, phá hoại chùa tháp, sang đoạt hoặc trộm tài vật người tu, thậm chí
báng bổ thánh hiền, vu oan hãm hại người tôn kính cho đến cưỡng hiếp giới nữ,
hành vi phóng túng loạn luân không xứng phẩm hạnh người như: Cha hiếp con gái,
con trai làm nhục mẹ, anh hiếp em, em trai hiếp chị cho đến những tà hạnh bất
chính diễn ra giữa sư đồ. Ngay hiện đời ắt họ sẽ bị ác bệnh trói thân, chết rồi
vào địa ngục, ngày đêm vạn lần chết đi sống lại, mãn kiếp địa ngục, khi tái
sinh làm người sẽ bị thân thể sần sùi, mày mi rụng hết, toàn thân lở loét chảy
đầy máu mủ. Mãn kiếp rồi thì sinh vào cõi thú, nếu quá khứ không gieo trồng
chút điều lành gì thì xem như rất khó thoát ra.
Sám
văn:
Lại
có chúng sinh thân hình dài lớn, tai điếc, không chân, quằn quại, bò lết mà đi,
chỉ ăn bùn đất mà sống; bị côn trùng rúc rỉa; ngày đêm thọ khổ không gián đoạn;
là do nhân duyên gì mà bị như thế?
Phật
đáp: Do đời trước làm người chỉ biết có mình, không tin lời lành. Bất hiếu cha
mẹ, phản nghịch chống trái, hoặc làm địa chủ hay quan lớn trấn nhậm bốn phương,
hoặc làm trưởng châu đầu tỉnh, cai trị dân nhưng cậy oai ỷ thế, tham nhũng, chiếm
đoạt xâm hại của dân, không hành đúng pháp, sống phi đạo đức, khiến dân nghèo
khổ. Vì nhân ấy nên bị như vậy.
Giải thích:
Có những người đời trước tính cố chấp,
khư khư làm theo ý mình, chẳng thèm nghe lời “nghịch nhĩ trung ngôn”, sông bất
hiếu, cư xử ác độc, ngỗ nghịch với cha mẹ. Còn có kẻ làm quan, chuyên lợi dụng
chức quyền để vơ vét của công, sang đoạt của dân, lấy của công tô bồi cho mình
vinh thân phì gia. Những người này chết rồi sẽ thành mộtloại giống như đại
trùng, ăn đất mà sống, thân thể còn bị ký sinh trùng rúc rỉa ngày đêm, khổ
không gián đoạn. Nhân quả như thế là tự làm tự chịu.
Loài trùng này có thân dài lớn, chuyên
ăn mùn, đồ mục rữa nơi đất mà sống, hiện thời có nghe nói. Vì có báo đăng tin:
Nơi Cáp Nhĩ Tân thuộc tỉnh Hắc Long Giang, Trung Quốc được phát hiện có một con
trùng khổng lồ rất to dài.
Đoạn sám văn này cảnh tỉnh các tham quan
ô lại và những người làm tổn hại nhân dân đất nước, nên dứt ác thành thiện, hối
lỗi đổi mới. Nếu không, cho dù họ có thể trốn thoát khỏi quốc pháp không bị trừng
trị, cũng không thoát được luật báo ứng nhân quả vận hành. Đây gọi là lưới trời
lồng lộng tuy thưa mà khó lọt.
Sám
văn:
Lại
có chúng sinh đui hai mắt, không thấy gì, đi va vào cây hoặc sa hầm hố mà chết,
chết rồi sống lại; sống lại rồi chết, cứ bị thế mãi. Vì nhân duyên gì, mà bị
như thế?
Phật
đáp: Vì đời trước không tin tội phước, che ánh sáng Phật, may bít mắt người,
giam nhốt chúng sinh, lấy bao trùm đầu chúng sinh không cho thấy đường. Do nhân
ấy mà bị như vậy.
Giải thích:
Có chúng sinh hai mắt bị mù, dẫn đến
tông vào cây mà chết hoặc rơi vào kênh, rạch chết, lưu chuyển trong ác đạo
không dứt, nguyên nhân do đời trước không tin nhân quả, từng ngăn trở người
nghe Phật pháp hoặc tụng kinh. Tương tự hành vi may mắt người là dùng lồng nhốt
chim không cho bay nhảy tự do, hoặc dùng bao chụp đầu người, khiến người không
nhìn thấy, đây là gieo nhân bị mù.
Vừa rồi Chu cư sĩ, tháng trước có gọi điện
cho tôi, hỏi rằng gần chỗ bà có cư sĩ Trương, đột nhiên hai mắt bị mù, nguyên
nhân do đâu?
Tôi nói: Người này ưa ăn đầu cá, gà, mắt
vật… cũng rất ưa ăn gan tạng động vật. nếu có thể thành tâm sám hối tụng kinh,
thì sẽ chuyển tốt.
Người ta thường lý luận ăn gì bổ đó, đây
là tà thuyết điên đảo mê tín, là quan niệm cực kỳ ngu si sai lầm. Phải lo thực
hành pháp sám hối diệt tội, chớ để ác bệnh vào thân rồi mới hối thì đã muộn.
Không bao lâu, Chu cư sĩ gọi điện tới, kể
là ông Trương kia đã có thể nhìn thấy rồi, nhưng thị lực không được 100% như
xưa.
Tôi bảo: Bà khuyên ông nên kiên trì sám
hối tụng kinh, ắt có thể hồi phục hoàn toàn.
Sám
văn:
Chúng
con có thể đã làm những tội như thế. Vì vô mình che lấp tâm tánh nên không tự
nhớ được. Những tội như vậy vô lượng vô biên. Ngày nay chí tâm, tha thiết đảnh
lễ, cầu xin sám hối, nguyện cải đổi tâm tánh. Những tội đã làm nhờ sám hối mà
trừ diệt. Những tội chưa làm, từ đây thanh tịnh.
Nguyện
Tam bảo đem ánh sáng quang minh diệt trừ si ám cho chúng sinh; thuyết giảng
pháp môn vi diệu nhiệm mầu cho chúng sinh nghe, khiến tất cả đều được chứng quả
Vô thượng Bồ đề, thành bậc Chánh giác.
Giải thích:
Chúng ta hy vọng Tam bảo đại từ đại bi
có thể khiến chúng sinh vĩnh viễn thoát ly khổ báo nơi ba cõi ác, đạt được an lạc,
rốt ráo thành Phật.
NÀNG
DÂU “QUÝ”
Nhớ lại vào năm 1993, mới vừa qua rằm
tháng Giêng âm lịch. Bạn đạo của tôi là Bác sĩ Hoàng gọi điện cho Quả Lâm, mách
rằng có một nữ đồng hương ngụ nơi quê nhà Hoành Thủy của ông mắc phải quái bệnh:
Toàn thân đau đớn khó chịu, đau đến phải khóc la như quỷ gào sói tru. Trị thế
nào cũng không hết, phải quỳ trên giường mới có thể tạm giảm bớt đau đớn. Nhưng
mồm luôn kêu rên: “Ôi đau! Đau quá” không ngừng. Bởi âm thanh rên khóc quá ghê
rợn ồn náo, làm ảnh hưởng đến những người bệnh khác cần nghỉ ngơi, nên các y viện
nhỏ không chịu thu nhận cô nhập viện và khuyên cô hãy đến bệnh viện lớn chữa trị.
Người trong thôn sực nhớ có Bác sĩ Hoàng là đồng hương, đang công tác tại Thiên
Tân, liền bảo người chồng đưa cô đến đó. Bác sĩ Hoành sắp xếp cho cô nhập viện
rồi, nhưng y viện khám không ra bệnh.
Hôm qua, cô quỳ trên giường thét rên
không ngớt, khiến các người bệnh nơi phòng khác không ai nghỉ ngơi gì được.
Hừng sáng hôm nay y viện thông báo phải
cho cô ra viện ngay. Trong tình cảnh này, đừng nói là cô khó thể trụ tại nhà
ai, mà ngay cả thuê phòng cũng chẳng được. Do vậy Bác sĩ Hoàng đành hỏi chúng
tôi về nguyên nhân căn bệnh của cô.
Quả Lâm bảo:
- Cô này hiện nay thọ mạng chỉ còn trong
sớm chiều. Bác sĩ mau đi hỏi cô: Đời này đã phạm lỗi gì với ai nhiều nhất? Chỉ
cần cô đáp đúng, lập tức cơn đau có thể dừng. Sau đó hãy để cô tự phát lồ, nói
ra hết những lỗi mình đã phạm phải. hễ tự thú được càng nhiều, thì tội càng bớt,
cơn đau càng giảm.
Hôm sau, Bác sĩ Hoàng gọi điện tới, tường
thuật tình hình bệnh nhân.
Ngay lúc cô đang quỳ trên giường kêu
rên, Bác sĩ Hoàng hỏi:
- Ngay cả y viện lớn tại Thiên Tân này
cũng tìm không ra bệnh của cô, tôi đã đi thỉnh ý một vị tu hành, họ bảo tôi nên
hỏi cô: Cả đời này có làm điều gì phạm lỗi với ai không? Nếu nói đúng thì bệnh
dừng.
Cô đáp:
- Tôi có lỗi rất lớn đối với mẹ chồng!
Cô vừa nói xong, giống như bị một đôi
tay vô hình đẩy một cái, liền ngã lăn ra trên giường, miệng không còn rên la nữa
mà lộ vẻ rất vui mừng mãn ý. Cô có vẻ muốn nói nữa nhưng do quá kiệt sức không thốt
ra lời nổi nữa nên đành nhắm mắt lại rồi cô thiếp đi, chìm vào giấc ngủ.
Tính ra từ lúc phát bệnh đến giờ, cô phải
quỳ như thế suốt ba bốn ngày chưa được nghỉ ngơi. Lần này cô ngủ mộtlèo hơn hai
mươi tiếng, ngay cả truyền nước biển vào tay cũng không tỉnh.
Lúc Bác sĩ Hoàng đến gặp cô, dù vẫn còn
nằm trên giường, nhưng cô không còn thét la kêu rên chi nữa. Bác sĩ Hoàng giảng
lý nhân quả Phật giáo cho cô nghe và hướng dẫn cô niệm mười mấy tiếng “Nam mô
Quan Thế Âm Bồ-tát” sau đó bảo cô nếu chân thành nhận lỗi sám hối tha thiết thì
có thể tiêu tội.
Xem ra cô đã thực sự biết lỗi rồi và bắt
đầu phát lộ việc mình có lỗi đối với mẹ chồng như sau:
“Tôi
ngay từ lần đầu tiên bước vào nhà mẹ chồng, thì phát hiện bà là một bà già quá
mê tín, trong nhà thờ bài vị “Thiên, Địa, Quân, Thân, Sư” tôi bảo:
-
Nay là thời đại gì rồi, mà mẹ còn tin ba cái thứ nhảm nhí đó, hãy mau mau đem
bài vị vứt đi!
Nhưng
mẹ chồng nói chúng tôi tuổi trẻ không hiểu chuyện, quả thực trên đầu ba thước
có thần minh, tâm con người ta lành hay ác trời đất đều nhìn thấy biết hết cho
nên làm người phải kinh trời đất, hiếu song thân, trọng sư trưởng, nếu sống mà
không chịu hành thiện tích đức, toàn làm việc xấu, sớm muộn gì cũng sẽ bị ác
báo!
Tôi
nghe vậy thầm cho lời mẹ chồng giáo huấn ngầm chứa ác ý đối với tôi, nên từ đó
ghim hận trong lòng.
Khổ
nổi, chồng tôi rất hiếu thuận, mỗi khi ăn cơm đều mời bà ngồi trên (thượng
tòa). Bà mà chưa cầm đũa, thì chúng tôi chẳng thể ăn trước. Điều này càng khiến
tôi tức giận.
Kết
hôn xong, thì tôi sinh con, thầm nghĩ: “Đã có con rồi, thì xem như tôi có đủ tư
cách để nghênh chiến cùng mẹ chồng”. Bởi vậy hễ muốn ăn thì tôi ăn, muốn uống
thì uống, trong nhà không cho chơi Mạt chược, thì tôi đến nhà bằng hữu chơi, có
lúc gầy sòng đến sáng mới về.
Hôm
sau tôi ngủ mê mệt cho đến khi mẹ chồng kêu dậy, tôi mới rời giường ra ăn cơm.
Do chuyện này mà nhiều lần cùng chồng gây cãi, thậm chí có lần còn bị chồng
đánh cho, lúc đó tôi tức giận ẳm con về nhà mẹ ruột.
Một
tháng sau, mẹ chồng thân hành tìm đến rước, tôi mới chịu về.
Từ
đó, không những mẹ chồng không dám chọc giận tôi, mà chồng tôi cũng phải nhường
nhịn nể nang tôi. Tôi cho đó là chiến thắng vẻ vang, còn truyền dạy kinh nghiệm
này cho các nàng dâu trong thôn là bạn hữu chơi bài với tôi. Tôi trời thành nữ
chủ nhân trong nhà, tất cả việc nhà mẹ chồng tôi phải thầu lãnh hết, ngay cả
quét nhà gánh nước gì cũng do bà lo tất.
Mẹ
chồng hằng ngày trừ thắp hương lễ bái trước bài vị “Thiên, Địa, Quân, Thân, Sư”
ra, bà còn làm thêm việc “thày lay” ngu dốt nữa là: Hễ nhà ai có xảy ra chuyện
hôn tang cưới gả thì bà liền nhào tới đó trợ giúp, ngay cả cơm nước cũng bỏ, để
mặc người nhà ăn một mình. Còn hễ gặp ăn mày đến nhà mà bị tôi xua đuổi, thì bà
rượt theo họ, ráng cho mấy đồng hay thức dùng chi đó. Vì vậy mà tôi nhiều lần
gây cãi với bà, mắng bà là: “Đồ đần, ngu như heo, thần kinh!”.
Nhưng
mẹ chồng khồng hề dám cãi lại với tôi, chỉ mỉm cười nói:
-
Ta nghĩ mình là người biết tiết kiệm tiền, con dừng có quản tới mà chi!
Còn
một chuyện khiến tôi tức giận nữa là, nhà tôi ngụ tại đầu thôn, cổng trước cách
đường lộ khoảng một-hai trăm mét. Mỗi tối, vào những ngày không trăng, mẹ chồng
tôi tự chế ra mười cái đèn bão, cứ cách hai mươi mét thì treo lên một cái, mục
đích là để soi đường cho thiên hạ đi, tính ra cả năm bà tiêu phí không biết bao
nhiêu dầu, tôi nghĩ chỉ vì bà muốn được mấy câu khen ngợi của dân làng, chứ
tính ra có thu được cái quái gì đâu!
Năm
nay, vào ngày 30 cuối năm, sáng sớm vợ chồng tôi cùng con traiđi xe hỏa đến Thạch
Gia Trang mua hàng tết, về tới nhà thì đã hơn 4 giờ chiều. Chỉ thấy cái sân được
mẹ chồng quét sạch bóng, lu vại gì cũng đã đổ đầy nước, chồng tôi còn hỏi:
-
Ai gánh nước đây?
Anh
đâu biết là trong nhà này, nếu không phải anh gánh thì là mẹ chồng gánh! Thấy cửa
gian giữa hơi khép, con tôi lên tiếng kêu, nhưng gọi mãi mà không thấy bà nội ứng
thinh, bèn đẩy cửa tiến vào, thì thấy bà ngồi trên ghế trúc, đầu quẹo qua bên
trái ngủ queo.
Chồng
tôi vội buông hàng hóa, bước tới gần kêu:
-
Mẹ ơi, thức dậy đi, lên giường mà nằm ngủ chứ, ngồi trên ghế ngủ như vầy sẽ mệt
đó!
Nhưng
mẹ chồng tôi không nhúc nhích cựa quậy gì, chồng tôi vừa lay bà nhè nhẹ, vừa
kêu “mẹ ơi” mấy tiếng, nhưng bà vẫn không động đậy, anh hoảng hốt khóc to, kêu
réo mẹ thức dậy um sùm.
Tôi
đang rửa sơ cái mặt thì nghe nói: “Mẹ chết rồi, đã ngừng thở rồi”. Tôi cáu tiết
rủa ngay:
-
Sớm không chết, muộn không chết, lại ra đi đúng vào ngày 30 cuối năm, chẳng phải
là muốn chúng tôi không được ăn tết ư? Thiệt thất đức quá mà!
Chồng
tôi đang khóc, nghe tôi lầm bầm như vậy liền quay qua tát mạnh vào mồm tôi, tôi
liền tru tréo khóc ầm lên. Hàng xóm cùng người trong thôn đều chạy qua, bu đầy
nhà. Mọi người đều khóc thương mẹ chồng tôi. Lúc đó tôi còn nghĩ: “Trong đám
láng giềng này nhất định sẽ có kẻ mắng tôi”, nhưng không ai làm vậy.
Bây
giờ nhớ lại, có thể là mẹ chồng tôi chưa từng ra ngoài nói xấu tôi với ai. Tôi
đã hiểu lầm lòng tốt của mẹ chồng, thật quá có lỗi với bà.
Tối
30, đây là lần đầu người toàn thôn phá lệ xưa, không nhà nào chơi đùa hay đốt
pháo hoa, không một đứa trẻ nào ăn mặc diễm lệ.
Hầu
như người toàn thôn thay nhau giữ linh quan suốt đám tang.
Bây
giờ tôi mới hiểu, do mẹ chồng hay giúp đỡ xóm giềng, nhiều năm nay những đêm tối
không có trăng chiếu, bà đã treo đèn soi sáng đường về giúp người trong thôn.
Nên toàn thôn hiện thời ngay cả năm mới chẳng ai muốn đón mừng, chứng tỏ mẹ chồng
tôi rất được cả làng yêu thương kính quý. Bản thân bà biết mình sắp ra đi, còn
ráng vì chúng tôi làm chu đáo hết mọi việc trong nhà rồi ngồi trên ghế an lành
ra đi. Bà quá nhân nghĩa mà! Nhưng lúc đó tôi lại mắng trách mẹ chồng, tôi quả
thật đáng chết!
Rằm
tháng giêng vừa qua chưa được mấy ngày, tôi bỗng cảm thấy toàn thân khó chịu,
ban đầu tôi cho là: “Chắc tại lo đám tang nên mỏi mệt”, do nghĩ “Tết đến nơi mà
còn phải lo ma chay” nên tôi rất hận mẹ chồng, tôi còn hướng về chồng nói xấu
bà nữa. Lúc đó chồng tôi rất khó chịu, trừng mắt lườm tôi và chỉ nói một câu:
-
Em làm ơn lưu giữ chút khẩu đức đi!
Rồi
anh im lặng không nói thêm gì nữa.
Sáng
hôm sau tôi thức dậy, vừa cúi xuống định mang hài rời giường, thì té nhào trên
đất. Đau dến nổi tôi thét lên oang oác, cảm giác như đang bị cả trận mưa roi
trượng bằng sắt giáng quất vào thân. Chồng tôi vội chạy đến đỡ tôi dậy nhưng
không đỡ lên nổi, vì hễ tay anh chạm vào đâu, là tôi nghe chỗ đó đau như muối
xát kim châm. Tôi bị đau đớn thống khổ dày vò suốt thời gian dài, mới phát hiện
ra. Chỉ có tư thế quỳ trên đất và dang hai tay ra vịn trên đất mới tạm giảm đau
chút đỉnh.
Toàn
thân tôi có cảm giác như xương cốt đều bị bẻ gãy vỡ vụn, hễ động đậy một chút
là đau không chịu nổi.
Tôi
lúc đó không hề biết đây là ác báo do mình vô lễ hỗn hào, ngược đãi phỉ báng mẹ
chồng. Bởi tôi không bao giờ tin vào mấy cái thuyết nhân quả báo ứng! Nhưng bây
giờ tôi đã tin rồi, tôi chưa muốn chết, do con tôi chưa trưởng thành, tôi nguyện
từ nay nhất định sẽ tu sửa, lo hương hỏa thờ phụng mẹ chồng, ngày ngày thắp
hương lễ sám, sẽ làm nhiều việc thiện, tạo phúc đức.”
Bác sĩ Hoàng thấy bà đã biết nhận lỗi,
thân thể cũng không còn đau, liền khuyên bà lúc nào cũng phải niệm “Nam mô Quan
Thế Âm Bồ-tát” phải tâm niệm miệng niệm mới được. Và ông tặng bà một xâu chuỗi,
nhắc nhở bà phải luôn kiểm lại những lỗi lầm suốt mười mấy năm nay đã cư xử tệ
với mẹ chồng, nên phát tâm sám hối, có lẽ sẽ mau chóng lành bệnh.
Nửa tháng sau, Bác sĩ Hoàng đến nhà tôi,
báo tin là ông vừa cho bệnh nhân kia xuất viện về quê. Nhưng thêm một chuyện lạ
phát sinh nữa, nên vội đến báo cho chúng tôi hay.
Nàng dâu ngỗ nghịch này sau khi hối lỗi,
tự đánh vào mình nhừ tử rồi, thì mỗi ngày đều niệm “Nam mô Quan Thế Âm Bồ-tát”
thì ngủ được an lành. Nhưng không thể ăn gì, chỉ có thể nương vào truyền dịch
mà duy trì mạng sống. Bác sĩ Hoàng có lần vào phòng bệnh, phát hiện bà nằm trên
giường, miệng động đậy, tay phải để trên ngực lần chuỗi, hai khóe mắt tuôn tràn
lệ, ướt đẫm cả gối.
Một hôm, sáng sớm thức dậy bà hưng phấn
nói với chồng, kể rằng bà mơ thấy mẹ chồng đến thăm, cười ha hả bảo bà:
- Yên tâm đi, nhà ta sẽ ngày càng tốt
hơn.
Rồi đột nhiên mẹ chồng hóa thành vị trời,
biến mất. Bà nói: “Chắc là bệnh mình sẽ lành”.
Nhưng ồng chồng thấy bà mỗi ngày càng một
tệ hơn, bèn quyết định dùng xe cứu hộ đưa bà về quê. Hôm đó thời tiết đặc biệt
lạnh. Xe khởi hành rồi thì Bác sĩ Hoàng nhắm mắt niệm “Nam mô A Di Đà Phật!” hỗ
trợ thêm cho bệnh nhân.
Đột nhiên ông nghe thấy tiếng bà nói với
ông:
- Tôi đi đây, cảm tạ ông cứu tôi, đã dạy
tôi niệm Phật.
Ông vội mở bừng hai mắt, ý thức bà đồng
hương nọ đã chết, thế là vội nghiệm thây, kiểm tra quan sát, thấy bà đã tắt thở.
Họ dừng xe lại, người chồng lo khoác y
phục tốt cho bà. Lúc này xe vừa ra khỏi huyện Tĩnh Hải, gió lạnh vây bủa tứ bề.
Phải mất 5 tiếng mới về tới nhà. Khi khiêng người chết xuống, thấy thân bà rất
mềm dịu, so với lúc sống không khác bao nhiêu. Tang sự hoàn tất thuận lợi.
Chuyện của bà trở thành tấm gương giáo dục cho
toàn thôn!
Đây là do tội không tin Tam bảo, bất hiếu
với mẹ chồng, phỉ báng người lương thiện… nên nàng dâu đã mắc phải hiện thế
báo. May nhờ có Bác sĩ Hoàng dạy bà niệm Phật sám hối, diệt được vô lượng tội,
nếu không bà sẽ chết rất thê thảm, chết rồi còn bị đọa địa ngục vô gián.
Trong văn Lương Hoàng Sám giảng giải Phật
pháp rất vi diệu, tinh tế, là vì muốn chúng sinh tiêu trừ si ám, đạt được quang
minh, ai cũng lìa khổ được vui. Vừa niệm “Nam mô Phật”, trọn có thể thành tựu
Phật quả.
Sám
văn:
“Bồ-tát
Tín Tướng thưa: Bạch Thế Tôn! Lại có chúng sinh ngọng nghịu ú ớ, miệng không thể
nói, dầu có nói cũng không rõ ràng. Vì nhân duyên gì, mà bị như thế?
Phật
đáp: Do đời trước người ấy phỉ báng Tam bảo, khinh hủy Thánh đạo, ưa bàn luận
việc xấu, thích tìm việc hay dở của người, vu oan cho kẻ lương thiện, ghen ghét
người hiền. Vì nhân duyên ấy, nên bị như vậy.
Giải thích:
Có người không thể nói năng, cà lăm, nói
lắp, hoặc nói tiếng khàn khàn, hoặc tuy có thể nói nhưng phát âm không rõ, người
khác nghe khó hiểu.
Những người đáng thương này đều do đời
quá khứ từng hủy báng Tam bảo, bôi nhọ chánh đạo, hay nói thị phi, quấy, dở của
người. Do không giữ khẩu đức mà bị vậy.
Vì thế phải biết giữ thân khẩu ý thanh tịnh,
nếu nhìn thấy khuyết điểm người, thì phải có lòng tốt giúp họ sửa sai, không
nên bàn luận phê bình nói xấu sau lưng họ. Nếu thấy chỗ hay của người, cần phải
tùy hỷ, không được tật đố. Nếu không, tội rất lớn.
HAI
CÔ BÉ CÀ LĂM
Tại Hà Nam Sơn Tây, tôi từng gặp hai cô
bé mười mấy tuổi, nói lắp cà lăm, phát âm không rõ ràng, là do đời quá khứ từng
hủy báng Phật, hay nói chuyện thị phi của người mà chiêu cảm quả này.
Tôi khuyên họ nên sám hối tội xưa và hằng
ngày ở trước Phật xướng danh hiệu Ngài, lạy ba trăm lạy. Nửa năm sau hai em hồi
phục nói năng bình thường. Phải biết lễ Phật một lễ, tột diệt hằng sa, điều này
có thực không dối.
Sám
văn:
Lại
có chúng sinh bụng lớn như trống, cổ nhỏ như kim, không thể ăn nuốt. Nếu có ăn,
thì đồ ăn biến thành máu mủ. Vì nhân duyên gì mắc phải tội ấy?
Phật
đáp: Vì đời trước, người ấy trộm cắp đồ ăn của chúng. Khi có đại hội, sắm các
thức ăn ngon, người ấy lấy dùng riêng, hoặc lấy thức ăn và cơm đem ra chỗ khuất
ăn lén. Lại có tính keo rít, tiếc của mình, tham của người, thường ôm lòng độc
ác, cho người uống thuốc độc, hại họ nghẹt thở không thông. Vì nhân duyên ấy
nên mắc phải tội như vậy?
Giải thích:
Trộm ăn vật thực và đồ công của mọi người,
keo tham xan tiếc không thể xả đồ ra bố thí. Tham lấy của công, rút của người
làm của mình. Những kẻ có tính tham lam ích kỷ tư lợi và những người không giỏi
y thuật, lạm dụng hoặc cho thuốc không đúng bệnh, thậm chí có tâm xấu ác, cố ý
cho người uống thuốc độc khiến họ bệnh nặng thêm thì chết rồi sẽ vào cõi ngạ quỷ
chịu khổ, bụng to cổ nhỏ, chẳng ăn uống gì được. Nếu muốn ăn chi, lập tức thức
dùng biến thành máu mủ.
Sám
văn:
Lại
có chúng sinh bị ngục tốt thiêu nướng, rưới nước sắt nóng đỏ lên thân, đóng
đinh vào thân xong, tự nhiên lửa khởi, thiêu đốt thân thể cháy tiêu. Tội gì mà
bị như vậy?
Phật
nói: Bởi do đời trước, làm thầy châm lễ, gây tổn thương người, không biết trị bệnh
mà gạt người để lấy tài vật, khiến họ thống khổ, nên bị như thế.
Giải thích:
Hiện nay có nhiều người không tinh thông
y thuật lại mạo xưng là danh y, hòng gạt tiền người.
Họ đã trị bệnh không lành, ngược lại còn
khiến nạn nhân tăng thêm thống khổ do chấm cứu ẩu tả loạn bậy. Hạng y sĩ gian
này, chết rồi liền vào địa ngục bị đinh đóng, lửa thiêu thân.
Những ai làm thầy thuốc cần chú ý, nếu
như bạn ham tiền hoa hồng kếch xù của công ty Y dược, hoặc vì muốn bán thuốc để
kiếm nhiều tiền mà kê toa ra đủ thứ thuốc cho bệnh nhân, gạt bịp đủ trò mà
không cần khám chẩn, báo hại bệnh nhân phải bỏ ra nhiều tiền mua thuốc nhưng lại
tăng bệnh thêm vì bị tác dụng phụ. Những lỗi này cũng khiến bác sĩ phải xuống địa
ngục thọ ác báo đã tạo, quý vị sao không cẩn thận chứ?
Hiện nay trong xã hội chúng ta có nhiều
thầy thuốc lang băm, những hạng thuật sĩ giang hồ bịp bợm, không những bọn họ
sau khi chết phải xuống địa ngục, mà hiện đời này cũng bị quả báo rất nặng.
Ngày 18/5/2000 báo “Chiều Nay” của Phúc
Kiến đã đăng câu chuyện:
“Có đôi vợ chồng ngư phủ không hiểu gì về
y học, đã mở phòng mạch treo bảng: “Chuyên
trị các bệnh lậu, giang mai, phong tình” để lừa tiền người. Không ngờ vô ý
tự hại mình, cả nhà ba người đều bị nhiễm bệnh Sida nối tiếp nhau qua đời”.
Cổ nhân nói: “Bác sĩ cần có y đức”. Thần
y Tôn Tư Mao đã đề xướng: “Làm thầy cần phải có y đức cao, phát huy tinh thần
nhân đạo cứu tử giúp người”. Danh y cần tu dưỡng hai mặt: Tinh và Thành. Tinh
là giỏi tay nghề, am tường lãnh vực chuyên môn. Thành là phải có phẩm đức cao
thượng. Nghĩa là người làm thầy cần “Y thuật tinh thông, phẩm đức cao tột”. Nếu
các bác sĩ thế gian đều hiểu rành đạo lý này, thì đệ tử Phật cũng cần yêu cầu
mình nghiêm khắc, giữ giới thanh tịnh hơn nữa.
Sám
văn:
Lại
có chúng sinh thường bị ngưu đầu ngục tốt, tay cầm xoa sắt, móc bỏ vào vạc nước
sôi nấu rục, rồi gió thổi cho sống lại. Sống lại thì bị nấu nữa. Vì nhân duyên
gì mà mắc phải tội ấy?
Phật
đáp: Vì đời trước người ấy làm nghề hàng thịt, giết chúng sinh, trụng nước sôi,
nhổ lông, sát hại nhiều đến không thể kể xiết. Vì ác nghiệp ấy nên bị hành tội
như vậy.
Giải thích:
Trên đây tả cảnh hành hình tàn khốc, có
giống lúc chúng ta giết vật ăn không? Nơi bếp của các gia đình ăn thịt, cũng là
chốn hành hình loài vật giống hệt vậy. Chúng ta đối đãi với vật làm sao, thì ngục
tốt hành ta y vậy nhưng tàn khốc hơn vạn bội. Vì sao suốt một ngày đêm tội nhân
phải vạn lần chết đi sống lại? Nghĩ kỹ xem đời này chúng ta đã giết ăn biết bao
nhiêu chúng sinh rồi? Có nhớ nổi không? Nếu như hôm nay chẳng dùng tấm lòng
thành để sám hối, thì đợi đến khi bị ném vào chảo dầu, vạc nước sôi rồi, có hối
cũng đã muộn.
Từ vô thỉ đến nay chúng ta chẳng biết tự
thuở nào đã tạo vô lượng tội, có lẽ đến nay ác báo vẫn chưa ập tới. Nếu như
chúng ta đã làm qua sói lang và từng ăn thịt động vật, thì ác nghiệp ấy rất sâu
nặng, có cái báo trước, có cái báo sau, chỉ Phật, Bồ-tát mới biết chứ chúng ta
không thể biết rành.
Không những làm ác sau khi chết rồi bị đọa
địa ngục thọ khổ, mà đời này còn bị ác quả rất lớn, nếu chúng ta quan sát kỹ lưỡng
sẽ thấy hiện tượng trả báo này xảy ra nhan nhản khắp nơi trong cuộc sống, xin
đăng tải mấy chuyện sát sinh “hiện thế báo có thực” để chứng minh:
ĐI
SĂN
Ngày 5/2/2005 tại thôn Ngũ Hồng, huyện
Vượng Thương, trấn Gia Xuyên, phố Quảng Nguyên, có anh Hà Triều Phủ muốn ăn thịt
rừng, bèn rủ Trương Hiếu Quân là anh rể đồng lên núi săn bắn. Trong lúc chia
nhau đi săn, Trương Hiếu Quân thấy trong khu rừng rậm có một đôi mắt xanh biếc
dòm mình, bèn bóp cò súng, chỉ nghe đoàng một tiếng, con mồi thét to và ngã xuống.
Trương Hiếu Quân vội chay tới xem, hóa
ra là Hà Triều Phủ đang ngã trong vũng máu. Hà Triều Phủ được chở tới bệnh viện
nhưng không thể cứu chữa, phải lìa đời. còn Trương Hiếu Quân bị kết tội trữ
súng ống phi pháp cộng với tội làm mất mạng người nên bị phán án tù.
TIỆM
GÀ RÁN
Báo “Kim Văn” ở Thiên Tân từng đăng: Có
đôi vợ chồng dẫn theo đứa con trai hai tuổi đến địa phương nọ mở tiệm kinh
doanh gà rán. Công việc rất phát đạt. Năm đó cuối đông, người cha mới giết xong
mấy mươi con gà và cũng mới vừa rán xong, anh nhấc chảo dầu sôi xuống đặt ở
phía sau mình, rồi xoay người lấy than bỏ thêm vào lò.
Lúc này thằng con còn mặc quần lủng đáy
chạy tới đứng phía sau lưng anh, nó ôm lấy chân cha, nũng nịu đòi bồng. Người
cha do bận việc nên không quay đầu lại, vừa đưa tay đẩy nhẹ thằng bé ra, vừa
nói: Đi chỗ khác chơi đi con!
Nhưng anh bỗng nghe tiếng con thét lên
thảm thiết, hóa ra anh quên béng cái chảo dầu sôi đang nằm phía sau mình và cú
đẩy nhẹ kia đã làm con té vào chảo dầu. Anh vội đưa con đến bệnh viện cấp cứu,
thấy cả vùng mông và cơ quan sinh dục của bé bị phỏng nặng. Xem như dù có bảo tồn
được mạng sống, nhưng thằng con phải chịu tàn phế suốt đời.
Con trai bị dầu sôi rán, chính là hoa
báo hiện đời này đối với cặp vợ chồng chiên rán chúng sinh này, quả báo xuống địa
ngục nếm thống khổ vẫn còn chờ ở phía sau. Nhưng đối với bản thân đứa bé mà
nói, chính là đời trước nó cũng đã từng gieo ác nhân tương đồng nên phải chiêu
cảm ác báo này, đây chính là đạo lý đồng nghiệp tương cảm.
Có người nói: Đây chỉ là nhất thời vô ý
tạo thành mà thôi! Thực ra không đúng. Khi một người tạo tội ngày càng gia
tăng, thì sẽ đến lúc nước đầy tràn ly, khi đó ác báo ập tới…
HẾT
PHẦN 1
[1] Đây là nói theo Trung Quốc. Danh Cư sĩ chỉ
chung cho nam, nữ đệ tử Phật tu tại gia có đức hạnh (riêng danh từ Hòa thượng ở
Việt Nam xem là tôn kính nhưng ở Trung Hoa đây chỉ là danh gọi phổ thông chỉ
cho các Tăng sĩ, ngay cả các chú tiểu họ cũng gọi hòa thượng hay tiểu hòa thượng).
[2]
Tam đồ: 1. Hỏa đồ: Chỉ cõi địa ngục lúc nào cũng hừng hực lửa cháy. 2. Huyết đồ:
Chỉ cõi súc sinh bị thảm trạng đổ huyết, luôn gặp cảnh mạnh nuốt yếu. 3 Đao đồ:
Chỉ cõi quỷ thường bị đao trượng roi kiếm áp bức, chịu vô lượng vô biên thống
khổ.
[3]
Không còn trồng nhân sanh tử, hành động cũng không còn rơi vào sanh tử nữa.
[4]
Xin xem Phần phụ lục nơi cuốn 2.
[5]
Tính theo thời điểm này, Một vạn (10.000) Nhân dân tệ tương đương 1.636$55 USD.
Khoảng hơn 35 triệu VN.
[6] Hoa
hậu điện ảnh.
[7] Được
trình chiếu năm 2003 do Park Chan Wook làm đạo diễn, phim gây ám ảnh cho người
xem bởi những cảnh quay cực kỳ bạo lực và sốc đến rợn người về sự trả thù.
[8] Do
có nhiều bạn đọc hỏi tôi về bài này. Nếu bạn muốn xem, xin hãy tra tìm trên
net, vào Google đánh cụm từ: “Tứ chủng thanh tịnh minh hối” và chọn đọc bài giảng
của ngài Tuyên Hóa.
[9]
Không giữ giới luật thanh tịnh
[10] Bọn
họ đều có thiên nhãn thiên nhĩ thông, có thể nhìn thấu các cõi khác nên Quả
Khanh mới cắt đặt như vậy.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét