TỲ KHEO
Phạn văn
Bhiksu ý nghĩa chủ yếu là “ Khất sĩ ”. Trên cầu Phật pháp để nuôi dưỡng huệ
mạng của pháp thân, dưới hướng về người tục khất cầu cơm áo để nuôi sống sinh
mạng của sắc thân. Vì thế gọi là Khất sĩ. Ngoài ra còn có các nghĩa Bố ma, Tịnh
mạng, Tịnh trì giới. Nhân vì xuất gia,
học Phật làm Tỳ kheo là muốn liễu thoát sanh tử, không còn bị sự quấy nhiễu và
chi phối của ma nghiệp cùng ma cảnh. Ma vương bớt đi một ma dân để lợi dụng và
chi phối, cho nên ma cảm thấy sợ hãi, vì thế gọi là Bố ma. Tỳ kheo trì giới hay
phá được phiền não ác nghiệp, vì thế gọi là Phá ác. Tỳ kheo không làm các nghề
buôn bán, trồng trọt, thợ thuyền, mưu sinh, mà chỉ thanh tịnh khất thực để tự
sống, vì thế gọi là Tịnh mạng. Tỳ kheo
đem cả hình tướng, thọ mạng của suốt đời mình kiên trì giới luật thanh tịnh vì
thế gọi là Tịnh trì giới.
Tỳ kheo còn
dịch là Bí sô là tên một loài cỏ, căn cứ vào truyền thuyết, loại cỏ này có 5
đức tính đặc biệt.
1/ Thể tánh mềm mại.
2/ Bò ra bên ngoài.
3/ Hương thơm bay xa
4/ Trị được đau nhức
5/ Không tránh ánh sáng mặt trời
Vì thế lấy làm
tên gọi của người xuất gia. Bí sô là cựu dịch, Tỳ kheo là tân dịch. Thời Phật
còn tại thế, hoạt động của Phật giáo lấy Đức Phật làm trung tâm, sau khi Phật
diệt độ, hoạt động của Phật giáo lấy Tăng đoàn xuất gia làm trung tâm. Nếu như không có Tỳ kheo, Tỳ
kheo ny, sự trụ thế của Phật giáo sẽ mất đi giá trị của tôn giáo mà chỉ có giá trị của triết học hoặc học
thuyết văn hóa. ( Như học thuyết Khổng Mạnh ).
Chủng loại Tỳ kheo:
1/ Danh tự Bí sô
2/ Tự xưng Bí sô ( tự thuyết Bí sô )
3/ Khất cầu Bí sô ( người thế tục vì mưu cầu sinh sống
)
4/ Phá phiền não Bí sô
5/ Bạch tứ yết ma Bí sô ( tác pháp Bí sô )
Hai loại 4 và
5 hợp pháp, ba loại trên phi pháp.
Trong luật có bao gồm giới, nhưng trong giới thì không
có bao gồm luật. Vì trong Tỳ ni tạng có Ba la đề mộc xoa (Biệt giải thoát giới)
còn Ba la đề mộc xoa không thể nhiếp hết Ty ni Tạng.
Nói rõ hơn, Tỳ ni bao gồm cả chỉ trì và tác trì. Ba la
đề mộc xoa duy chỉ có chỉ trì. Vì thế trì luật bao gồm trì giới, Trì giới không
bao gồm trì luật. Vì luật là việc cộng đồng của đại chúng trong Tăng đoàn, còn
trì giới là việc của mỗi cá nhân Tỳ kheo. Trì giới gọi là chỉ trì, vì không làm
ác. Trì luật gọi là tác trì vì hay thành thiện. Việc của Tăng đoàn phải do đại
chúng trong tăng đoàn cùng chung quyết giải, cùng chung suy triển, cùng chung
trợ thành, vì thế cần phải hòa hợp ý kiến của đại chúng. Tổng hợp ý kiến của
đại chúng hành sự tác pháp, đây là tinh thần trì luật, gọi là tác trì.
Trong luật tạng quy định điều văn giới tướng là giới,
là chỉ trì, quy định các pháp yết ma là luật, là tác trì. Luật là giúp cho sự
tiến hành của giới, luật còn là người giám đốc của sự thực hành giới. Tỷ như
người muốn xuất gia trì giới, trước tiên cần phải nhờ pháp yết ma chứng minh,
cấp cho tư cách và thân phận của Tỳ kheo xuất gia. Điều văn của giới, nếu trên
sự thực hành gặp phải khó khăn cũng có thể dùng pháp yết ma để nghiên cứu giải
quyết. Nếu như phát hiện một Tỳ kheo nào
hoặc sinh hoạt vượt ra ngoài phạm vi của giới liền phải làm yết ma cử tội,
chiết phục đuổi đi, cho đến diệt tẫn (trục xuất) vì thế giới là phương thuốc
phòng ngừa sự hư đốn của sinh hoạt Tỳ kheo. Luật là phương thuốc phòng ngừa sự
hư đốn của giới. Sinh hoạt của người Phật tử phải lấy giới làm chủ yếu, muốn
giải thoát sinh tử cần phải trì giới. Phật giáo muốn tồn tại lâu dài với thời
gian cần phải trì luật.
Một Tỳ kheo
chân chính không thể không trì giới. Một tăng đoàn có triển vọng không thể
không trì luật, nếu như Tăng đoàn không trì luật được thì Tỳ kheo trì giới cũng
sẽ không được bảo hộ. Theo nội dung của Luật phân phối 250 giới của Tỳ kheo và
348 giới của Tỳ kheo ni là chỉ trì, 20 thứ kiền độ là tác trì. Trước là giới
sau là luật. Trong giới có luật trong luật có giới, đây là lấy điểm trọng
yếu của nó mà phân biệt.
Nếu như nói giới pháp là phương thuốc đề phòng sự hư
đốn của đạo giải thoát, thì pháp sám hối là phương thuốc làm cho thanh khiết
của đạo giải thoát. Chưa từng nhiễm ô hư đốn, phải nên ngăn ngừa, nhiễm ô hư
đốn rồi lập tức xử lý làm cho thanh khiết, đây là công dụng của pháp sám hối.
Nhưng không nên hiểu lầm, pháp sám hối không phải là toàn năng hoặc vạn năng.
Pháp sám hối đối với 4 tội nặng (tánh tội) của giới căn bản là thương mà không
thể giúp, pháp sám hối đối với tánh tội (bản lai là tội) cũng không có năng
lực, pháp sám hối chỉ có thể hồi trừ giới tội của sự phân giới, hoặc gọi là giá
tội hoặc gọi là chế tội. Tỷ như giết súc sanh là tánh tội trong Tỳ kheo giới,
không được giết súc sanh là giá tội. Tỳ kheo giết một súc sanh bị hai lớp tội,
pháp sám hối chỉ có thể trừ được giá tội, tánh tội phải bị quả báo bồi thường
sinh mạng. Điều này giống như một người vừa là Đảng viên của một chính đảng,
đồng thời là một quan chức của chính phủ, nếu ông ta phạm pháp quốc gia, đương
nhiên bị sự chế tài của luật pháp quốc gia. Sự chế tài của kỷ luật đảng không thay thế được cho sự chế tài của
luật pháp quốc gia. Điều này đồng một lý với pháp sám hối của Phật giới. Vì thế
chúng ta tuyệt đối, không nên cho rằng vì có pháp sám hối nên có thể mặc tình
to gan lớn mật dám phạm giới./.
{]{
0 nhận xét:
Đăng nhận xét