NGỘ TÂM: CHÁNH TU & TRỢ TU
Người tu hành muôn ngộ được Bản tâm, hiểu
thấu chơn lý phải trải qua bốn giai đoạn sau: Tín, Giải, Hành, Chứng.
Tín là
tin, người tu cần phải có lòng tin vững chắc đối với Tam Bảo và đối với pháp
môn mình tu.
Tín có 4 thứ:
Mê tín, Chánh tín, Tự tín, và
Tịnh tín.
Mê tín là tin theo một cách u mê, ai nói sao
nghe vậy, không tư duy, không phân tích, không nhận ra đâu là chánh đâu là tà,
đâu là chơn đâu là vọng. Những người mê tín là những người căn cơ bậc thấp,
Hiểu giáo lý kém, không hiểu rõ lý đạo, không nắm vững cội nguồn, nên thường bị
bạn xấu thầy tà lung lạc, tất dễ bị sai đường lạc bước.
Chánh
tín: Tức niềm tin có dựa trên cơ sở vững chắc, tin một cách chơn chánh đúng
đắn. Có hai trường hợp để khởi lòng tin:
a/ Hiểu rồi mới tin: Tức là khi nghe một vấn đề
gì, một sự việc gì thì dùng trí suy xét, xong rồi phải chứng nghiệm, có đầy đủ
bằng chứng mới tin. Như một vị bác sĩ khi nghe bệnh nhân khai đau phổi thì chưa
tin, mà phải soi kiến, thử đàm, tìm ra vi trùng mới quyết đoán được bệnh.
b/ Tin rồi sẽ hiểu: Trường hợp này nghe
qua hơi lạ, nhưng cũng thật có, vì họ đã
gieo trồng cội lành từ nhiều kiếp, đến kiếp này tự nhiên họ khởi lòng tin rồi
mới bắt đầu tu tập và tìm hiểu rõ lý sâu mầu của Đạo pháp. Ví dụ như có nhiều
đứa trẻ khi sanh ra, đến lúc biết ăn thì không ăn được thịt cá mà chỉ ăn chay
lạc, lại có khi cũng nhờ bạn bè hoặc bậc thiện tri thức dắt dìu chỉ bày rồi
khởi lòng tin.
Tự tín:
Là tự tin lấy mình, hiểu thông giáo lý, biết mình có tánh phật, tin mình có khả
năng tu hành thành Phật. Người kia trượng phu thì ta đây cũng là trượng phu.
Nhưng tự tin đây khác với tự cao tự đại, tự mãn. Tự tin là tin mình có khả năng
đạt đến quả vị Phật rồi gia công tu tập. Còn tự cao tự đại là tự cho mình đã
đủ, đã chứng đạt rồi không cần tu tập nữa, như có nhiều người nghĩ mình có
trình độ, đọc qua vài câu thiền rồi tự cho mình đã ngộ, đã là thiền sư, nên họ
huênh hoang tự đắc, đi chỉ người này, dạy người kia, rốt cuộc tham sân si vẫn
còn đầy dẫy.
Tịnh tín: Là tin nơi mình có cõi tịnh độ. Động cũng nơi
tâm và Tịnh cũng nơi tâm. Khi hết động rồi trở lại lặng yên đó là Tự tánh Di
Đà, Duy tâm Tịnh độ. Nhờ lòng tin hiểu này mà không tìm cầu Phật bên ngoài, chỉ
lo tinh tấn tu học, chánh báo thế nào thì y báo cũng thế đó.
Giải:
Là hiểu rõ sự lý, hiểu rõ một cách rõ ràng cùng tột chi tiết, hiểu Tánh và
Tướng phân minh. Hiểu rõ Sự để thực hành,
rõ Lý để thông. Nếu hiểu Sự mà không rõ Lý thì bị chướng ngại trên đường tu, vì
có nhiều mối nghi làm thối thất Đạo tâm. Còn nếu hiểu Lý suông mà không rõ Sự
thì cũng như nói đói mà không ăn thì không làm sao no được. Cuối cùng cũng vẫn
mãi lăn lộn trong sanh tư luân hồi không đến quả vị rốt ráo được.
Hành: là thực hành và áp dụng,
đem ngay cái lý mình đã hiểu, đã tin chắc ra thực hành, hạ thủ công phu ngày
đêm miên mật, cho đến khi nào, kết quả thành công. Điểm này rất quan trọng trên
đường tu tập, đòi hỏi một sự bền chí kiên nhẫn. Phương pháp phát nguyện cũng là
một phương pháp trợ duyên thêm, tạo thêm động lực cho đường
tu tập.
Chứng:
Là kết quả cuối cùng, là đã đạt được mục đích, hoàn thành được sứ mệnh của
chính mình. Người tu hành khi đã giác ngộ biết mình có Phật tánh nên muốn trở
về, muốn thoát ra ngoài vòng tam giới, đặt mục đích vào chỗ cứu cánh rồi gia
công tu trì cho đến ngày đạt được, tức là Đáo Bỉ Ngạn là đã chứng đắc vậy.
Nhập
tâm: Bốn giai đoạn trên đây là căn
bản chung cho mọi người, tại gia cũng như xuất gia. Nếu ai thực hành đúng thì
được nhập tâm, tức là thể nhập chung hợp vào một khối, như Tánh với Tướng tuy
hai, nhưng thể nhập về Bản Thể chỉ duy
nhất có một không hai, không ba.
Ví như đứa trẻ lên hai bị
lạc cha mẹ. Người khác đem về nuôi đến lớn lên không biết đường về, nhờ người
chỉ đường tìm về gặp lại cha mẹ mừng rỡ vô cùng, rồi sum họp một nhà, không còn
dám lơ lõng để bị đi lạc nữa. Người tu hành khi đã thể nhập vào tự tánh thanh
tịnh là chỗ rốt ráo viên mãn thì tâm họ cũng tràn đầy niềm vui gọi là Thường
Lạc không bao giờ hết được.
Trong kinh Pháp Hoa nói: Khai, Thị, Ngộ và
Nhập. Đối với việc học Đạo tu hành cũng vậy, trước tiên được thầy khai tâm cho
bài học vỡ lòng về Chơn Tâm Tự tánh, kế đó chỉ cho thấy Bổn tâm chân thật của
mình gọi là chỉ Tâm. Khi mình nhận ra thấy rõ được Bổn lai Diện mục rồi là Ngộ
tâm, sau rốt, thâm nhập vào lòng, Tâm với mình là một, Tâm với Phật không hai,
tức là nhập Tâm vậy.
Ngộ Tâm:
là nhận ra tâm của mình, thấy được bản thể của chính mình. Ngộ Tâm khác với
Ngộ Đạo thế nào? Ngộ đạo là thông suốt pháp tu của mình, là nhận thức ra được lý Đạo cao sâu mầu nhiệm
rồi phát tâm, tinh tấn tu trì công phu
bái sám…Song nếu ngộ Đạo mà không ngộ Tâm, thì vẫn còn trong vòng tương đối, chưa
giải thoát cứu cánh được. Vậy Ngộ Tâm ở đâu?
Tại sao phải Ngộ?
Bấy lâu nay ta sống với cái mê mờ, cái giả
vọng đã huân tập từ vô thủy kiếp nên không nhận ra tâm của mình. Nay Ngộ, là
nhận ra chính mình có cái Tâm Thể vắng
lặng, không chạy theo giả vọng nữa. Cái Tâm thể vắng lặng có một không hai ấy
nó không ở đâu xa, không ngoài cái vọng giả, mà ở chính ngay nơi cái huyễn giả
đổi thay đó. Vì tâm Phật không lìa tâm chúng sanh mà có, hay nói cách khác, Tâm
Phật và Tâm chúng sanh là một, phiền não tức Bồ đề. Sóng là nước, nước là sóng,
bỏ nước tìm sóng thì không thể có. Hình
tướng có mê có ngộ, Thể chỉ có một mà thôi.
Tổ Đạt Ma nói: Đem tâm cầu pháp bên ngoài là Mê, chẳng đem
tâm cầu pháp bên ngoài là Ngộ.
Là vì sao? Vì pháp là phương tiện bất định,
đối với chơn pháp không ngoài tâm.
Lại nói:
chẳng chấp văn tự là Giải thoát, chẳng nhiễm lục trần là hộ pháp, thoát
khỏi sanh tử là xuất gia.
Văn tự chỉ là phương tiện,
cũng như nương ngón tay mà thấy được mặt trăng, nếu cứ nhìn vào ngón tay thì
không bao giờ thấy được mặt trăng.
Lục trần là cảnh bên ngoài, nếu không theo nó
thì bảo hộ được tâm mình, nên nói là hộ pháp.
Xuất gia có ba bậc: xuất thế tục gia, xuất phiền não gia, xuất
tam giới gia.
Xuất thế tục gia: là tướng xuất gia.
Xuất phiền não gia, xuất tam giới gia: là tâm xuất gia. Người thoát được sanh tử, ra khỏi tam giới
mới là người có tâm xuất gia và mới hoàn hảo ý nghĩa xuất gia..
Lại nói, chẳng thọ thân sau là đắc đạo. Chẳng
khởi vọng tưởng là Niết bàn. Chẳng chọ thân sau là không còn trong vòng sanh.
Chẳng khởi vọng tưởng là dứt phiền não. Đó là Niết bàn của hạng Tiểu thừa, lên
đến hàng Viên Giác mới hết vô minh. Gọi là bậc Đại Trí Huệ. Đến chỗ dứt được
tâm tưởng mới gọi là Đáo Bỉ Ngạn ( Tướng là nhân duyên sanh, có vọng tưởng khởi
sanh thì tâm mới hiện tướng bên ngoài, tức là còn sanh diệt )
CHÁNH TU VÀ TRỢ TU
Hỏi: Như nói dứt vọng thì Chơn Tâm hiện tiền. Vậy
ngoài phương pháp dùng Vô tâm trị Vọng
còn pháp nào trị được Ngã?
Đáp: Có
pháp Chánh tu và Trợ tu.
Lấy vô tâm dứt vọng Tâm làm pháp Chánh tu
Lấy hành động làm lành làm pháp trợ tu.
Ví như tấm gương sáng bị bụi che lấp, nếu lấy
sức lau chùi rất khó sạch các bẩn, dùng một ít thuốc chùi kiếng thì ánh sáng
của gương liền hiện.
Chơn tâm bị che lấp, muốn sạch bụi vô minh
phiền não, trước phải dùng pháp vô tâm để hàng phục vọng tâm, sau làm các việc
lành phụ trợ để cho chơn tâm mau sáng tỏ.
Trong Luận Khởi Tín dạy: Có người do lòng tin thành tựu mà phát tâm.
Phát tâm đây có ba loại:
Trực tâm: là pháp chánh niệm Chơn Như.
Thâm tâm: là làm các việc lành.
Đại Bi Tâm: là nhỗ sạch phiền não cho chúng
sanh.
Trực tâm là pháp chánh. Thâm tâm và Đại bi tâm
là trợ pháp.
TÂM:
Tam điểm như tinh tượng, Hoành câu tợ nguyệt tà
Phi mao tùng thử đắc- Tác Phật
dã do tha.
Nghĩa: Ba điểm như sao sáng- Hình cong giống
trăng tà
Mang lông sừng do nó – Làm Phật cũng đó mà ra.
{]{
Phật giáo là tôn giáo mà toàn bộ giáo lý chỉ
nhằm khai mở trí tuệ con người, nhận chân sự thật khổ đau và con đường đưa đến
sự đoạn tận khổ đau. Cho nên có thể nói
hạnh phúc là nếp sống vắng mặt sự khổ đau và bất cứ người Phật tử nào cũng
trông chờ quá trình chuyển hóa tâm thức.
{]{
0 nhận xét:
Đăng nhận xét