BÁO ỨNG HIỆN ĐỜI
TẬP 3
Hạnh Đoan biên dịch
Mục Lục
Xin gởi người… dù chưa
quen nhau
Nỗi niềm trân quý cực kỳ
sâu
Cầu mong người đọc tâm
khai sáng
Xoa dịu cho đời… bớt khổ đau!
Hạnh Đoan
Cuốn “Báo ứng Hiện Đời tập 3 ” này tuy là kinh nghiệm của nhiều
người, nhưng hầu hết là do tác giả Quả Khanh biên thuật (Chỉ có một số ít các
tác giả khác viết). Vì cùng nội dung báo ứng nhân quả nên tôi tuyển lọc, gom
lại, dịch thành một cuốn. Nếu bài nào không đề tên tác giả thì xin quý vị
ngầm hiểu bài ấy là của Quả Khanh.
Sau khi cuốn Báo ứng Hiện Đời (tập 1 và 2) xuất bản xong, được độc
giả nhiệt liệt hưởng ứng, phản hồi, chia sẻ những kinh nghiệm hay cùng những
ích lợi thu được nhờ đọc cuốn sách này: có người nhờ đây mà phát tâm thiện
lành, đặt mình vào cảnh người để cảm thông tha thứ, chịu nhường nhịn, từ bỏ
tranh chấp nhà cửa. Có nhiều người đang ăn chay nhấp nhem đã thệ nguyện trường
trai. Có người hiếm muộn nhờ đọc “Hiện tượng bảo ứng nhân quả ” đã làm phúc
thiện y theo trong sách và được hoài thai như ý. Có người vướng phải nợ nần,
đau khổ não phiền, nhờ đây mà tỉnh ngộ (sau khi cầu nguyện xin hiểu rõ nguyên
nhân đã mộng thấy tiền kiếp mình từng ăn cắp số tiền to của người, tỉnh dậy
đương sự đã xúc động thệ sống một đời trong sạch, nguyện giữ gìn thân khẩu ý
nghiêm nhặt và tiêu tan hết niệm oán trách người, đời). Rất nhiều tâm sự cảm
động, tôi không thể kể hết … Tóm lại nhờ tin sâu nhân quả, mà cuộc sống độc giả
có được những xử lý kỳ diệu, hạ quyết tâm hoàn thiện mình mạnh mẽ và đời sống
trở nên hạnh phúc bình an hơn. Xin cảm ơn những lời góp ý chia sẻ chân tình
cũng như ước muốn mong tôi dịch tiếp nữa. Đây quả là niềm khích lệ và an ủi vô
cùng, độc giả đã khiến tôi cảm thấy công lao của mình không phí hoài, được “đền
bù”quá mơ ước.
Cho dù bạn có tôn giáo hay không, dù bạn tin hay không tin – thì
Luật nhân quả vân tôn tại. Hiểu nhân quả thì bạn sẽ biết cách tạo phúc tích đức
để tự bảo vệ mình, nhân phẩm sẽ chuyên tôt và giới luật đức hạnh sẽ tự nhiên
thành trong từng oai nghi ý nghĩ, khiến thân tâm đều được “thanh khiết hóa” và
có thể hành xử hữu ích cho đời. “Cuộc sống khổ hay vui tùy thuộc nhân gieo của
chính mình.
Trong xã hội hiện nay; cái ác đang bành trướng khủng khiếp, có thể
nói là xấu ngoài sức tưởng và mức độ tồi tệ đạt đến đỉnh điểm, đạo đức và luân
lý suy đến độ người ta “không ác nào mà không dám làm, không tội nào mà không
dám phạm”…
Khổng Tử nói: “Nhân chỉ sơ tính bản thiện”, còn các tôn giáo khác
xác nhận: “Mỗi người đều có Thánh tính tiềm ấn bên trong” và Phật thì tuyên bố:
“Tất cả chúng sinh đều có Phật tính”…
Vậy thì Thiện tính, Thánh tính, Phật tính ấy ở đâu? Mà giờ đây con
người xài và hiển lộ toàn ác tính, quỷ tính, thú tính?… (không còn chút nhân
tính nào). Báo, đài đăng tin nhan nhản: kẻ cướp thẳng tay chém bừa người để
đoạt xe, bà hàng rong bị giựt tiền tàn nhẫn, ông, cha, chú, bác, cậu… cưỡng
hiếp con, cháu v.v… những hành vi không thể ngờ trong hình hài người!
Bởi vì mỗi cá nhân có đủ tính Phật lẫn ma, do thiếu hiểu biết và
không tin nhân quả nên người ta đã lạc lầm phát triển toàn phần xấu, khiến bản
tính hiền thiện, thánh khiết bị thui chột.
Vì vậy tôi mà cố gắng dịch nhiều “Báo ứng Hiện Đời ”, hi vọng
thông qua đây Thánh tính sẽ được khôi phục, sống lại trong lòng mọi người,
khiến ai cũng biết tự bảo vệ, tạo hạnh phúc cho mình và người chung quanh, để
những ý nghĩ sai quấy, những thấy biết lầm, những hành động xấu, những ham muôn
thấp hèn… sẽ tàn lụi, tiêu tan.
Mong bạn đọc cuốn sách này bằng tấm lòng bao dung và hiểu thấu cho
niềm kỳ vọng của tác giả lẫn dịch giả.
Xin cảm ơn cô Nguyên Tâm, Hồng Minh Châu, Diệu Ấn, Dương Bích Thủy…
luôn đồng hành và ủng hộ đắc lực, giúp tôi duy trì sức khỏe, có được phương
tiện làm việc tốt và khả năng biếu tặng sách cho người.
Những ân nhân chưa kế còn rất nhiêu, và những tình nghĩa của bao
người dành cho tôi cũng vô cùng, bất tận. (Từng lời động viên khuyến khích,
từng ly nước, chén cơm, cái bánh, viên thuốc)…đối với mọi lo toan của chư vị
dành cho tôi trong cuộc sống, tôi không thể chỉ nói một lời cảm ơn mà có thể
đền đáp.
Xin được hồi hướng công đức này đến tất cả chư vị ân nhân cùng
chủng sinh trong pháp giới, nguyện em Carol Chi Phan và những người đã mất… đều
được siêu sinh, nguyện những người còn sống đều khôi phục trọn vẹn bản tính
thuần thiện, thánh khiết – Người có lỗi sẽ không còn phạm lỗi nữa và người chưa
phạm tội sẽ tiếp tục giữ gìn thân tâm trong sạch.
Cuối cùng, xin quý độc giả vui lòng tha thứ cho những sai sót của
người dịch.
Hạnh Đoan -14/10/2013
Tôi tuyệt chẳng ngờ được khi “Báo ứng Hiện Đời” xuất bản xong, lập
tức được các bạn đạo khắp nơi nhiệt tình hưởng ứng, và sách liên tục được in
ấn, tái bản nhiều như vậy.
Cho dù trong lời nói đầu “Báo ứng Hiện Đời tập một” tôi đã giải
thích rõ, do có nhiều bất tiện nên tôi bắt buộc phải thay đổi tên họ
thật và chỗ ở các nhân vật trong sách. Nhưng vẫn có rất
nhiều người không chú ý tới lời nhắc này, cứ nôn nóng lên Ngũ Đài Sơn hoặc đi
Thiên Tân tìm Hòa thượng Diệu Pháp và tôi, vừa tốn tiền vừa uổng công. Đây
chẳng phải là chủ ý của tôi.
Xin quý vị nhớ cho: chuyện tuy có thật, nhưng tên phải tạm đổi.
“Nhân quả cảnh tỉnh người, không cần phải tìm tung tích sư” Nếu cứ một bề hướng
ngoại tìm cầu, cho dù có tin Phật pháp, quý vị sẽ không được lợi ích.
Điều khiến tôi vui nhất là, có nhiều độc giả khi xem “Báo ứng Hiện
Đời” đã minh bạch đạo lý, còn y theo đó tự kiểm nghiệp đả tạo của bản thân,
quyết tâm sửa mình triệt để. Nhờ phát tâm thành sám hối, nên bịnh khổ trên thân
cũng được lành hoặc thuyên giảm rất nhiều!
Còn nữa, có nhiều độc giả đang ăn mặn, xem sách này rồi mới hiểu
ăn mặn là tạo nghiệp tội sâu nặng, lập tức nguyện trường trai. Họ không ngờ là
mấy tháng sau không những thân thể ngày càng khỏe mạnh, da dẻ ngày càng tươi
tắn mà kể từ lúc họ biết sám hối, phát nguyện tập tu, sửa mình, sự nghiệp bắt
đầu phát lên, hưng vượng và diện mạo cũng phát tốt theo.
Còn có nhiều thai phụ triệt để từ bỏ ăn mặn, bắt chước tụng “Kinh
Địa Tạng”, con họ sinh ra mạnh khỏe thông minh, dung nhan xinh đẹp và rất ngoan
ngoãn, dễ nuôi.
Tóm lại, độc giả chia sẻ kể tôi nghe, sau khi trường trai họ thu
được nhiều lợi ích rất tuyệt vời. Do mỗi người nhân duyên bất đồng, nên ích lợi
thu được cũng khác nhau. Song những tin lành liên tục được báo cáo, khiến bao
người hoan hỉ ngập lòng, riêng tôi càng xúc động sâu sắc.
Chúng ta giống như các loài động, thực vật bị hạn hán, khao khát
trông mưa và Phật pháp giống như cam lộ, mưa một trận bủa khắp, khiến muôn
loài, cỏ cây đều được lợi ích…
Hiểu sâu kinh tạng thì trí tuệ tăng trưởng, khi đã hiểu pháp, chịu
tin, thọ, thực hành, thì sẽ ly khổ đắc lạc.
Đây cũng là mục đích tôi biên cuốn sách này, vì “tất cả do tâm tạo’’
– Phật pháp là diệu pháp – nếu quý vị biết rút kinh nghiệm từ
mỗi câu chuyện có thật trong sách “Báo ứng Hiện Đời” và thành tâm đối chiếu thực
hành theo, thì cũng giống như đang gặp Hòa thượng Diệu Pháp, bởi kết quả thu
được vẫn không sai khác, thành công thấy rõ hiện tiền, hệt như “hễ dựng sào là
thấy bóng”. Trong cuốn sách này, có nhiều vấn đề độc giả nêu lên, tôi đều nhất
nhất ghi ra để tất cả cùng tham khảo.
Trong thời buổi bước vào kỳ mạt pháp như hiện nay, vẫn còn nhiều
người phát tâm “đại tu hành” xuất hiện, thế nên cho dẫu là “kỳ mạt pháp” nhưng
mà không mạt!
Mong rằng ngày càng có nhiều người dung nhập vào biển an lành của
Phật pháp, biết tự tu sửa thân tâm, đổi mới cuộc đời, vui hưởng hạnh phúc.
Quả Khanh
Thưa chư vị cư sĩ:
Tôi tên Lữ Sơn Kiệt, người Hà Nam. Một ngày cách đây hơn bốn năm,
trong lúc nghỉ trưa tôi tình cờ nghe cô Lý Linh kể các câu chuyện kỳ diệu của
vợ chồng cô (khi họ đến Ngũ Đài Sơn lễ Hòa thượng Diệu Pháp) cho những người
trong xưởng nghe. Những câu chuyện báo ứng nhân quả này thật hấp dẫn và lôi
cuốn khiến tôi rất ưa nghe, nhưng không dám tới gần (vì sợ lảm ảnh hưởng tâm tư
mọi người), song khi tôi đi tới thì thấy các vị trong xưởng hầu như chẳng ai
tránh né tôi cả.
Ăn tối xong, tôi không kềm chế được cảm giác xúc động (vì lần đầu
tiên được nghe Phật pháp), nên ráng thu hết can đảm đến trước nhả Lý Linh. Thật
may, lúc này chỉ có cô và ông xã lả Đan cư sĩ ở nhà. Hai người họ chẳng những
không đuổi tôi đi, ngược lại còn nhiệt tình tiếp đãi (một kẻ không được ai hoan
nghênh như tôi).
Vợ chồng cô Lý Linh là đệ tử Hòa thượng Diệu Pháp, tôi nói chuyện
với họ tới ba-bốn tiếng đồng hồ. Được pháp Phật tẩy gội thấm nhuần, không những
tôi hiểu được nguyên nhản bịnh hoạn trên thân mình, mà còn biết rằng nếu như tôi
không sớm hối cải sửa lỗi sám hối, thì tương lai chắc chắn sẽ phải đọa địa ngục
vô gián.
Tôi là người như thế nào ư? Xin thưa với quý vị, con nít mà đang
khóc ầm ĩ, chỉ cần nghe người lớn nói một câu: -“Lữ Sơn Kiệt đến kìa!” là chúng
lập tức nín ngay. Tên của tôi có thể giúp người trong thôn làng đem ra hù con
nít thì phải biết là thành tích “oai hùng” của tôi rất vang danh, nỗi cộm!
Xin đơn cử một chuyện nhỏ (như hạt mè) thôi, để bạn hiểu tính cách
“hảo hớn” của tôi như thế nào:
“Nhiều năm lâu xa về trước, ngày nọ tôi cùng một người bạn tản bộ
trên đường, vừa đi vừa nói cười rôm rả, thì ngay lúc đó bỗng nghe phía sau có
tiếng còi xe “tin tin” vọng tới, tôi ngoái nhìn thi thấy đó là một chiếc xe vận
tải to đùng. Nhưng tôi vẫn tỉnh bơ đi nghênh ngang trên đường, chẳng thèm lý gì
tới nó.
KÉ…ÉT..ÉT! – Tiếng kèn xe rống to như muốn xé màng nhĩ, tôi giật
nẩy người, gã tài xế quát to: – “MÀY MUỐN CHẾT Ư?!
Chiếc xe lúc này đã dừng lại. Tài xế thò đầu ra mắng tiếp:
– Đúng là mày tự tìm cái chết mà!
Tôi nghe xong, bốc hỏa. Liền chạy tới đập rầm rầm vào xe, tay trái
nắm chặt cửa xe, tay phải thoi lia vào tên tài xế. Đột nhiên tôi phát hiện:
ngồi bên phải hắn là một cô gái xinh đẹp, thế là tôi lập tức nhảy xuống đất,
chạy vòng qua bên đó mở cửa xe ra, dùng thân đè lên người cô gái vả tay phải
thì đam tên tài xế nhừ tử”…
Những ác nghiệp tạo trong quá khứ, tôi chỉ kể tí xíu cho mọi người
nghe, để biết tôi có thành tích anh hùng ra sao thôi. Thú thật, tôi kể mà xấu hổ
lắm, vì từ khi biết Phật pháp rồi, hễ nhớ tới là tôi ăn năn và đau lòng vô
cùng. Do vậy mà tôi quyết tâm sám hối sửa đổi, nguyện từ nay bỏ tà quy chính,
làm một người tốt đổi mới hoàn toàn.
Tin tôi cải tà quy chính lả một điều quái lạ nên chẳng mấy chốc
được đồn lan. Lập tức đủ lời dèm pha của mọi người truyền đến tai tôi: -“Cái
thẳng Lữ Sơn Kiệt muốn học Phật hả?… Thế thì cứt ngựa cũng có thể nở hoa đấy!” –
“Phật giáo dù tốt đến đâu, hễ mà có Lữ Sơn Kiệt nhào dzô thì tôi đây không thèm
học Phật nữa!”…
Quả tình còn rất nhiều lời khó nghe vô cùng, nhưng lúc đó tôi nghe
xong chẳng hề nổi nóng má còn tăng thêm tâm sám hối. Đúng là tôi từng tác tệ
đến nỗi ngay lúc muốn học Phật, muốn làm người tốt mà không ai dám tin! Đây
chính là báo ứng mà! Trồng nhân gì thì gặt quả đó, không sai chút nào.
Thế là tôi âm thầm hạ quyết tâm: “Lữ Sơn Kiệt tôi, trước đây quen
sống xấu xa, xấu tới thiên hạ biết mặt, biết danh vả chạy làng. Hôm nay thân
tôi rơi vào cảnh bịnh hoạn, không những toàn thân vô lực, mà còn hay bị chóng
mặt choáng váng. (Đan cư sĩ nói tất cả đều là quả báo do tôi đánh người, sát
sinh)… bây giờ tôi đã được nghe Phật pháp, hiểu rõ và tin có báo ứng đáng sợ
rồi, nên quyết tâm làm lại cuộc đời, thệ từ nay vĩnh viễn làm người tốt, là đệ
tử ngoan của Phật. Đức Phật từng nói tất cả chúng sinh đều có Phật
tính, thế thì vì sao tôi lại không thể …
chứ?
Tất nhiên đã quyết tâm tu sửa, thì phải biết đón nhận những khinh
miệt rẻ rúng mọi người dành cho mình. Chư Phật và Bồ-tát, chẳng phải đã từng
dạy: “Kẻ phạm lỗi một khi hiểu rõ Phật pháp, thì phải biết khiêm
cung nhận lỗi, phải nhẫn giỏi và bắt đầu tu tỉnh, học tập từ ngay trong những
lời mạ nhục chửi mắng” hay sao?
Từ đó, mỗi khi tan sở về nhà, tôi vùi đầu nghiên cứu kinh pháp,
không những dứt tuyệt ăn mặn, mà ngay cả rượu, thuốc tôi cũng bỏ luôn. Dù trước
đây tôi là con sâu rượu, (nhậu như hủ chìm và phì phà thuốc như ống khói tàu).
Mỗi ngày tôi còn ở trước Phật kiểm lại những lỗi lầm trong quá khứ, chân thành
phát lộ sám hối, từng lỗi sát, đạo, dâm, vọng, tôi đều dũng mãnh thề đoạn dứt,
bỏ ác theo thiện…
Tôi lạy trăm lễ, hai trăm lễ, ba trăm, một ngàn… xin hồi hướng cho
các sinh vật bị tôi giết hại, hồi hướng cho những người bị tôi đánh mắng mạ
nhục, hồi hướng cho những người bị tôi bắt nạt, ăn hiếp… Môi một lạy đều phát
xuất từ tâm chí thành sám hối của tôi, đều mang theo giọt lệ ăn năn tràn mặt,
tôi lạy đến ngay bản thân tôi cũng không nhận ra mình là Lữ Sơn Kiệt nữa.
Cuối cùng cũng đến một ngày, các bạn đạo chịu tiếp nhận tôi, láng
giềng hương thôn mỗi lần gặp tôi đều vui vẻ chào hỏi, (cứt ngựa đã nở hoa) tên
“ác quỷ” Lữ Sơn Kiệt giờ đã biến thành “người”, đã sống lại, đổi mới, đã quay
về vị trí làm người, đã có tư cách con người rồi! Đan cư sĩ còn dẫn tôi đi quy
y Hòa thượng Diệu Pháp, tôi vui và mãn nguyện lắm, dốc toàn lực bắt đầu cuộc
đời mới.
Đêm nọ, tôi nằm mộng thấy một con chó đen cao to rất quen, nó hiền
lành quấn quýt bên tôi, tôi liền dang tay ôm, vuốt ve nó và nói bất tận những
lời thân ái…
Sáng ra, khi thức dậy tôi thấy toàn thân nhẹ nhàng thư thái. Từ
đó, bịnh hoạn không để ý tới mả dần dần hết.
Một hôm, tôi đột nhiên nhớ lại, con chó đen này chính là mấy năm trước
tôi đã dùng dây xiết cổ, giết nó, làm thịt ăn. Tôi thiếu nợ mạng loài vật rất
nhiều, tạo tội rất nặng (tích nghiệp thành bịnh). Nhờ tôi chân thành sám hối,
tụng kinh hồi hướng nên đã được chúng vui lòng giải oán kết, xóa hận. Con chó
đen không những không hận tôi mà trong mộng còn tỏ vẻ thân thiện, giải thích rằng
nó được giải thoát. Tôi quyết tâm từ nay về sau vì những sinh vật mình giết hại
tụng “Kinh Địa Tạng” và tụng mãi… để cầu siêu cho chúng. Hi vọng chúng sớm vãng
sinh cõi lành, cùng tôi viên thành Phật đạo.
Mấy năm sau đó tôi vẫn là một nhân vật “nổi danh” nhưng không còn
khiến người gặp phải hoảng hồn kinh sợ nữa, mà trái lại, khi ông, bà hay ba má
ai đó… dạy con cháu không nghe, họ luôn đem tôi ra làm gương để nhắc nhở:
– “Lữ Sơn Kiệt có thể biến thành người đại tốt như vậy, hỏng lẽ
con chẳng thay đổi được hay sao?”…
Tôi đã thành người mẫu, thành tấm gương để các bậc cha mẹ đem ra
bắt đám con ngỗ nghịch noi theo! (Như vậy Lữ Sơn Kiệt này sống ở nhân gian cũng
không uổng phí)…
Tôi hiểu được rằng. “Tâm ta do ta làm chủ, thân ta tạo ác hay hành
thiện cũng do tâm làm chủ. Tâm chuyển biến thì tắt cả đều đổi thay”. Nhờ vậy mà
tôi từ một người ác mới có thể biến thành thiện, trở thành một đệ tử sơ cơ căn
bản của Phật. Phiền não tức Bồ-đề, tất cả do tâm tạo mà!
Nguyện những ai có hành vi bất lương (giống như tôi) sớm quay về
chánh đạo, đồng chứng Bồ-đề.
Tan nát lại đoàn viên
Tôi tên Mã Kim Lộ, vợ của Lữ Sơn Kiệt Tôi đã quy y Phật giáo, cũng
là đệ tử Hòa thượng Diệu Pháp. Mọi người gọi tôi là Mã Cư Sĩ, tôi vui lắm.
Con trai tôi 14 tuổi, tuy nó chưa quy y Phật, nhưng cũng thay đổi
rất tốt, còn vì tôi chép “Kinh Địa Tạng” nữa.
Gia đình tôi hiện tại tuy chẳng giàu có, nhưng chẳng vất vả lo ăn lo
mặc. Điều khiến tôi mừng nhất là, từ lúc Lữ Sơn Kiệt bước vào đường học Phật,
anh đột nhiên biến thảnh người khác, thay đổi hẳn.
Mới đầu nghe anh nói sẽ theo đạo Phật tập tu, ngay cả tôi cũng
không dám tin, còn cho rằng “chắc anh đã bị bịnh… “chi đó” (tôi không dám nói
là bịnh thần kinh, dù có… nghi như vậy).
Ngày nọ thấy anh ôm tượng Phật bước vào nhà, thượng lên bàn, thờ
phụng tại phòng khách. Từ đó hằng ngày thắp hương lễ bái, tụng kinh. Tôi làm
gan hỏi:
Nè, người… như anh mà cũng biết thắp hương lạy Phật hả? Liệu… Phật
có chứng, có chúc phúc cho không?
Anh ôn tồn đáp:
– Thí như con trai mình có tính bướng lì hay gây chuyện, không
chăm học, nổi danh là học sinh tồi… thì vị thầy dạy nó, không phải là ngày nào
cũng mong nó thay đổi ngoan ngoãn, trở thành học sinh tốt hay sao? Lữ Sơn Kiệt
tôi, từ đây trở về sau muốn làm một người thật tốt, thì sao không thể học theo
Phật? Mà này, hồi xưa tôi thường gây gỗ chửi bà, có lúc còn đánh bà, đều là tôi
có lỗi, tôi sai hết! Từ nay, tôi thệ bỏ uống rượu, bỏ hút thuốc, dứt tuyệt ăn
mặn. Tôi nguyện làm một người xứng đáng, làm đệ tử ngoan của Phật! Nếu mà bà
còn giận, thì cứ đánh tôi cho hả hơi, cho nhẹ lòng đi nha!…
– Ôi trời ơi! Ôi mẹ ơi! – Hôm nay mặt trời mọc ở hướng Tây rồi
sao?? Lữ Sơn Kiệt đã nói lời của “con người” rồi nè! Những lời anh nói khiến
tôi mở to mắt, khiến tồi nhìn sững… anh càng nói, tôi càng tuôn lệ đầm đìa.
Chẳng biết duyên số dun rủi như thế nào, mà hồi tuổi trẻ xinh đẹp
tôi lại chọn anh. Thuở đó tính anh ngang tàng, ưa đập lộn, ưa gây chuyện nên
nổi danh khắp hương thôn. Hồi đó tôi còn ngưỡng mộ cho anh là có khí phách “hảo
hớn” nữa chứ. Tôi nghĩ: “Nếu lấy anh rồi thì tương lai… sẽ không ai dám bắt nạt
tôi!”
Mà đúng thiệt, quả thực là chẳng ai dám án hiếp, không riêng gì
bạn bè thân quyến mà kể cả chòm xóm láng giềng cũng đều… lánh xa tôi. Sau này
mới biết anh là trùm du đãng, như vậy tôi nghiễm nhiên thành là “quý phú nhân
của ông trùm”, thế thì đố ai… dám động tới!
Hằng ngày, sau khi tan “sở”, chồng tôi thường không về nhà, anh cứ
la cà ở ngoài tu họp cùng đám bạn bè “đồng chí” nhậu nhẹt. Hễ uống nhiều thì
gây lộn, quậy tưng lên. Không chỉ thế, ở nhà ăn cơm anh cũng nhậu, chưa xong
tiệc rượu thì đã say khướt, nổi điên, đập Đông đánh Tây, quánh con loạn xị. Có
lần vì chút chuyện vặt anh mắng tôi, tôi đâu có nhịn được, liền trả treo lại
mấy câu. Thế là anh dang thẳng tay “bộp” vào mặt tôi, cú tát đập manh vào tai
trái. Lúc đó mắt tôi nổ đom đóm, tôi té xuống, ngất xỉu.
Khi tỉnh lại thì tai trái hết còn nghe ngóng được gì, tôi đến bịnh
viện khám, bác sĩ nói tai tôi bị lủng màng nhĩ.
Hồi đó mái ấm của chúng tôi rất hiếm khi không có chuyện. Việc
đánh mắng, gây gỗ thường xuyên xảy ra. Tục ngữ nói – Gần mực thi đen’’ rất
đúng. Do hôn nhân không hạnh phúc, vợ chồng luôn bất hòa, cuộc sống bị nhấn
chìm trong khổ não, phẫn nộ khiến tôi dần dần lây tật xấu của anh – Tôi cũng
thành “nữ anh hùng” dễ nổi nóng, cáu bực; tôi cũng nhậu bí tỉ, hút thuốc mịt
mù.
Lúc đó tôi nghĩ: “Anh chẳng để tôi sống an qua ngày, thì tôi dựa
vào đâu mà tiết kiệm cho anh chứ?”…
Hễ lãnh lương xong thì tôi ăn to uống lớn, đi gầy sòng nhậu, mượn
men rượu giải sầu, phiêu du trong khói thuốc. Nói khiêm nhường thì một ngày tôi
có thể nốc cả bình rượu, hút hai gói thuốc. Việc tìm vui qua các chất kích
thích của men bia, khói thuốc đã đem đến cho tôi nhiều bịnh hoạn. Đồng lương ít
ỏi, lại phải đổ hết vào bệnh viện. Thường là mới nửa tháng, túi tôi đã rỗng.
Thế là tồi cứ sống “xiên xẹo” cho qua ngày.
Hai chúng tôi hễ ngồi vào bàn nhậu, một khi gây chuyện thì rượu và
thức ăn bay cùng nhà, con cái khóc rùm, vợ chồng cứ cãi um lên. Chúng tôi có
nói chi, làm gì, láng giềng cũng chẳng ai thèm khuyên ngăn. Bạn xem duyên nợ
chúng tôi là vậy đó, thế mà cũng gọi là mái ấm, là gia đình!
Nhờ hai vợ chồng cư sĩ Lý Linh dùng Phật pháp cứu vớt cái gia đình
đổ nát của chúng tôi, nên tôi được biết đến đạo pháp và bước vào đường học Phật
(nối gót theo sau Lữ Sơn Kiệt). Tôi qui y Hòa thượng Diệu Pháp rồi, liền thệ
dứt bỏ tất cả thói quen xấu.
Hiện nay, không những gia đình chúng tôi thay mới, đổi tốt, mà tà
khí trên mặt Lữ Sơn Kiệt cũng biến mất tăm, không còn tung tích. Mặt anh không
còn u ám mà rất sáng. Còn bản thân tôi lúc trước bịnh hoạn đầy thân, bây giờ
không chữa trị mà được lành, sự khang kiện ngày xưa (khó bề tìm thấy) nay đã
xuất hiện khỉ soi gương tôi thấy dung nhan tiều tụy héo xào của mình đã biến
đổi, hồng hào, tươi tắn đến ưa nhìn.
Hôm nay, sẵn dịp cư sĩ Quả Khanh viết Báo ứng Hiện Đời” tập 3,
chúng tôi chủ động yêu cầu xin ông cho… viết ké chuyện sa đọa của chúng tôi ra
(Dù sao vợ chồng chúng tôi sớm đã là “danh nhân”, từng xấu đến chẳng thể xấu
hơn được nữa, cho nên chẳng sợ mất mặt, mất danh, chẳng sợ bị khi dễ trong mắt
ai nữa).
Điều tôi muốn nói là: “Chúng tôi từng là những kẻ tồi tệ như thế,
gia đình rách nát như thế, mà còn có thể thay đổi… (nhờ biết Phật pháp nên tu
sửa tâm tính, đổi mới cuộc đời mà hiên tại được hưởng hạnh phúc).
Vậy thì các bạn, những người có nhân cách hơn hẳn chúng tôi (hoặc
tệ cỡ chúng tôi đi nữa) thì tại sao lại không thể sống hạnh phúc?
Vì sao các bạn không mau chóng chọn cho mình con đường ly khổ đắc
lạc?
Đệ tử Mã Kim Lộ
kính ghi và chí thành đảnh lễ
Tam Bảo.
14/11/2002
Một ngày vào năm 1993, một nông dân tên Thi khoảng 33 tuổi, đến
ngôi chùa lớn ở làng quê xin gặp Hòa thượng Diệu Pháp.
Hai năm trước, nơi vách thực quản ông Thi mọc một ung bướu lành
tính. Khi phẫu thuật, bác sĩ đã cắt bỏ một đoạn thực quản và cho may lại nối
với bên trên rồi. Nhưng chẳng bao lâu chỗ cắt tuy đã lành, song bên trong thực
đạo (nơi tiếp giáp với vòm miệng) chẳng biết vì sao lại mọc ra một mầm thịt
tròn ngăn cản thức ăn, khiến ông nuốt gì cũng bị nghẹn, khó khăn. Mặc dù không
đau, nhưng bịnh nhân phải ăn từng chút, từng chút một mới được.
Được một năm thì ông Thi phải nhập viện phẫu thuật. Nào ngờ sáu
tháng sau, mầm thịt lại mọc ra tiếp, không thể phẫu thuật nữa. Bởi chẳng rõ
nguyên nhân vì sao bướu thịt cứ mọc mãi. ông Thi vì bịnh này mà hết sức thống
khổ, mỗi lần dùng bữa giống như thọ cực hình vậy. May gặp ông bạn họ Chương,
nhân vật chính trong câu chuyện “Gà Trống Lông Vàng” giới thiêu nên ông
mạo muội tìm đến, cầu Hòa thượng chí giúp cho.
Hòa thượng hỏi:
– Ông có chặt qua một cây nhỏ nào không? Đại khái thân to cỡ cái
chày? (Hòa thượng dùng tay diễn tả)…
Nông dân nhớ lại, đáp:
– Dạ con chỉ đốn có một lần, cây náy mọc tại bãi đất trống trước
cổng nhà con, nó mọc độ hơn một năm, sau đó bị con dùng rìu chặt đi. Hiện giờ
cái rìu vẫn còn, nhưng… lẽ nào do chặt cái cây nhỏ đó mà con bị ung bướu thực quản
sao ạ?
Việc này quá lạ, ngoài sức tưởng nên bịnh nhân rất hoài nghi. Cho
dù thắc mắc lấm nhưng ông Thi không thể không tin. Bởi chuyện chặt cây xảy ra
đã rất lâu (từ mười mấy năm về trước), nhưng vì sao Hòa thượng xa lạ này lại có
thể biết rõ vanh vách như thế?
Hòa thượng khai thị:
– Cây cối sinh trên đời là tạo phúc cho nhân loại. Chẳng hạn như
các việc xây chùa, dựng nhà, bắc cầu… nghĩa là có tạo dựng chi đa phần đều nhờ
đến nó. Trong “Kinh Địa Tạng” từng kể rất rõ: “Sơn có sơn thần, địa có địa
thần, thủy có thủy thần”, như vậy thảo mộc vẫn có linh thần gá nương vào tu
hành. Cho nên trong lúc cây chưa trưởng thành không nên tùy tiện chặt bỏ. Thứ
nhất: làm lãng phí tài nguyên, Thứ hai: làm thương hại thọ thần gá nương khiến
họ có thể ôm hận, hành ông mắc bịnh để trả quả.
Từ nay về sau ông khống nên mặc tình làm thương hại cây cối,
hoa cỏ… cho dù có phải phát trừ cỏ hoang thì cũng phải vì nó niệm mấy câu Phật rồi
mới chặt gốc dẹp trừ (bởi vì ở nơi gốc cỏ, cũng có nhiều sinh mệnh tồn tại).
Ông phải biết là các vị tu hành thời xưa mỗi khi muốn chặt cây cối
trưởng thành, cũng phải lên tiếng thông báo xin thỉnh thọ thần dời nhà.
Hơn nữa, ông nên phát tâm ăn chay, phải vì cây nhỏ đã chặt kia mà
tụng ba bộ “Kinh Địa Tang” thì ung bướu nơi thực quản sẽ dần dần tiêu trừ . Ông
có tin hay không vậy?
– Dạ có! Con đến đâu để mua “Kinh Địa Tạng” về tụng đây ạ?
– Tới phòng kinh sách phổ thông của chùa mà thỉnh.
– Dạ cám ơn sư phụ!
Tháng 7 năm 1997, Chu nữ sĩ là giáo sư đại học cùng chồng lên Ngũ
Đài Sơn bái Phật. Trong dịp tình cờ, nghe đồn Hòa thượng tu hành uyên thâm liền
đến thỉnh giáo.
Chu nữ Sĩ khoảng 32-33 tuổi, người cao vừa tầm, da trắng ngần,
trên sóng mũi đeo một cặp kiếng gọng vàng, phong độ thanh nhã.
Chu nữ sĩ kể đôi mắt cô từ nhỏ không được tốt, luôn có cảm giác
nóng như bị lửa đốt, cơn đau cứ ẩn hiện hành hạ. Vì đôi mắt này mà song thân cô
đã ưu tư rầu lo rất nhiều, tốn biết bao tiền bạc, nhưng không trị khỏi.
Sau đó trong thời gian qua Mỹ du học cồ cũng đi khắp nơi tìm thầy,
nhưng không cách chỉ trị hết.
Nghe Chu nữ sĩ kể bịnh tình xong, sư phụ nhắm mắt lại. Một lúc
sau, Ngài kể ra câu chuyện rất thú vị mà ngay cả tôi cũng không dám tin.
Sư phụ hỏi:
– Các con biết câu chuyện truyền thuyết Bạch Xà, “Nước tràn Kim
Sơn Tự” chứ hả?
Chúng tôi đáp:
– Dạ biết ạ. Hồi nhỏ chúng con đã xem qua tác phẩm này, sau đó còn
xem phim nữa
Sư phụ nói:
– Người ta ai cũng cho rằng đây chỉ là câu chuyện thần thoại hư
cấu viết ra, nhưng trong lịch sử quả thực có chuyện này! Nhiều loài vật trải
qua năm dài tháng rộng tu hành sẽ phát thần thông, nhất là loài sống lâu năm,
đây tuyệt chẳng có gì kỳ lạ.
Bạch xà hóa hiện thành cô vợ họ Bạch là bởi trong quá trình tu
luyện, ả chưa đoạn trừ tâm dâm, nên lầm rơi vào đường tà. Cứ bám chấp vào mục
tiêu truy cầu tình yêu nam nữ ở nhân gian. Nhưng quy luật thiên nhiên không cho
phép người và súc sống chung, có hành vi loạn luân như vậy. Cho dù xã hội hiện
nay có văn minh tân tiến, quan niệm thoáng đến đâu chẳng nữa thì luân lý cũng
khó dung.Trong ‘Truyện Bạch Xà” Hòa thượng Pháp Hải ngăn cản Bạch Xà là do phát
xuất từ tâm đại từ đại bi, bởi nếu Bạch xà không chấm dứt ngay hành vi loạn
luân, thì ngày sau sẽ phải hối hận thống thiết (vì tương lai ả sẽ bị hủy hết
đạo nghiệp ngàn năm và phải đọa vào địa ngục).
Sư Pháp Hải đem Bạch xà nhốt dưới tháp Lôi Phong, thực tế là để
giúp ả tiêu trừ tâm dâm, cho ả bế môn tu hành, tự kiểm điểm, nhìn ra lỗi mình!
Nhưng trong “Truyện Bạch Xà” tác giả đã viết hoàn toàn sai lệch:
vị sư Pháp Hải từ bi lại bị diễn tả thêu dệt thành giống như ác ma, tác giả
biến Phật Bồ-tát thành kẻ bất thông tình lý, tận sức hủy Pháp, báng Tăng, gieo
rắc ái tình diễm ảo trong nhân gian, ca ngợi quỷ tà, tô hồng tình yêu, sùng bái
ái luyến cực độ. Hoàn toàn không lưu tâm giữa người và súc sinh có khác biệt
hẳn hòi. Tác giả đã dùng ngòi bút bất minh lý, làm chánh tà điên đảo, hướng dẫn
người phí báng Phật giáo, khiến họ mê muội theo… Đây chính là làm trái nhân
quả, phải quấy chẳng phân, uốn thẳng thành cong. Người mắt sáng vừa xem là thấy
rõ ngay!
Hòa thượng ngưng một chút rồi nói tiếp -Vì sao tôi nhắc lại câu
chuyện này cùng quỷ vị? Bởi vì đôi mắt bịnh của Chu nữ sĩ có liên quan đến cổ
sự này.
Cô ta đã từng tu niệm theo pháp Phật nhờ đức hạnh hộ trì Phật giáo
mà chiêu cảm quả báo tốt, rất cần hiểu rõ nghiệp tội của minh đã làm. Câu
chuyện “Nước tràn Kim Sơn Tự” kể là Bạch xà, Thanh xà vì không nghe lời
hòa thượng Pháp Hải khuyên răn nên đã hỗn chiến cùng ông, dùng thần chú kêu gọi
Thủy thần nổi gió dâng sóng, làm nước ngập Kim Sơn Tự.
Thuở đó, Thủy thần không hiểu sự lý, nên làm sai, lại nhè trợ ác
hành nghịch, dâng nước ngập lụt chùa, khiến thiên thần hộ pháp nổi giận. Thiên
thần bèn dùng lôi quang đánh Thủy thần, khi hỏa châu sắp đánh vào mặt, Thủy
thần thân thủ vốn nhanh nhẹn nên đã kịp lặn xuống nước đào nạn, nhưng đồi mắt
cũng bị tổn vì lôi quang đả thương, đau đớn khó chịu…
Bộ hạ của Thủy thần vội lấy vải băng mắt cô lại, gấp rút hộ tống
đưa cô đến ngôi tiểu am trên núi, van cầu một vị hòa thượng có công phu, giỏi
trị bịnh, chữa giúp giùm cho.
Nhưng khi Thủy thần tháo băng mắt ra, vị Hòa thượng tu hành nhiều
năm này bị nét kiều mỵ tuyệt diễm của thủy thần hớp hồn (khiến ông ngất
ngây rồi cứ nhìn sững như hóa đá), lập tức tâm ái luyến phát sinh… Một niệm
khởi sai là công phu tiêu hết, do vậy Hòa thượng trị bịnh không thành công.
Thủy thần trong cổ sự chính là Chu nữ sĩ đời nay, do đôi mắt kiếp
trước bị nạn dẫn đến nguyên nhân bịnh mắt đời này. Vị Hỏa thượng kiếp xưa nhìn
thấy Thủy thần bỗng khởi phàm tâm, nay là chồng cô. Chẳng phải bây giờ phu quân
rất yêu thương, quan tâm lo cho cô hay sao?
Nghe những lời Hòa thượng Diệu Pháp nói, mọi người đều hưng phấn,
nhìn chăm chăm vào đồi phu thê này. Chu nữ sĩ có vẻ rất kích động khi biết rõ
câu chuyện. Giờ nghe Hòa thượng hỏi, cô quay qua nhìn chồng thật lâu, thật đằm thắm
và cười cười, xác nhận:
– Đúng vậy! ông xã rất quan tâm lo cho con, giống hệt như chăm con
nít vậy.
Người chồng có vẻ lúng túng, ông khẽ mỉm cười rồi cúi mặt xuống,
không nói gì.
Kế đó, sư phụ bảo hai vợ chồng họ:
– Hai con phải đến đại điện sám hối tội nghiệp xưa. Làm nước ngập
Kim Sơn Tự cho dù không phải chủ ý của Thủy thần, nhưng vì vô tri mà thành ra
trợ ác, tội không nhỏ đâu. Từ nay về sau phải thường lạy “Lương Hoàng Sám”, và
năng tụng “Kinh Địa Tạng”, đôi mắt nhất định sẽ lành.
Sư phụ lại quay qua bảo chồng nữ sĩ.
– Con vốn là một người chơn chất, tu hành đàng hoàng, nhưng mỗi
lần đến thế gian đều không buông được tâm ái dục, nên công phu xem như bị
thiệt. Đời này hai con đã nối tiếp tiền duyên, kết làm vợ chồng, càng phải cùng
phát tâm, ngay một đời này nhất định phải siêng tu giới, định, huệ, chứng đắc
vô thượng Bồ-đề!
Ngưng một lát Hòa thượng nói tiếp:
Có thể con chẳng tin chút gì về cổ sự ta kể. Thế nhưng khi về, chỉ
cần làm y theo những lời ta nói, thành tâm sám hối thì sẽ có hiệu quả.
Một tuần sau, vợ chồng Chu nữ sĩ đến bái kiến Hòa thượng. Vừa gặp
mặt, tôi đã thấy đôi mắt cô sáng long lanh, nhìn rất có thần, các mạch máu
trong tròng trắng cũng không còn nữa, trông cô hết sức tươi tắn, rạng rỡ.
Dù hai vợ chồng nảy đối với câu chuyện sư phụ kể lòng rất hoài
nghi, nhưng họ vẫn quyết định sám hối chân thành y như lời Ngài khuyên Nào dè
lúc đến trước Phật đường sám hối, thì cô bỗng cảm giác có một luồng khí mát mẻ
xâm nhập vào mắt, làm cho mắt cô rất dễ chịu. Từ nhỏ đến giờ đôi mắt cô chưa
từng có qua cảm giác tuyệt vời như thế. Cảm thọ này khiến cô nhận ra mình chính
xác đang được Phật lực gia trì, do vậy mà cô vững tin cổ sự sư phụ kể lả có
thực. Chồng cô cũng bị chấn động sâu sắc, Hai người ngay tối đó tại “Tân Quán
Khách” đã cùng chí thành tụng “Kinh Địa Tạng”, sám hối tội lỗi của mình.
Sáng ra, khi mở mắt cô thấy nhãn thần của mình không còn nóng đau
nữa. Điều này làm họ kinh ngạc và vui mừng vô kể.
Thế là hai vợ chồng hằng ngày tụng “Kinh Địa Tạng”, tha thiết sám
hối.
Hiện nay mắt cô Chu đã lành hoàn toàn. Thời gian quay về cũng đã
đến, họ đặc biệt tới cảm tạ và bái biệt sư phụ, còn bày tỏ rằng sau khi về Đài
Loan sẽ mỗi ngày dành thời gian lễ tụng Lương Hoàng Sám.
Chu nữ sĩ còn một vấn đề nan giải xin thỉnh giáo sư phụ. Cô thưa:
– Nếu như khi về, con bị người hỏi làm sao trị lành được đôi mắt,
thì con phải đáp sao đây? Vì con không thể nói mình chữa trị ở y viện nào, lại
càng không thể thố lộ đời trước mình là Thủy thần trong “Truyện Bạch Xà” từng
dâng nước làm ngập Kim Sơn Tự. Nếu con giải thích như vậy, thiên hạ mà không
nói con điên mới là lạ!
Câu này khiến mọi người tại hiện trường đều bật cười. Sư phụ đáp:
– Rất đơn giản, con cứ nói mình tại Ngũ Đài Sơn tụng kinh bái Phật
mà được lành.
Dù đối với sư phụ tôi tin tưởng trăm phần trăm, nhưng khi nghe
ngài kể cổ sự này, lòng tôi không thể không có chút hoài nghi. Bởi thời thơ ấu
tôi từng nghe người lớn nói “Truyện Bạch xà” chẳng qua chỉ là một truyền
thuyết, sao giờ đây lại có thực được? Không những vậy, hiện thời còn có một
Thủy thần tái thế, bằng xương bằng thịt đang ở ngay trước mắt tôi nữa chứ!
Thế nhưng, mấy ngày sau kết quả thực tế đã khiến tôi tiêu tan nghi
hoặc, bằng chứng là đôi mắt Chu nữ sĩ rõ ràng đã hoàn toàn hồi phục.
Lúc đó người biết việc này tối đa chỉ có 6-7 vị. Tôi mong rằng một
ngày nào đó nếu Chu nữ sĩ tỉnh cờ xem đến cuốn sách này, sẽ không đem lòng giận
tôi, được vậy là quý lắm rồi. Cho dù khi tường thuật lại sự kiện này, các tên
thật đều được tôi thay đổi, nhưng rốt ráo là tôi chưa có xin phép, chưa có chút
đồng ý nào của cô mà đã mạo muội tiết lộ.
Nếu như câu chuyện này khiến các bạn có được nhận thức tốt và hiểu
biết sâu hơn đối với nhân quả và Phật pháp – thì công đức này là của vợ chồng
cô – Cầu mong hai người sớm chứng thánh quả.
Ngay đây tôi cũng hi vọng các cư sĩ đại đức có văn tài cao, có thể
dùng ngòi bút tuyệt vời của mình viết mới lại “Truyện Bạch Xà” theo quan điểm
Phật giáo và ghi thêm câu chuyện tái thế tình duyên của Thủy thần. Nếu như
không hiểu rõ về Bạch Xà, Thanh Xà, Hứa Tiên, chúng ta sẽ cầu giúp đỡ nơi Hòa
thượng Diệu Pháp và cũng có thể đem câu chuyện chân thực (chứ không phải sai
lệch) này dựng thành phim truyền hình nhiều tập, như điện ảnh Đài Loan đã từng
công diễn chuyện đời “Ngọc Lâm Quốc Sư” trong “Tái Thế Tình Duyên” vậy.
Hi vọng “Truyện Bạch Xà” viết lại này sẽ là tác phẩm tốt giáo dục
người, đồng thời cũng khôi phục lại danh vị xứng đáng cho Hòa thượng Pháp Hải,
đây cũng là một việc công đức vô lượng. Đến như lai lịch Hòa thượng Pháp Hải,
rốt cuộc ngài là ai, là vị Bồ-tát nào chuyển thế? Nếu sau này có dịp thì chúng
ta sẽ bàn thêm.
Vì thèm ăn mà kho thịt rán cá, nào biết động vật bị giết trong
lòng chẳng cam. Nhà bếp biến thành lò đồ tể: moi ruột mổ bụng, vung đao hành
hình. Bạn chiên, xào, nấu, hầm… thịt loài vật, thậm chí ăn sống nuốt tươi: cho
đó là mỹ vị cao lương, ngon bổ. Đâu biết vật chết thảm lòng đầy oán hờn, thần
thức chúng sẽ gá vào thân bạn, sớm muộn gì cũng bắt bạn đền mạng.
Thiện ác rốt cuộc đều
báo ứng
Bịnh tùng khấu nhập
chẳng đợi lâu.
Một khi nghiệp ác tạo
đầy
Bịnh sẽ hành thân vào y
viện.
Lúc đó thì bạn sẽ bị mổ ngực, rạch bụng phải nằm dưới lưỡi dao
phẫu thuật, và toàn cảnh hành hình khi xưa nơi nhà bếp sẽ tái diễn trên thân
bạn.
“Nếu sớm biết ngày nay chịu khổ, thì ban sơ chẳng nên giết vật,
ham ngon!”…
Giải thích:
Mỗi cá nhân trong đời không ít thì nhiều, ai cũng bị bịnh hành hạ
khiến mình và người nhà thân tâm thống khổ khôn xiết. Bất kể bạn nghèo hay
giàu, có quyển thế hay không, chẳng ai thoát khỏi bịnh hành hạ. Thậm chí mạng
sống từng phút giây luồn bị dày vò, lúc này kim tiền quyền thế đều không cứu
bạn nổi.
Thế thì vi sao người ta bị bịnh? Trừ chứng lão suy khiến các cơ
quan trên thân thể già yếu ra, thông thường mọi người đều cho rằng: “Bịnh từ
khẩu nhập” tức là do ăn phải thức không sạch thiếu vệ sinh mà bị bịnh.
Nếu lập luận này đúng, thì chúng ta hãy nhìn những người quanh năm
sống ngoài trời, ngủ nơi đầu đường xó chợ, mặt chẳng rửa thân thể chẳng tắm,
chuyên kiếm ăn nơi bãi rác, bất kể xuân, hạ, thu, đông… họ luôn áo chẳng đủ che
thân, bị muỗi mòng cắn chích nếu so với những kẻ được gọi là văn minh như chúng
ta (lúc nào cũng rao giảng vệ sinh, bữa ăn luôn được tuyển chọn chất bổ kỹ
lưỡng) song lại thường xuyên phải uống thuốc và đến y viện nhiều hơn.
Thế thì câu “bịnh tùng khẩu nhập” rốt cuộc có ý gì?
Vào niên đại 50, chứng viêm phổi được xem như là bịnh nặng, nhưng
khi đã có thuốc trị khỏi, thì sau đó xuất hiện chứng lao phổi, cuối cùng rồi
lao phổi cũng trị được. Thì tiếp theo lại có chứng ung bướu, Si-da, thậm chí
còn nhiều bịnh lạ đến chẳng kiếm ra tên để mà gọi nữa.
Mỗi khi có một chứng bịnh kỳ dị xuất hiện, các nhà y học trên thế
giới đều đau đầu vì không tìm ra cách giải quyết. Hơn nữa, trên báo chí cũng
loan tin có nhiều quái bịnh vô phương giải thích, đầy rẫy không cùng.
Theo thời gian khoa học ngày càng phát triển, thuốc men ngày càng
tân tiến, con người sở hữu đủ loại thuốc quý đắt tiền, nhưng thảy đều chẳng xóa
được tung tích bịnh hoạn, giống như trời xanh cố ý đối nghịch cùng nhân loại
vậy.
Hiện nay y viện khám bịnh không dễ, thu phí mắc, nhưng tìm được
thầy thuốc giỏi lại càng khó hơn.
Nguyên nhân nào khiến con người bị bịnh? Đọc kinh sách xong chúng
ta sẽ hiểu rõ thôi. Sau khi kiểm chứng vô số lần trong thực tế, thì tôi có thể
kết luận đơn giản rằng: “Tham sân si chính là cội
nguồn của bịnh”. Nói cụ thể, thì mười nghiệp ác chính là nguyên nhân phát bịnh. Vậy “bịnh tùng khẩu nhập” chính là: Đừng ăn những thứ không nên ăn, đừng thốt những lời không nên
nói Và đừng làm những việc không nên làm!
Bây giờ tôi xin kể những câu chuyện nhân quả có thật để các bạn
cùng tham khảo:
Một nữ ký giả tờ báo X nhiều lần nghe sư phụ giảng pháp, chỉ rõ
nguyên nhân bịnh cho những người đến cầu khai thị.
Một hôm, cô hỏi sư phụ: Con bệnh bao tử nhiều năm, đã chữa trị mà
không thấy kết quả, có phải do đời trước con làm điều gì xấu không?
Sư phụ hỏi: Phải chăng cô không ưa ăn da bánh bao, nên mỗi lần ăn
đều xé lột lớp da bánh vứt đi?
Ký giả kinh ngạc nói: Ôi trời ơi! Sư phụ! Đúng là có việc này. Con
từ nhỏ đã không ưa ăn da bánh bao, vậy mà cũng là tội ư?
Sư phụ cười nói: Phải biết phí phạm là tội rất lớn. Lương thực và
thức ăn trong thế giới này có sứ mệnh để cho người dùng no bụng, nhưng con vì
không ưa, thấy không hạp khẩu vị nên vứt bỏ, như vậy rất lãng phí. Phải biết
trên thế giới hiện nay còn rất nhiều người không có ăn và bị chết đói (Dân
Phi châu từng đói đến không có gì ăn, phải ăn cỏ mà không có đủ cỏ để ăn). Con
phải cảm thất xấu hổ vì điều này. Lại nữa, quốc gia nào cũng đều có
người bươi bãi rác kiếm ăn, ngay cả các nước đang phát triển cũng không ngoại
lệ. Những người đói kém này đều do đời trước đã lãng phí lương thực, chà đạp
thức ăn, nên đời nay mới bị quả báo như vậy.
Nếu đời trước ném bỏ đồ ăn, thì đời này sẽ phải đi kiếm nó về
nuốt. Vì vậy con phải tuyệt đối cẩn trọng, không nên phí phạm!
Nữ ký giả tỏ vẻ ăn năn hỏi: Con phải làm sao đây Sư phụ?
- Phải phát tâm sám hối, từ đây về sau thệ không bao giờ lãng phí
vật thực nữa thì bệnh con sẽ dần dần lành.
Nữ ký giả lại hỏi: Con cũng lạy Lương Hoàng Sám có được chăng?
Sư phụ cười hài lòng: Rất tốt!
A Di Đà Phật! Thưa Sư phụ! Chúng con là Phật giáo đồ Hoa Nghiêm
Quang từ xa đến. Cô bên cạnh con là cô A, nói tiếng Hoa không rành nên con thay
cô ấy hỏi giùm. Cô A nói mình bịnh bao tử, đã uống thuốc chữa trị nhiều mà
không thấy hiệu quả, nhưng cô không hề lãng phí thực phẩm gì. Xin Sư phụ từ bi
chỉ giáo cho ạ!
Hòa thượng nhìn cô Phật tử ở xa mới đến, rồi nói:
Con không lãng phí lương thực thì rất tốt, nhưng con lại lãng phí
giấy! Lúc con viết gì, chỉ cần cảm thấy câu ấy không vừa lòng hay chữ ghi không
đẹp là vò nát tờ giấy, quăng ngay vào sọt rác. Còn nữa, khi dùng bữa, con đã
lãng phí khăn giấy rất nhiều. Ăn một bữa cơm dùng một cái khăn giấy đủ rồi.
Nhưng con thì mỗi lần lau miệng hay tay thì mới vừa dùng một cái xong, lại thay
mới liên tục, rất lãng phí. Phải xài vật cho bằng hết, không được lãng phí. Nếu
như con biết mình sai thì nên sửa, bỏ tập quán xấu này đi thì bệnh bao tử sẽ
lành.
Cô A gật đầu tỏ ý sẽ làm theo.
Ông X thưa:
– Sư phụ, con quy y hơn ba mươi năm, chưa từng lãng phí bất cứ thứ
gi, cũng chẳng dám làm chút chi sai nhân quả, nhưng hai năm gần đây bao tử con
có cảm giác như bị kim châm. Tới bịnh viện khám, họ lại nói bao tử con tốt như
thanh niên. Chẳng biết con tạo nghiệp gì, phiền sư phụ xem giùm cho con ạ.
Hòa thượng Diệu Pháp mỉm cười bảo:
– Tôi mà mở phòng mạch chuyên trị bịnh bao tử chắc là phát… lắm
đây!
Mọi người nghe nói, đều cười ồ.
Sư phụ hỏi cư sĩ X.
– Ông mấy năm nay mỗi lần dùng bữa xong đều xài tăm xỉa răng phải
không?
– Dạ phải!
– Ông thường ra tiệm dùng cơm?
– Dạ phải!
– Dùng cơm xong thì xỉa răng, lúc đi ông còn lấy vài tăm xỉa răng
đem về?
Lão cư sĩ lộ vẻ rất kinh ngạc, nói:
– Con và anh bạn mỗi lần ra ngoài tiệm dùng cơm đều phải trả
một-hai mươi đồng, con dùng mấy cây tăm xỉa răng thì có tội gì?
– Đúng vậy! Tăm xỉa răng vốn cung cấp miễn phí cho thực khách xử
dụng. Cho dù bữa ăn ông có trả một-hai trăm đồng đi nữa, thi cũng không được
tùy tiện lấy nhiều tăm đem về nhà dùng, trừ phi viên phục vụ mời mọc, tặng cho.
Họ đã không mời mà ông tự lấy nhiều mang đi, tuy chẳng thuộc lỗi ăn cắp nhưng
phát xuất từ tâm tham. Cho dù niệm tham này rất nhỏ, nhỏ tới mức ai nhìn thấy
cũng không trách chi ông. Nhưng ông là đệ tử Phật, đã phát Bồ- đề tâm, đã thọ
giới Phật, cần phải giữ cho nghiêm. Hễ không phải của mình thì không nên lấy,
dù là cọng cỏ, ngọn cây cũng không được tham! Đạo lý nảy người tu hạnh Bồ-đề
không thể không minh bạch. Bây giờ ông đã hiểu rõ chưa?
Lúc này lão cư sĩ pháp hỷ sung mãn, cao hứng nói:
– Dạ hiểu, thưa sư phụ.
Hòa thượng Diệu Pháp nói tiếp:
Đối với người tu hạnh Bồ-đề mà nói, mỗi một cử tâm động niệm đều
rất quan trọng, ông chỉ lấy mấy cây tăm mà bao tử khó chịu, đây chính là chư
Phật Bồ-tát gia trì, ngăn lỗi ngay từ manh mún, giúp ông đời này mau tu thành
chánh quả. Đấy gọi là “trong hư không chuyển từng vi tế, trong vi trần chuyển
đại pháp luân”.
Hiểu rõ đạo lý này, ông nên quản thúc thân khẩu ý cẩn thận, bịnh
sẽ không còn nữa.
Mấy năm trước, tôi qua Mỹ thăm bạn, được dẫn đến một khu vườn chơi
nổi danh để tham quan. Tiến vào cổng lớn không xa thì thấy có một chiếc xe thổ
mộ rất sang trọng vừa đỗ lại trước mặt chúng tôi. Tôi bị màu lông trắng tuyết
của con tuấn mã thu hút. Nó rất đẹp, đầu ngẩng cao, lông trắng mướt như nhung
và cái bờm tuyệt mỹ.
Chiếc yên ngựa vàng chiếu lấp lánh dưới ánh mặt trời Ca-li tươi
đẹp càng tăng thêm phong thái uy vũ bất phàm.
Con ngựa chở du khách đi theo con đường cố định, người ta vừa tận
hưởng thú vui quý tộc, vừa tha hồ ngắm cảnh thỏa thích mê ly.
Chúng tôi không lên xe, chỉ nhìn theo con tuấn mã khỏe mạnh đang
kéo xe rời xa. Đoàn chúng tôi mãi vui chơi đến chẳng biết trời đã tối. Lúc quay
về, khi đi ra gần đến cổng lớn, thì thấy con tuấn mã vẫn còn đang phục vụ chở
khách. Nhưng lúc này thần thái nó không còn anh tuấn hiên ngang, đầu cúi rũ, lê
từng bước mệt nhọc, chứng tỏ nó rất đuối sức, hụt hơi.
Tôi nhìn bộ dạng nó, từ sáng sớm đến giờ lao động ít nhất cũng 20
tiếng, trông nó đờ đẫn mà đau lòng. Tôi lan man suy nghĩ: “Chẳng biết con ngựa
này kiếp trước nó đã tạo nghiệp gì mà đời này sinh làm tuấn mã, phải ở đây kéo
xe suốt ngày? Hôm nay đã có bao du khách ngồi cho nó kéo? Và một năm có bao
nhiêu người? Không lẽ kiếp trước nó thiếu nợ đến chừng đó người hay sao?
Sau khi trở về nước, tôi đem chuyện này thỉnh giáo Sư phụ – Hòa
thượng Diệu Pháp – Ngài bảo:
– Con ngựa đó đời quá khứ từng là một người da trắng, làm chủ hàng
trăm nô lệ da đen. Trong trang viên của ông ta có hơn trăm nô lệ làm việc. Họ
hứng chịu đủ mọi lăng nhục, hành hạ áp bức (phi nhân tính) của ông. Sau khi ông
chủ da trắng này chết đi, lập tức bị đọa vào địa ngục thọ khổ. Mãn báo ở địa
ngục, y đầu thai vào cõi thú, sinh làm con ngựa này, mang ngoại hình tuấn tú mỹ
miều, thể lực mạnh mẽ, trở thành công cụ kiếm tiền cho chủ, nếm lại cái khổ làm
nô dịch.
Cho dù những nô lệ kiếp trước bị y áp bức, bóc lột, đày ải…chỉ có
hơn trăm người, nhưng bởi vì y hung tàn và ngược đãi đám nô lệ da đen quá mức.
Đây không những là phạm tội đáng xấu hổ đối với nô dịch mà đối với hành vi phi
nhân tính (xúc phạm chà đạp con người quá đáng) thì y đã có lỗi với toàn nhân
loại. Do vậy mà ngày nay y phải chịu điều khiển, cưỡi ngồi….không được nghỉ
ngơi. Đó là quả báo mà y phải trả.
Con người do hành động lành, dữ tạo tác lâu ngày sau khi mất tâm
thức theo đó mà đầu thai.
Tội nghiệp của y sâu nặng, chẳng biết còn phải làm kiếp trâu, ngựa
hàng bao nhiêu lần nữa. Đến cuối cùng, khi y được chuyển sinh làm người, thì
phải mang thân phận bần cùng hạ tiện, khổ hết chỗ nói.
Tôi nghe xong tỉnh ra. Ai mà ngờ được con tuấn mã khả ái đáng
thương kia lại có một quá khứ không lấy gì làm vẻ vang như vậy. Tôi thầm nghĩ
nhất định phải tụng kinh Địa Tạng để hồi hướng cho con tuấn mã, giúp nó sớm
chuộc đền tội nghiệp, thoát ly biển khổ; đồng thời còn phải niệm Phật siêu độ
cho các nô dịch, xoa dịu oán khí xung thiên của họ.
Lúc này Hách cư sĩ ngồi bên cạnh tôi (bà là Hoa kiều định cư ở
Malaysia) đột nhiên hỏi:
– Thưa Sư phụ, nhà chúng con hồi ở Hương Cảng có nuôi một con chó
tên là Mi-su. Từ nhỏ nó đã bầu bạn thân thiết với chúng con. Sau khi cả nhà quy
y ăn chay rồi, con chó này nó cũng rất có tánh linh, không lâu sau nó cũng bỏ
thịt ăn chay theo, khiến cả nhà con đều hết sức vui mừng.
Khi gia đình chúng con dời đến Malaysia rồi thì hai năm sau Mi-su
chết. Chúng con rất buồn, mẹ con có đến chùa lập bài vị cầu siêu cho nó, còn tổ
chức pháp sự chúc phúc cho nó. Chẳng biết bây giờ nó đã tái sinh được vào cõi
thiện lành chưa? Mong Sư phụ từ bi quán sát giúp dùm chúng con.
Trầm ngâm một lúc, Sư phụ mỉm cười đáp:
– Con chó này nhờ đời trước ở nhà người nghe kinh ăn chay, chết
rồi lại được các người tụng kinh cầu siêu cho nữa, nên nó đã được chuyển sinh
làm người rồi. Hiện giờ cũng đang ở Malaysia, là một cô gái mười bảy tuổi rất
xinh đẹp!
Nghe Hòa thượng nói xong, Hách cư sĩ im lặng bấm đốt tay, rồi kinh
ngạc lẫn vui mừng, la lên:
– Sư phụ, Ngài thật hay quá! Mi-su nhà con chết tính đến nay đã
đúng 17 năm. Xin Ngài hãy cho con biết cô gái ấy hiện giờ ở đâu và tên gì? Con
rất muốn gặp cô!
Sư phụ và mọi người tại hiện trường đều cười. Tôi hỏi Hách cư sĩ:
– Nếu tìm gặp được cô thì bà sẽ nói gì? Không lẽ bà nói: “Em ơi,
trước đây em là con chó nhà chúng tôi nuôi ư?”. Cô ấy không đánh bà mới lạ đó!
Hách cư sĩ cũng bật cười vì sự vô ý nông nổi của mình. Sư phụ hiền
hòa nói:
– Có duyên thì sẽ gặp nhau. Rồi sẽ có một ngày nó cùng với gia
đình bà hội ngộ. Vừa gặp, đôi bên tự nhiên sẽ cảm thấy rất là thân thiết và nó
sẽ báo đáp gấp bội. Lời xưa nói: “Bách niên tu đắc đồng thuyền độ (Tu trăm năm
mới được đồng thuyền). Cho nên chúng ta hôm nay được đồng sự, đồng quê hương,
có bạn bè, thân quyến…..(thậm chí còn bao gồm luôn cả cừu nhân…) đồng tụ hội,
thì xem như là đã có duyên từ nhiều kiếp.
Vì vậy, chúng ta phải kết thiện duyên cho rộng, gắng sức giải trừ
ác duyên, cùng chung sống hài hòa, bảo tồn thiện khí, chung tay xây dựng một
cõi cát tường.
Sư phụ từ bi như thế đó, Ngài khéo nhìn căn cơ mà giáo hóa. Lần
bái thăm này khiến tôi đã thu được lợi ích rất lớn.
Gieo nhân thiện chắc chắn nhận quả thiện, gieo nhân ác nhất định
sẽ gặt ác báo. Làm sao có thể mất đi được. Cho dù vạn kiếp sau, hạt nhân thiện
hay ác đã gieo rồi thì khi đầy đủ nhân duyên quả báo sẽ hiện tiền. Xin hãy cẩn
trọng!
Có một nữ cư sĩ hơn 60 tuổi đến bái kiến Hòa thượng, kể là bản
thân mình mấy mươi năm nay luôn cảm thấy khó thở nơi ngực, nhưng đi bịnh viện
khám vẫn không ra bịnh. Bà uống thuốc đồng tây y đủ hết nhưng không hiệu quả,
khẳng định là trị không hết. Nghe sư phụ giảng Phật pháp, bà rất tin. Xin sư
phụ quán sát giùm xem bản thân bà đã tạo nghiệp chi mà bị bịnh này?
Hòa thượng Diệu Pháp hỏi:
– Bà ngày trước ở nông thôn à?
– Dạ con vốn ở quê, sau này mới theo chồng chuyển lên thành phố.
Lúc bà còn ở dưới quê, trên mái nhà bếp có một tổ chim yến, bị bà
chọt rớt phải không?
– Dạ phải. Tổ yến làm ở phía trên, rất dơ bẩn. Vì vậy con mới dùng
cây chọt rớt xuống.
– Sau đó thế nào?
– Chim yến về thấy tổ biến mất, buồn rầu bay lên bay xuống quanh
gian bếp, rồi lượn vòng vòng trước nhà kêu than rất lâu, sau đó không biết nó
đi đâu.
Hòa thượng Diệu Pháp khai thị:
– Tất nhiên bà có thể dùng biện pháp ổn thỏa, thích hợp hơn để dời
tổ yến, nhưng bà lại hành động thỏ bạo khiến chúng mất đi trú xứ, không nhà có
thể về. Phật giáo luôn nói: “chúng sinh bình đẳng”, vì tính linh và tinh cảm
loài vật không khác người. Hiện nay chẳng phải xã hội cũng đang đề xướng người
và thiên nhiên sống chung hài hòa hay sao? Hành vi làm tim sinh linh đau đớn
cũng là một trong các nguyên nhân khiến bà ngạt thở.
Nữ cư sĩ như bừng tính, gật gù nói phải. Sư phụ lại hỏi:
– Bà là người rất tiết kiệm, biết quý tiếc tài vật hễ đi trên
đường mà gặp phế phẩm người khác ném bỏ thì lượm đem về tích trữ dồn cất cho
nhiều rồi đem bán ve chai lấy tiền, có việc này chăng?
Nữ cư sĩ hỏi ngược lại:
– Con không hề trộm, đoạt của ai, chỉ lượm chút phế phẩm bán để
kiếm thêm ít tiền, vậy mà… cũng có tội hay sao?
– Ta không nói -“có tội!” – Chiếu theo gia cảnh nhà bà, đời sống
rất sung túc. Lẽ ra bà nên nhường những phế phẩm đó cho người bần cùng khốn khổ
hơn lượm. Vì gia cảnh bà đã rất khấm khá mà còn đi làm vậy, đó là tâm tham.
Người học Phật nên từ bi hỉ xả, phải nhớ điều này. Ta không hề kết tội mà chỉ
khuyên bà hãy nhường cho kẻ nghèo, bà có hiểu ý ta nói chăng?
Nữ cư sĩ có vẻ xấu hổ đáp:
– Sư phụ nói rất đúng, con chỉ nghĩ đơn giản rằng “vật người khác
ném bỏ, thì minh nhặt bán lấy tiền, không lượm là uổng phí, con chẳng nghĩ sâu
xa như ngài. Từ nay con quyết không lượm nữa.
Hòa thượng mỉm cười:
– Lỗi bà phạm tuy nhỏ, nhưng làm chướng ngại sự tu hành thanh
tịnh, vì vậy mà hô hấp chẳng thông. Hiện giờ bà cảm thấy tốt hơn chưa?
Nữ cư sĩ hiểu ra, có vẻ ngạc nhiên và vui mừng nói:
– Ôi chao, con thực đã khỏe nhiều rồi. Toàn thân đều thoải mái,
hít thở dễ dàng lắm ạ.
Năm ngoái, Cung tiên sinh cùng vợ đồng đến bái kiến Hòa thượng
Diệu Pháp. Vừa gặp đã thấy má bên phải của ông bị bỏng đỏ. Tiên sinh khoảng hơn
40 tuổi, mày rậm mắt to, môi dày, tính cách ông khiến người đối diện có cảm
giác ông rất chân chất trung thực. Thế nhưng tinh thần ông ngó bộ không được
tốt lắm.
Vợ ông kể một buổi tối cách đây nửa năm, ông đang trên đường về
nhà thì bị một người tạt acid vào mặt. Lúc đó đèn đường tối om nên không nhìn
rõ mặt hung thủ. Bởi vì chồng bà là nhân viên chấp pháp, biện sự nghiêm túc, có
khả năng ông đã đắc tội với ai đó nên bị báo thù. Chính phủ thành phố rất xem
trọng vụ án này, nhưng đến nay vẫn chưa điều tra ra hung thủ. Chồng bà trong
lòng rất phiền bực, uất ức, luôn có ý muốn báo thù. Đêm ngủ không yên, dù có
chợp mắt cũng chỉ nghỉ được một chút. Bà sợ tinh thần chồng có vấn đề, nên đến
thỉnh giáo Hòa thượng.
Hòa thượng bảo Cung tiên sinh:
– Việc này có liên quan đến chuyện sát sinh ăn thịt của ông. Công
tác chấp pháp chỉ là một trong nhiều nguyên nhân, chẳng nên ôm hận người thủ
ác. Tinh thần ông không có vấn đe gì, mặt ông sau khi hồi phục sẽ không lưu lại
sẹo. Còn nữa, muốn được lành nhanh và từ nay về sau không còn gặp họa này nữa
thi ông phải sớm dứt trừ ăn mặn và thường niệm: “Nam mô Quan Thế Âm Bồ-tát”
Ngoài mặt thấy ông đồng ý vâng chịu, nhưng ngó bộ tâm tư đang cố
kềm chế lắm. Sư phụ xin ông lưu lại họ tên và số điện thoại.
Sau khi hai vị khách này về rồi, sư phụ bảo tôi:
– Bởi vì vợ ông ở đó, có vài việc ta không tiện nói. Ông ấy vốn
chẳng tin Phật, mà chuyện nhân quả đời trước ông cũng không tin. Sáng mai con
hãy gọi điện cho Cung tiên sinh, bảo nếu ông thường được người mời đi ăn tiệm
dùng hải sản tươi sống thì không nên đi. Do làm việc ở pháp đình nên ông được
người khẩn khoản đãi đằng, mời ăn uống luôn; không biết như vậy là bản thân
mình đang tạo nghiệp. Nếu ông cứ mãi ăn nhậu sát sinh, thì sẽ góp phần tăng
thêm quả báo bị bỏng…
Rồi sư phụ kể cho tôi nghe:
“Cung tiên sinh đời trước là một phú ông, có tâm từ bi, thương xót
người nghèo. Nhờ thường hay bố thí nên đời này không vất vả về ăn mặc. Ông có
phúc báu, tuy tốt bụng song làm thiện ác lẫn lộn. Bởi ông giàu nên tâm cũng
sinh kiêu ngạo, tự cao tự phụ, vì vậy mà đối với tôi tớ không tôn trọng họ,
thương hay sỉ nhục người.
Ngày nọ ông đang chăm chú đọc sách thì có một tớ gái cần hỏi gì đó
nên bước vào đến gần phú ông, rồi nó thình lình lên tiếng làm chủ nhân giật
mình, thế là ông nổi cơn thịnh nộ, hung hãn cầm ngay chén trà nóng trên bàn hắt
vào mặt tớ gái. Nữ tỳ không biết mình phạm lỗi gì, đau đớn sợ run, ôm mặt bật
khóc chạy ra ngoài. Đây là nguyên nhân khiến đời này ông bị người dùng acid tạt
vào mặt nhưng chẳng thể hủy dung nhan. Người gây ác này, có thể là nữ tỳ đời
trước đấy”.
Tôi nghe sư phụ khai thị, trong lòng thấy cảm khái. Trong “Kinh
Địa Tạng” giảng: “Chúng sinh ở thế giới này cử tâm động niệm không gì mà không tạo
nghiệp, không gì mà không là tội”. Một chút hành động không đúng phép,
dù trải qua trăm ngàn kiếp, nghiệp tạo vẫn không mất, nhân duyên hội ngộ thì tự
thọ quả báo.
Mỗi một Phật tử chúng ta, cần phải cẩn trọng ngôn hạnh, sửa mình
liêm chính, ngay lúc khởi tâm động niệm cũng phải thường dụng công, để tránh
khỏi bị ác báo. Nếu không, một khi quả tới, có hối hận thì đã muộn.
Diễn tiến tiếp theo tôi chẳng cần viết ra dài dòng chi nữa. Hòa
thượng Diệu Pháp xưa nay chưa bao giờ nói sai việc gì. Chỉ biết rằng sau đó
Cung tiên sinh đã bước vào con đường học Phật, tu tinh tấn.
Tại một ngôi chùa ở Tây An, có một phụ nữ khoảng 50 tuổi đang
hướng Hòa thượng Diệu Pháp kể lể những uẩn khúc của bà.
Vợ chồng bà sớm đã li dị, nhưng đứa con gái do bà trăm cay ngàn
đắng dưỡng nuôi khôn lớn (hiện là sinh viên Viện Nghiên Cứu Đại Học Bắc Kinh),
từ sinh ra đến giờ tâm tính hành vi nó rất kỳ khôi, luôn thích kình chống mẹ.
Hễ bảo nó đi Đông thì nó rảo Tây. Thí như nó ưa ăn cơm rau xào, bà liền làm
thật ngon cho nó ăn, rõ ràng là nó đang thưởng thức say mê, vậy mà cứ làm ra bộ
chẳng thích, leo lẻo nói mình ưa thứ khác và trách mẹ không chìu theo.
Hôm sau, bà làm đúng thứ nó yêu cầu, thì nó lại nói mình “ưa món
khác, chẳng phải thứ này”… nghe mà phát tức vậy đó!
Nhưng ở bên ngoài, ai cũng khen nó là một cô gái rất biết điều và
năm nào cũng được bầu chọn là học sinh giỏi nhất của trường. Mặc dù nhờ ảnh
hưởng mẹ, nó cũng tin Phật, nhưng thái độ cư xử vẫn không thay đổi. Hễ bà nói
“niệm Phật tốt” thì nó nghiêng qua tham Thiền, dù lúc tĩnh tọa thấy rõ ràng nó
niệm Phật…
- Thưa sư phụ, ngài nói xem, có phải là nó nghịch duyên với con
không, có phải nó đến đòi nợ con không?
Hòa thượng bảo: Lúc mang thai cháu được sáu tháng, bà thường nổi
giận, bà đã gây cãi với chồng mấy lần?
Bà nghĩ ngợi một lúc rồi đáp: Dạ có, con gây với ông xã hai lần.
– Chồng bà ngày xưa một bề yêu thương bà, phải không?
– Dạ đúng ạ!
– Chồng bà mỗi khi gây, giận, lòng rất oán trách bà, vì mỗi lần
gây dù bà biết mình sai, song vẫn cố cãi bướng. Sau đó bà làm mất đi lòng yêu
thương chồng dành cho bà, cũng khiến ông mất lòng tin về cuộc sống chung. Khi chồng
bà đề nghị ly hôn, bà tuy trong lòng rất không muốn, nhưng ngoài miệng cứ oang
oang nói lời trái ngược, còn hùng hổ tuyên bố:
– Ly thì ly…! ông cút xéo ngay cho tôi!
Từ hồi ly dị đến giờ bà không tái hôn, là bởi vì hối hận và hoài
niệm… đúng không?
Đột nhiên bà bật khóc tức tưởi nghẹn ngào. Lệ tuôn ràn rụa…
Hòa thượng nói tiếp:
– Lúc bà gây cãi với chồng, thai nhi trong bụng cũng khởi niệm tức
giận bà. Cơn phẫn nộ của bà cũng làm thương tổn đến gan tạng con bé. Bà có lỗi
nhưng không chịu nhận mình sai, dẫn tới vợ chồng phải ly dị khiến cháu bị mất
mát tình thương của cha (mà nó chủ yếu là vì cha mà đến) đầu thai làm con gái
hai người, nên tận trong sâu thẳm của ý thức, nó đã có sẵn niềm oán hận bà.
Thực ra, nội tâm bà đã thầm sám hối lỗi xưa với chồng, chỉ là
không chịu công khai nói ra thôi. Có một cách giúp bà chuộc lỗi (mà không làm
ảnh hưởng đến cuộc sống gia đình hiện tại của ông), để ông biết bà đã ăn năn,
thì hãy dùng tâm sám hối đó đối diện với con gái. Chính do sai trái của bà
khiến đời này nó bị mất đi tình phụ tử. Khi ở nhà bà hãy chí thành tụng, lễ ba
bộ “Lương Hoàng Sám”. Dưới sự gia trì của Phật, thái độ con gái đối với bà sẽ
thay đổi, nó sẽ thành một đứa con hiếu thuận.
Có một nữ cư sĩ khoảng hơn 60, mới nhập Phật môn, bà và chồng
hướng Hòa thượng thỉnh giáo. Con trai bà hiện nay 41 tuổi, mấy năm trước đầu nó
bịnh nấm da trâu, bây giờ đã lên đến não, khắp hai tay, ngón, móng gì cũng bị
ráo. Bịnh chuyển lây lan dày mịt, đã chữa chạy khắp nơi mà vẫn vô hiệu, xin Hòa
thượng từ bi khai thị.
Hòa thượng hỏi: Trước khi sinh thằng bé nửa tháng, bà có vì tiền
bạc mà nổi giận không?
– Dạ không!
Hòa thượng nói: Việc này xảy ra lúc đang mang thai, bà thường bị
ám ảnh và nghĩ đến luôn mà? Hãy tự kiểm thật kỹ lại xem!
Một lát sau, cả hai vợ chồng hầu như đồng thanh nói:
– Dạ đúng, quả có việc này ạ!
Bà kể đó là vào năm 1960, do thiên tai, nên thực phẩm bị khan
hiếm. Ngay cả mua cải muối cũng bị cân đong, hạn chế. Lúc thai nhi hơn 7 tháng,
bà được quyền mua thực phẩm phụ.
– Con nhớ khi đó mình chưa mua cải muối, nhưng nhân viên ở “Hợp
tác xã” lại nhất quyết bảo là: “Mua rồi!”. Con bèn lật sổ ra xem thì thấy đúng
là có ghi mấy chữ: “Đã mua” nên nghĩ thầm: “Đây nhất định là mẹ chồng mình đã lén
mua để viện trợ cho con gái bà ở Hắc Long Giang chứ không ai khác”…
Con về nhà tra hỏi, quả nhiên đúng y như vậy. Thế là con nổi “tam
bành” cãi với mẹ chồng một trận dữ dội, con còn nhớ lúc đó ông xã vì binh mẹ,
đã tặng cho con một đạp!…
Bà vợ kể lại, tuy ráng mỉm cười nhưng nước mắt lưng tròng, sụt sịt
nói:
– Chút chuyện nhỏ này đến nay đã 41 năm nên con quên béng. Ngài và
chúng con mới gặp nhau lần đầu, vậy mả có thể “khui” ra hết, ngài nhất định là
Bồ-tát a!
Hòa thượng dịu dàng bảo bà:
– Thai nhi trong bụng đối với vui, buồn, mừng, giận của mẹ đều cảm
nhận được hết, chỉ lả nó không thể biểu hiện cùng ngoại giới thôi. Bà thịnh nộ
với mẹ chồng không những làm trái kỷ cương luân thường, mà còn tự hại bản thân,
lại khiến thần kinh não đứa con trong bụng tổn thương, đây chính là nguyên nhân
no mắc bịnh hiện nay. (Đương nhiên cũng do tội sát sinh ăn thịt của riêng bản
thân nó nữa).
Cả nhà bà cần phải dứt trừ ăn mặn và cùng sám hối mới có thể tiêu
tội nghiệp. Gia đình bà có thể tụng “Kinh Địa Tạng” chăng?
– Dạ được, nhưng không thông thạo lắm.
– Mỗi ngày nên tụng một bộ “Kinh Địa Tạng” cho đến khi bịnh con bà
hoàn toàn hồi phục.
Trai cưới vợ, gái lấy chồng
Là do duyên ác hoặc duyên thiện!
Không duyên thì chẳng gặp!
Sinh con trai hay gái
Là đòi nợ hay trả nợ mà tìm đến
Không nợ chẳng đến lầm chi!
Mùa hạ năm 1994, có một nam cư sĩ hơn 50 tuổi đến ngôi chùa nọ,
hướng Hòa thượng Diệu Pháp thổ lộ nỗi khổ sầu của mình.
Ông kể trước đây tình cảm mình và bà xã rất tốt. Nhưng từ lúc
sinh đứa con thứ nhất thì tính khí bà vợ bắt đầu nóng nảy thất thường, hay kiếm
chuyện gây gỗ làm khó, thường cãi lẫy ầm ĩ, có lúc còn đánh, cào cấu… làm ông
bị thương khắp mình mẩy, mặt mày. Trong lòng ông dù rất tức giận, nhưng thuở
giờ chưa từng đánh trả lại, giống như không hề có tâm giận oán chi bà.
Sau đó bà sinh tiếp đứa thứ hai, diễn tiến càng phức tạp, thê
thảm, tới độ ông không thể bước vào nhà, vì luôn xảy ra cảnh xung đột ầm náo
như trời nghiêng đất lở.
Bất đắc dĩ ông phải xin nghỉ hưu sớm. Trước đây quá phiền não, ông
đã quy y Phật môn, nghỉ hưu ròi thì dọn đến chùa ở. Do lương hưu ít, trừ giữ
tiền ăn ra, còn lại ông đều đưa hết cho bà để nuôi dưỡng hai con ăn học. Nhưng
số tiền lương ít ỏi càng khiến bà nổi cáu hung tợn hơn. Hiện tại ông đang mang
bịnh mà phải tự lo một mình, nhưng chẳng dám đi bịnh viện, vì không có tiền.
– Con cảm thấy thế giới này quá khổ, xin Hòa thượng từ bi chỉ giúp
cho con đường sáng – Ông khẩn thiết nói.
Sư phụ im lặng lắng nghe rồi lên tiếng:
– Kiếp trước ông sổng bằng nghề buôn heo. Ông đem heo nái nhà mình
đi phối giống, hễ sinh lứa heo con nào thi bán lấy tiền. Từng lứa heo sinh ra
đều bị ông bán hết, khiến con heo mẹ nếm đủ nỗi khổ mang thai, luôn sinh sản và
đau nhói lòng trong từng đợt vĩnh biệt con. Phải biết động vật và người đều có
tình cảm giống nhau. Lúc đó heo mẹ đã ghim hận ôm lòng oán ông tận cùng, thêm
nôi đến khi nó hết sinh sản được thì bị ông bán vào lò mổ.
Thử nghĩ xem, con cái nó tất cả đều bị ông bán lấy tiền, phút lâm
chung lại bị giết đau đớn thê thảm, nó có dễ dàng bỏ qua tội này cho ông chăng?
Vi vậy mà đời nay nó đã tìm đến, cùng sống chung bên nhau để báo oán.
Vị cư sĩ lắng nghe chăm chú, tỏ vẻ hưng phấn, nói:
– Con phải làm sao để hóa giải mối oan cừu này? Vậy con xuất gia
hẳn có được không?
– Xuất gia ư? ông không làm nổi! (Vì quá quyến luyến, quá yêu các
con)… Chỉ cần vài ngày không gặp chúng là ông ăn không ngon, ngủ không yên,
phải vậy không?
– Dạ đúng thế, thưa sư phụ.
– Mà con ông lại quan hệ thắm thiết với mẹ, nên dù có xuất gia thì
ông cũng chạy về nhà thôi, lúc đó cảnh ngộ của ông sẽ còn thảm hơn hiện giờ.
– Thế… con phải làm sao?
Hòa thượng cười cười bảo:
– Có thực ông muốn hóa giải oán cừu chăng?
– Đương nhiên, xin sư phụ chỉ giúp cho.
Thế ông hãy dùng tâm vui vẻ mà đối diện, chắp nhận hết. Dù bị đòn
cũng không đánh trả, bị chửi vẫn không mắng lại… Khi về nhà dù gặp cảnh nghịch
hay thuận đến, thì ông hãy bình thản đón nhận, cam tâm tinh nguyện vì bọn họ
phụng hiến, chân thành sám hối lỗi xưa, hầu hóa giải tội lớn đầy trời.
Ngoài ra hằng ngày ông phải kiên trì tụng niệm sớm tối, mỗi ngày
tụng một bộ “Kinh Địa Tạng” hồi hướng cho “heo mẹ và các lứa heo con kiếp xưa
từng bị ông bán đi”. Ngoài việc phụ giúp lo liệu việc nhà ra, ông phải dốc sức
tụng kinh bái sám, làm được vậy thi cũng giống như xuất gia. ông có đủ lòng tin
chăng?
– Dạ có!
– Vậy thi tốt! Kiên trì thực hành như thế bền lâu, ông sẽ giải
được hận oán.
Ký Văn Đông, hơn 40 tuổi, thân mặc hiếu tang, mắt đầm đìa lệ, quỳ
trước ngôi mộ mới đắp của thím Trương láng giềng, lâu thật lâu vẫn chưa chịu
rời xa.
Người đàn ông này vóc dáng cao lớn, tướng mạo đường đường, nhưng
lại có thời thơ ấu rất thảm. Nếu như không nhờ thím Trương quan tâm giúp đỡ,
thì có lẽ anh đã không còn trên trần thế. Tuy không phải thân nhân nhưng thím
Trương đối tốt còn hơn thân nhân.
Lúc Văn Đông 5 tuổi thì cha mẹ anh trong một năm đã lần lượt qua
đời. Cha Văn Đông trước phút lâm chung, mắt đầy lệ gởi gắm con trai lại cho anh
cả và chị dâu mình. Ký thác toàn bộ gia tài của ông: gồm nhà cửa khang trang,
số tiền rất lớn và mớ vàng bạc trang sức (tài sản hồi môn của mẹ Văn Đông). Xem
như tất cả đều giao hết cho vợ chồng người anh, cậy nhờ họ quản lý thay cho bé
Văn Đông.
Lúc đó anh cả và chị dâu ông chỉ trời đắt thề thốt đủ điều, họ nói
với người sắp mất thế này: – Chúng ta đều là người một nhà! Con em thì cũng như
con anh chị. Dù em không để lại tài sản, chẳng có lấy một xu thì anh chị đây
cũng nguyện cưu mang, nuối cháu đến lớn khôn…
Cha Văn Đông nghe những lời tràn đầy nghĩa tinh này, sung sướng mỉm
cười, an lòng nhắm mắt ra đi. Khi đó cũng có cán bộ trong thôn và láng giềng
đồng chứng kiến, ai nấy đều cảm động rơi nước mắt.
Xong tang lễ được mấy ngày, thím Trương láng giềng bỗng nghe Văn
Đông bị đánh đập khóc to. Hơn nữa cứ cách năm-ba ngày thì nghe hai bác đánh
cháu, chửi mắng om sòm, âm vang nghe rõ mồn một.
Thím Trương tốt bụng đã nhiều lần can gián, nhưng chuyện vẫn xảy
ra như cũ. Sau đó thím phát hiện bé Đông rất ít ra ngoài chơi, thỉnh thoảng nó
đứng nơi cửa, nhưng chẳng hề thấy nó cười. Thím Trương bèn đến gần, hỏi han mấy
câu, thì thằng bé lộ vẻ sợ hãi không dám nói gì.
Thím Trương thấy Văn Đông ốm đi rất nhiều, hơn nữa mặt mày thân
thể đầy vết thương. Thấy thế thím Trương không cầm được nước mắt.
Dần dà láng giềng, hương thôn ai cũng biết chuyện. Nhưng khi làng
xã chất vấn, thì hai vợ chồng nọ hung hăng nói là tại Văn Đông lì bướng không
ngoan. Bọn họ nhận lời ba thằng bé ủy thác thi có quyền quản giáo, cũng chẳng
làm gì hại nó. Họ còn trách ngược lại, mắng đám người ngoài lo chuyện không đâu,
nào có máu mủ chi mà nhúng mũi vào chuyện gia đình họ? Do mọi người không bắt
được tại trận chuyện ngược đãi cháu của hai bác Văn Đông, vả lại người ngoài
chẳng có quyền can thiệp chuyện nội bộ của họ, dù rất bất bình, nhưng chẳng ai
giúp chi được.
Một năm, rồi một năm trôi qua, thằng bé dần dần trưởng đại. Thím
Trương nhiều lần thừa lúc hai bác Văn Đông đi vắng, lén đút nhét, chăm bón cho
thằng bé, khi miếng bánh, lúc viên kẹo hoặc thứ gì đó… Nhìn thằng bé ăn ngấu
nghiến, thím mỉm cười an ủi nó.
Văn Đông dù đã lớn nhưng vẫn phải mặc bộ y phục cũ rách từ hai năm
trước. Xuân, hạ, thu… cứ dần qua. Tới mùa đông thím Trương thấy thằng bé mặc đồ
mỏng manh rách rưới ló cả tay chân, nhìn nó co ro đưa tay ôm vai, run rẩy vì
lạnh, bà rơi nước mắt quay về nhà tìm y phục cũ của con mình, giặt sạch sẽ, may
thêm lớp bông độn bên trong, rồi ngay tối đó đem sang nhà hai bác Văn Đông nói
là áo bông con mình chê không dùng nên để cho Văn Đông mặc. Nói xong bà tự tay
mặc vào cho thằng bé. Trước khi Văn Đông thành nhân, thím còn may cho nó ba bộ
áo bông, không lúc nào mà không tiếp tế ẩm thực, có lúc còn dúi cho nó ít đồng
lẻ.
Cuối cùng Ký Văn Đông cũng trưởng đại, thành tài, có nghề nghiệp
ổn định, được nhiều cô gái để ý.
Khi Văn Đông đến tuổi kết hôn, anh xin hai bác cho mình ra riêng
tự lập. Hai bác dù không muốn, nhưng vì cháu đã lớn,họ sợ lời bình phẩm của
láng giềng, bất đắc dĩ phải chìu theo. Nhưng họ viện cớ gia cảnh khó khăn, chỉ
cấp cho Văn Đông một ngôi nhà dột nát cũ kỹ, trống trơn không có gì, bởi toàn
bộ đồ đạc họ đã dọn đi hết.
Hai người bác này có sáu người con, họ xảy nhà mới khang trang cho
hai con trai khi chúng thành thân. Phần Văn Đông, đối với sự ngược đãi của bác,
không hề nói một lời than oán. Mỗi khi người trong thôn bất bình, đốc xúi anh
đi kiện quan, thì anh nói:
– Bác cả nuôi tôi khôn lớn cũng chẳng dễ dàng gì, nếu không nhờ
bác cưu mang, thì tôi cũng chẳng sống đến hôm nay. Tiền bạc vật chất thường
khiến người ta tranh giành. Nhưng có câu rằng: “Trai tốt chẳng tranh điền
trang, gái tốt chẳng tranh đồ cưới” hay sao? Nếu như không học hành, không có
nghề nghiệp ổn định thì dù sở hữu nhiều tài sản đến đâu, cũng không giữ được
lâu.
Tôi nhất định học tập, trau giồi kỹ thuật nghề nghiệp thật tốt để
làm việc phục vụ hương thôn mình, cho xứng đáng với sự quan tâm yêu thương của
dân làng, không phụ ân nuôi dưỡng của hai bác…
Dân làng rất quý phục tính nhân hậu thực thà của Văn Đông, ở hiền
gặp lành! – Giờ đây anh đã là chủ một xí nghiệp trong thôn, hiện có một con
đang theo học tại đại học thành phố. Tiểu gia đình của anh sống rất êm ấm hạnh
phúc.
Ta hãy nhìn xem hai người bác bội tín vong nghĩa, làm trái lời thề
bị báo ứng ra sao? Họ có sáu con: gồm bốn gái hai trai.
Con gái đầu của họ 29 tuổi thì bị bịnh sỏi thận chết, con trai cả
29 tuổi cũng bị sỏi thận, không bao lâu thì chết. Con gái út 29 tuổi cũng vướng
bịnh bất trị hệt anh chị mình mà tử vong, khiến ba mẹ chúng tâm kinh thịt run,
ngày đêm bất an. Sáu đứa con đã chết mất ba người, sau này còn xảy ra chuyện gì
nữa đây?
Không bao lâu con trai út của họ kết bè lập đảng đi cướp bóc, gây
cãi đánh lộn, bị phán mười năm tù. Ngày y bị tuyên án, mẹ y bị xuất huyết não,
từ đó nằm liệt giường, nhận chịu bao cư xử ghẻ lạnh, mắng chửi của con cái. Do
bà không khống chế được đại tiểu tiện, thường trây dính mền chăn, có lúc nằm đó
suốt ngày không ai lý tới. Bà cứ sống cảnh như vậy hơn ba năm rồi chết trong bi
ai.
Lúc bà chưa chết, thì chồng bà cũng vướng phải chứng si ngốc lú
lẫn. Bà chết được nửa năm, thì một hôm ông đi đường không cẩn thận vấp té, đầu
đập xuống đất và từ đó ông ra đi vĩnh viễn.
Láng giềng kể tôi nghe câu chuyện này xong thì hỏi:
– Đây có phải là nhân quả báo ứng không?
Và chẳng đợi tôi đáp, họ tự nói:
– Ở quê chúng tôi ai cũng bảo đây là trời già trừng phạt cặp
vợ chồng bội tín bất nghĩa.
Tôi nói: – Giống như làm mùa vậy. “Trồng gì thu hoạch đó”, đây là
quy luật tự nhiên. Trước khi Phật đến nhân gian giảng pháp thì luật nhân quả đã
tồn tại sẵn trong thiên nhiên Phàm phu không hiểu, nên cứ trồi hụp trong biển
khổ sinh tử, không chịu thoát ly.
Chư Phật Bồ-tát từ bi, thừa nguyện trở lại nhân gian, giảng thuyết
chân tướng vũ trụ và chỉ cho chúng ta phương pháp xuất ly khổ hải. Chúng ta
nhất định phải nắm ngay cơ hội được mang thân người này, y pháp tu hành, sớm
chứng Bồ-đề mới là con đường chân chánh trong nhân gian.
Một buổi chiều năm 1993, có người nhấn chuông cổng, tôi ra mở cửa
thì gặp một phụ nữ độ ngoài 50, phía sau bà còn có hai cô gái khoảng hai mươi
mấy tuổi (đang khiêng một bao gạo to).
Tôi hỏi bà tìm ai, bà nói tìm tôi. Nhưng tôi không quen bà (mà bà
đối với tôi ra vẻ rất quen). Bà ngoái đầu kêu con gái vào nhà, không đợi tôi
mời, đã tự đóng cổng rồi tiến vào phòng khách, sau đó bảo hai con thả bao gạo
xuống để cùng theo bà bái Phật. Họ lễ xong, tôi vẫn chưa nhận ra bà là ai.
Bà cười nói:
– Một năm trước tôi có tới nhà tôn huynh, tôi là bà hàng trứng rán
nè.
Tôi nghe qua thì sực nhớ, liền nói:
– Ôi, xin lỗi, tôi nhất thời không nhận ra, xin mời ngồi! Lưng bà
khỏe hẳn chưa?
– Dạ khỏe rồi. Hôm nay tôi cho hai con khiêng bao gạo này đến để
cảm tạ… Tôi biết tôn huynh xưa nay không nhận quà, nhưng hôm nay tôn huynh nhất
định phải nhận bao gạo này. Vì nhờ tôn huynh và vị sư phụ kia mà tôi mới sống
còn đến ngày hôm nay…
Nghe bà nói, dòng tư tưởng tôi trôi về quá khứ…
“Năm ngoái, một cư sĩ quen đã dẫn bà tới nhà tôi. Chồng bà bị
chứng “thoát đĩa đệm cột sống”, phải nằm trên giường 6 năm. Tuy bà ân cần chăm
sóc, nhưng cuối cùng ông vẫn không thể đứng dậy và đã qua đời nửa năm trước.
Ngờ đâu, bà cũng mắc chứng bịnh giống vậy. Nghĩ đến chồng mình bị
bịnh hành, tiêu tốn rất nhiều tiền mà không giữ được mạng, bà nghĩ thầm: “Chi
bằng mình chết sớm tốt hơn, khỏi làm lụy đến hai con!”… Vì vậy mà bà không thèm
đi khám bịnh, cũng chẳng uống thuốc chi.
Con gái biết được ý mẹ, vạn phần lo lắng, bèn đến chùa Quan Âm cầu
Phật gia hộ. May gặp một cư sĩ tốt bụng (trước đây ông là láng giềng của họ),
sau khi biết chuyện rồi, ông rất cảm thông, sẵn dịp nghe tin Hòa thượng Diệu
Pháp vừa đến nhà tôi, ông bèn dắt bà tới, cầu sư phụ chỉ cho con đường sống.
Hòa thượng lắng nghe bà kể rõ bịnh tình rồi, liền hỏi:
– Nghề bà mưu sinh có liên hệ đến trứng gà?
Bà có vẻ kinh ngạc, nói:
– Con sống bằng nghề bán bánh trứng rán, một ngày tối đa tráng
mười mấy cân trứng. Có phải vụ này liên hệ tới bịnh của con?
– Bà làm vậy không phải đề kiếm tiền sao?
– Dạ, con nương vào sức lao động chân chính để kiếm tiền, mong
ngài chỉ giùm nguyên nhân bị bịnh…
– Bà đừng trách tôi nói thẳng nhé. Một cân khoảng 11-12 trứng gà,
bà tính mỗi cân chỉ có 7-8 trứng, còn bán trứng gà nhỏ cao bằng giá trứng gà
lớn và kiếm lời trong chỗ cân thiếu này, phải thế chăng?
Bà đáp:
– Dạ, ai cũng làm vậy, để kiếm chút tiền mà. Trên thực tế, đâu
phải là khách không biết, nhưng lúc mua chẳng ai để tâm so đo…
– Nói theo Phật pháp thì bà làm vậy là tham, là dối lừa. Bà bán
hàng, cân thiếu vì mong có thêm chút tiền. Nhưng “giọt nước lâu ngày xuyên
thủng đá, tích ác nhỏ sẽ thành họa lớn”, đây là nguyên nhân căn bịnh của bà.
– Thế chồng tôi không liên can việc này, vì sao cũng bịnh giống
vậy?
Sư phụ nhẫn nại giải thích:
– Bị giống một chứng bịnh không có nghĩa là đồng một nguyên nhân!
Ví như bịnh cảm sốt – đa số các chứng viêm thường bắt đầu từ bịnh
sốt cả – Có thể bà sẽ hỏi, phải chăng ai bán bánh trứng rán cũng mắc bệnh này?
Đây không nhất định! Mỗi người từ nhiều đời nhiều kiếp đến nay, nhân quả chồng
chéo phức tạp, chẳng ai giống nhau. Đọc báo chúng ta thấy mô tả tai nạn xe,
cũng đồng một tai nạn nhưng kẻ thì chết thảm, có người bị văng ra xa mấy mét
nhưng lại bình an vô sự, tưởng chết lại được sống… Nghĩa là có rất nhiều chuyện
lạ lùng ngoài sức tưởng, nhưng thực ra đây đều liên quan đến đức hạnh của mỗi
người. Những người sông thiện, dù gặp nạn dữ rất dễ hóa lành, hay biến nguy
thành an. Chuyện làm ăn buôn bán kiếm tiền là thường tình, là “thiên kinh địa nghĩa”.
Cổ nhân nói: “Quân tử yêu tài, thủ chi hữu đạo” nghĩa là “dù ưa tiền, song kiếm
tiền cũng phải có đạo đức”. Bà đã cân thiếu hai lượng, dùng hành vi giả dối này
làm phương pháp phát tài là không có đạo đức. Hơn nữa, việc này đồng nghĩa với
“dưỡng hổ vi họa”. Hiện giờ số tiền lớn nhờ cân thiếu mà kiếm được, trong tương
lai bà sẽ phải đổ vào chi phí thuốc men hết mà không đủ nữa… Tôi giải thích vậy
bà có tiếp thu được chăng?
– Sư phụ, con rõ rồi. Sau này sẽ khống tham tài, lừa khách hàng
nữa.
Hòa thượng bảo bà thỉnh tôn tượng Phật về thờ, mỗi ngày lễ bái sám
hối. Bởi bà không biết chữ nên Hòa thượng dạy bà khi lạy Phật cứ niệm “Nam mô
Quan Thế Âm Bồ-tát”, và phải phóng sinh, thì bịnh bà có thể lành.
Lúc ra về, bà cảm thấy lưng khỏe hơn rất nhiều, nên càng tăng thêm
tín tâm đối với Phật pháp.
Thật không ngờ, hơn một năm thì bịnh bà lành. Còn chuyên trình đến
đây đáp tạ”…
Bà thấy tôi không chịu nhận bao gạo, kích động nói:
– Sau khi tôi từ nhà tôn huynh ra về, ngày nào cũng nghĩ đến những
việc làm thất đức của mình, lòng ăn năn khôn xiết. Hôm sau vội đi thỉnh tượng
Quan Âm về thờ, hằng ngày thắp hương lễ bái. Một ngày lễ tối đa ba trăm lạy,
lưng tôi chẳng những không đau mà ngày càng khỏe lên. Nhưng có một hôm, đột
nhiên lưng tồi đau kịch liệt, đau tới đứng không nổi. Các con khuyên tôi nên đi
bịnh viện.
Tôi nói: – Bịnh viện nếu chữa được thì ba tụi bây đã không chết.
Sư phụ kia nói đúng, má tin ông ta!
Thực ra, dù bịnh lành hay không tôi cũng tin! Ai bảo tôi phạm tội
buôn bán gian xảo làm chi? Đau đớn hành tới tôi chẳng thể ngồi được nữa, nên
đành nằm trên giường niệm danh Bồ-tát Quan Thế Âm, tôi niệm kiên trì như thế cả
tháng.
Một đêm nọ tôi nằm mộng, thấy Bồ-tát Quan Thế Âm xuất hiện trước
mặt mình, tôi vội khấu đầu làm lễ. Bồ-tát hỏi:
– Con ngày ngày niệm danh ta là muốn cầu điều gì?
Tôi thưa:
– Con do tham tài mà lưng đau, bị “thoát đĩa đệm cột sống”, xin
Ngài trị bịnh giúp cho. Con mà lành rồi thì ngày ngày luôn niệm Phật, lễ Phật.
Bồ-tát cúi xuống, đưa tay sờ vào lưng tôi, mỉm cười bảo:
– Ngươi vốn không có bịnh, nếu bị bịnh thì sao có thẻ khấu đầu làm
lễ trước ta được?
Nói xong Bồ-tát biến mất. Tôi mừng rỡ niệm to danh Ngài rồi ngồi
bật dậy trên giường. Hai con gái bị tiếng của tôi đánh thức, vội chạy tới bên
giường an ủi. Đột nhiên chúng kinh ngạc, vui mừng reo lên:
– Má, má ngồi dậy được rồi nè!
Lúc này tôi mới phát hiện mình đã tự ngồi dậy được, hồi tưởng lại
tình cảnh trong mộng thì đột nhiên lưng có cảm giác nóng ấm, hết sức dễ chịu
thư thái, lúc này mới biết là bịnh mình lành rồi, lòng quá cảm động, lệ tuôn
không cầm được. Tôi kể cho hai con nghe chuyện giấc mộng, chúng chưa tin lắm.
Tôi bảo hai con đỡ mình dậy, chúng dìu tôi đi thử mấy bước, lưng
tôi một chút cũng không thấy đau, chỉ là hai giò còn hơi yếu, tôi hiểu đây là
tại mình nằm mãi trên giường hơn cả tháng.Thế là ba mẹ con chúng tôi mừng đến
không ngủ được.
Bịnh lành hẳn hoàn toàn. Lòng tôi tràn đầy niềm tri ân Bồ-tát Quan
Thế Âm, đồng thời cũng nhớ đến ông xã giờ đã thành nắm tro xương. Nếu như ỏng
được gặp Phật pháp, chẳng phải là đã cứu được rồi sao? Thế là tôi quyết định về
quê, ra thăm mộ ông, khoe là tôi từ cõi chết mà được sống.
Thăm mộ xong, bà con thân thích mời tôi ghé chơi mấy ngày, tôi
bằng lòng. Trong thời gian ở quê, thấy người ta gặt còn sót bông lúa rất nhiều.
Tôi hỏi người trong thôn:
– Lúa còn sót dữ quá sao không ai mót hết vậy?
Họ đáp: – Hiện nay nhà ai cũng sung túc khá giả, nên chẳng thèm
phơi đầu dưới nắng mót lúa làm chi nữa.
Tôi hỏi: -Vậy… tôi mót có được không?
Họ đáp: – Có gi mà không được, vài ngày sau rơm, rạ đều sẽ bị
thiêu trụi hết thôi.
Ngừng một lúc bà nói tiếp:
– Tôi thấy lúa còn sót quá nhiều mà bị đem đốt hết thì rất uổng,
bèn bỏ ra một tuần để mót lúa, mót được bốn ôm to đùng. Đem xay ra thành 98 kí
gạo. Hôm nay tôi chở tới cho tôn huynh 50 kí. Đây chẳng phải là lễ vật gì đâu,
mà muốn để tôn huynh biết lưng tôi thật sự lành rồi (nên mới có thể khom lâu
như vậy để mót ra ngần ấy gạo đó!) Xem như Phật Bồ-tát đã ban cho tôi mạng sống
lần thứ hai! Tôi thường nhờ con gái giúp tôi tụng kinh “Bồ- tát Quan Thế Âm Phổ
Môn Phẩm” hồi hướng phúc cho chúng sinh. Kính tặng tôn huynh bao gạo này để
cùng chia vui với chúng tôi.
Tôi mỉm cười bảo:
– Tôi không dám thu lễ của bà đâu, hãy đem đến chùa cúng dường
người xuất gia đi, vì các vị ấy mới là đại diện Phật tại nhân gian. Hơn nữa,
hòa thượng Diệu Pháp cũng là người xuất gia đấy! tự thân và không thẻ không âm
thầm sinh tâm sám hối. Tính ra tuổi tồi lớn hơn cô, thời gian tạo nghiệp ắt
nhiều hơn, tham tâm cũng bự, to hơn và chuyện vấp sai lầm càng “khủng” hơn!
Cố gái này tính cách lương thiện, chưa đánh mất nét thuần khiết,
chất phác. Còn tôi thì cực kỳ nóng nảy, các lỗi ngu si, tham sân v.v… có đủ hết
– nếu chẳng sớm tu hành, tiền đồ bi thảm ắt có thể tưởng tượng được.
Những câu chuyện nhân quả phát sinh bên cạnh tôi, không ngừng cảnh
tỉnh sách tấn tôi rằng: “Phải ráng tu, thời giờ không đợi mình đâu!”
Một cô gái khoảng 27-28 tuổi, tai nghe lúc được lúc không. Đi bệnh
viện kiểm tra, bác sĩ nói là không có bệnh, nhưng thính giác cô vẫn nghe không
rõ, chẳng biết tại sao?
Sư phụ hỏi:
– Cô làm việc liên quan đến gì mà trong lỗ tai … đầy tiền lẻ như
thế kia?
Cô nhất thời ngơ ngác hoang mang, không hồi đáp được.
Tôi thay sư phụ giải thích cho cô hiểu:
– Những đồng lẻ này vốn không thuộc của cô, nhưng do cô ham chút
lợi đã lấy tiền này tiêu xài riêng. Lỗ tai cô vì vậy mà sinh bệnh, chứ chẳng
phải trong lỗ tai có đầy tiền! Cô hãy kiểm xem, thực có chuyện này chăng?
Cô lập tức hồi đáp mình là viên thu ngân tại trạm bán xăng, mỗi
ngày tính sổ thường có nhiều tiền lẻ, cũng chỉ độ một – hai hào, do khách hàng
không cần thối nên bỏ lại. Cô hàng ngày tới công sở thường đi, về bằng xe buýt,
thấy tiện nên đã lấy mấy xu lẻ này trả tiền xe. Cô cho rằng đây không phải là
tham ô.
Tôi nói:
– Đây không phải là tham ô, nhưng là tham tâm, đúng không?
Cô có vẻ ngượng, lúng túng gật gật đầu.
Sư phụ hỏi:
– Từ rày con còn tham những món tiền lẻ này nữa không?
Cô nói với vẻ dứt khoát:
– Thế thì tốt!
Sư phụ vừa dứt lời, cô lộ vẻ kinh ngạc kêu lên:
– Tai con giờ đã nghe rất rõ ạ!
Sư phụ mỉm cười bảo:
– Trong tai con bây giờ ta nhìn không thấy có tiền lẻ nữa, nhưng
thấy vẫn còn “thịt dăm bông, trái cây nước giải khát”… đây là thế nào vậy?
Cô tròn mắt kinh ngạc, hét lên:
– Ôi mẹ ơi, Ngài làm sao mà… cái gì cũng nhìn thấu hết vậy?! Thỉnh
thoảng lúc tính tiền, khách hàng có đưa dư mấy đồng lẻ, chúng con thường lấy đó
mua thịt dăm bông, trái cây, nước uống, v.v… cho bữa dùng trưa, đây cũng tính
là tội ư?
– Con là thu ngân, vốn không thể tính sai mà. Tiền thuộc công quỹ
thì không nên dùng riêng, con đâu có quyền tự tiện làm như thế?
Cô gật đầu lia lịa:
– Ngài nói đúng. Từ nay về sau con chẳng dám vậy nữa.
– Đã nói thì phải giữ lời đấy!
Cô hân hoan đứng dậy thưa:
– Sư phụ, tai con hoàn toàn thông suốt rồi, là ngài “Phát công
lực” cho con ư?
Tôi đáp thay sư phụ:
– Đây là kết quả của uy lực (cô vừa sám hối) phát thệ vượt qua cám
dỗ vật chất, quyết tâm không phạm lỗi nữa!
Cô rất mừng, chuyển sang thắc mắc khác:
– Đôi mắt con mấy năm nay hay có cảm giác xốn, mờ. Vạch ra xem,
thấy không có gì, nhưng mí mắt luôn bị đỏ, có phải bị báo ứng do liên quan đến
lỗi sai trái nào nữa chăng?
Sư phụ đáp không cần suy nghĩ:
– Con biết tự giác phản tỉnh như vậy là tốt! Nơi mí mắt con ta
thấy có nhiều bột giặt!
Cô la lên:
– Ô! Con biết rồi! Chúng con làm ở tiệm xăng, phải dùng xà phòng
để tẩy rửa các vết dơ, cho nên hằng ngày công tác, thường dùng bột giặt rửa
tay. Do ở tiệm công việc không bận lắm nên bọn con gái chúng con lúc rảnh
thường tranh thủ giặt y phục mình, sau đó còn đem quần áo, các vật dụng ở nhà
đến tiệm, dùng xà bông này giặt giũ luôn – vừa tiết kiệm được thời gian làm
việc nhà, vừa tiết kiệm bột giặt và nước.
– Các cô làm vậy là tham, vì đã trưng dụng lấn chiếm tài sản quốc
gia lẫn thời gian công tác, như vậy là phạm lỗi, vì đã lấy những “ của công” không
nên lấy, đúng không?
Cô gật đầu:
– Thưở giờ con chưa từng nghĩ làm vậy là phạm tội. Thế chẳng phải
con đã thành người xấu rồi sao? – Cô nói mà nước mắt lưng tròng.
Tôi không nhịn được chen vào:
– Hồi tôi chưa biết Phật Pháp thì cũng hành xử giống y như cô vậy.
Trong “ Kinh Địa Tạng” có nói: “Chúng sinh ở cõi này khởi tâm động niệm không
gì mà không tạo nghiệp, không gì mà không tạo tội”. Bởi kẻ sống trong cõi dục
này dù nhiều hay ít đều có tập tính tham, sân, si. Như cô bị bệnh, nguyên nhân
là do tâm tham, không hiểu pháp, không rõ lý. Một khi cô biết ăn năn sám hối
thì bệnh sẽ tiêu thôi.
Sư phụ từ bi bổ sung thêm:
– Từ rày con phải nghiên cứu xem kinh sách cho nhiều để tăng
trưởng trí huệ. Về công tác cần phải làm nhiều việc phụng hiến, hầu cứu chuộc
lại lỗi tham chiếm tài vật của cơ quan.
Lúc ra về, cô cảm thấy đôi mắt đã tốt hơn rất nhiều nên trong lòng
tràn đầy niềm tin và tôn kính đối với Phật Pháp.
Năm 1994, tôi vẫn trụ tại căn nhà trệt một cổng, một sân. Đến tiết
trung thu, thảo mộc kỳ hoa trong sân vẫn xum xuê muôn thuở.
Bước vào cổng, bên trái là phòng khách kiêm thư phòng của tôi. Cây
Tượng Ba đặt cạnh cửa sổ. Trong sân có một giàn hoa, bên phải cửa sổ là bàn
viết có đặt một chậu Văn Trúc thanh tú xinh đẹp.
Chiều nay, thằng con cấp trung học của tôi không đến lớp, ăn trưa
xong nó đến thư phòng làm bài, viết lách. Còn tôi thi nằm trong phòng mình xem
sách, đợi sư phụ Hòa thượng Diệu Pháp đến.
Hơn bốn giờ chuông cổng reo, tôi tiến ra nghênh đón hòa thượng và
thầy thị giả vào thư phòng. Thằng con 16 tuổi chắp tay lễ chào sư phụ rồi tiếp
tục chúi mũi vào công việc của nó.
An tọa xong, Hòa thượng Diệu Pháp hỏi con tôi:
– Chân cháu bị hôi hả?
Thằng bé đỏ mặt thưa:
– Chân con hồi 12-13 tuổi thì bắt đầu bị hôi, tẩy rửa cách gì cũng
vô hiệu, cách đây nửa giờ ba con đã ra lịnh cho con mở cửa sổ để không khí được
thông thoáng… Thế mà ngài vẫn còn nghe hôi ư? Thật có lỗi quá! Để con đi sang
phòng bên kia!
Sư phụ ngăn lại, mỉm cười bảo:
– Thực tình là ta không có nghe hôi gì cả! Nhưng vừa rồi khi con
hướng ta đảnh lễ, các cây trong nhà đều tới đảnh lễ ta, riêng chậu Văn Trúc này
đã mách cho ta biết tình trạng của con, nó nói con chiều nay không có tập
trung, vừa chơi vừa phóng tâm, nên viết không có được bao nhiêu! Ngoài ra nó còn
than là bị mùi hôi từ chân con xông lên khiến nó muốn chết ngạt!…
Nghe Hòa thượng nói thế, con tôi kinh hãi tới trợn tròn mắt, đơ
lưỡi; mặt càng đỏ hơn, nó lúng túng quay sang nhìn tôi vì sợ bị mắng.
Tôi cười thưa với sư phụ:
– Thằng bé nhà con vẫn thế đấy, lúc họp phụ huynh thầy giáo luôn
bảo thấy nó ngồi trong lớp trông rất khuôn phép đường hoàng (giống như chăm chú
nghe giảng lắm vậy), nhưng thử kêu nó mấy tiếng nó vẫn không nghe… Con dạy thế
nào cũng không sửa. Nhưng may là thành tích học của nó tạm ổn hơn xưa. Nhưng
chân nó thì cứ như ở đầu gió, tỏa “hương” bay xa đến… tám dặm! Có cách nào trị
không ạ?
Lúc tôi nói Hòa thượng cứ một bề nhắm mắt, lát sau, ngài bảo:
– Cây Tượng Ba trong nhà con mới an ủi Văn Trúc, nói là nó “có
cách giúp cho”. Để ta thuật lại con nghe nhé: -“Hãy dùng hai chiếc lá của nó
(như thế này này) chịu khó ra công một chút… xử dụng một lần thì lành”. (Xin
thứ lỗi tôi không thể kể rõ hơn, vì muốn tránh cho cây Tượng Ba không gặp nạn).
Cho dù trong “Kinh Địa Tạng” từng giảng là “hoa cỏ cây cối đều có
thần thức”… nhưng khi nghe sư phụ kể chuyện thực vật có thể đối thoại, khiến
tôi cảm thấy rất hiếu kỳ, thú vị… bèn hỏi:
-Thưa sư phụ, cây Tượng Ba và Văn Trúc khi nói chuyện cùng ngài,
chúng mang hình thái ra sao?
– Cây Tượng Ba có hình dáng người trưởng thành, mặc y phục cổ
trang màu xanh, còn Văn Trúc mang hình dáng thiếu niên, tóc trên đầu búi như
các công tử thời xưa, cũng mặc áo xanh, nhưng trông thanh tú mảnh mai hơn… Hoa
trong nhà con đa số mang hình dáng các cô bé, y phục diễm lệ như màu hoa. Cũng
có thể đây toàn là ảo giác, chỉ là dạng truyền đạt tin tức, là điều áo diệu của
thiên nhiên mà thôi. Phật nói: “Phàm những gì có hình tướng đều là hư vọng”.
Còn trong Tâm Kinh nói: “Sắc tức thị không không tức thị sắc, thọ, tưởng, hành,
thức… cũng đều như thế”. Vỉ vậy con không nên chấp tướng.
Nhưng tôi vẫn cứ chấp, và hỏi:
– Tất nhiên thực vật có thần thức, vậy khi con ngắt hai lá của nó,
nó có thấy đau không?
– Có chứ, vừa rồi Tượng Ba nhờ ta chuyển lời giùm, nó cầu xin con
“khi cắt hai lá nó xong thì nhớ lấy chút đất trong bồn hoa, bôi vào vết thương
để cầm đau cho nó”. Còn nữa, nó nói là nó đã theo con tụng kinh học Phật, nên
con đừng có dùng rượu trắng xịt rửa hay tưới tẩm gì cho nó nữa, bởi nó cũng
muốn giữ giới không ầm tửu. Nó vì giúp Văn Trúc mà tình nguyện hi sinh hai
chiếc lá, đây là do muốn học theo tinh thần bố thí của Phật. Vả lại, nó cũng
rất muốn báo đáp ân các con, hằng ngày đã quan tâm chăm sóc, cho nên nỏ mới cam
lòng chịu đau, hiến lá làm thuốc như vậy.
Tôi nghe xong rất cảm động, càng thêm tin tưởng đây là lời chính
xác (Bởi vì bạn bè từng mách cho tôi biết cây Tượng Ba rất ưa rượu, họ bày tôi
mỗi tuần nhớ pha chút rượu vào trong nước tưới cho Tượng Ba, như vậy nó sẽ lớn
mạnh, xum xuê hơn).
Qua câu nói của sư phụ, tôi bỗng nhớ đến một bài báo viết rằng:
“Hoa cũng có yêu ghét, hễ đặt cạnh loài nó ưa thích thì sẽ lớn nhanh, còn đặt
cạnh loài thảo mộc nào mà nó ghét thì múc độ tăng trưởng cũng èo uột’’…
Năm ngoái có một bài báo đăng tin một Khoa học gia trong khi
nghiên cứu đã phát hiện: lúc rừng cây gặp đại hỏa tai, máy dò nhịp đập (cảm
thọ) của cây bị thiêu, thấy phát ra tín hiệu rất tuyệt vọng bi thương và còn
nhanh chóng truyền tin hỏa tai này đến các cây khác. Nhưng lúc không có nạn
cháy, máy đo cảm xúc thấy rất bình thường. Té ra thực vật cũng giống con người
và động vật, cũng có thất tình lục dục.
Từ hôm đó trở đi, tôi đối với những điều Phật thuyết giảng trong
Kinh Lâng Nghiêm như “dể chết làm người, người chết làm dê; thảo mộc chết làm
người, người chết làm thảo mộc’’… càng tin kiên định không đổi dời, cũng hiểu
được nguyên nhân vì sao Phật nói: “Chư Bồ-tát, Tỳ kheo thanh tịnh, khi đi đường
chớ nên dẫm đạp cây cỏ, huống nữa là đưa tay ngắt bẻ”…
Ngay tối hôm đó, chúng tôi làm y theo cách Tượng Ba mách với Hòa
thượng Diệu Pháp, thì chân con trai tôi đã hết hôi. Chuyện xảy ra trong nhà tôi
đúng là giống hệt chuyện thần thoại.
Điều này khiến tôi nhớ đến các thần y như Lý Thời Trân, Tôn Tư Mạc
v.v… Họ có thể hiểu được loại cây nào có dược tính gì và viết ra cuốn “Thiên
Kim Phương”, “Bổn thảo cương mục”, giải rõ diệu phương lương dược, nhằm cứu
giúp thế giới. Chắc hẳn họ đã có thể cùng bách thảo giao lưu, nên mới sở hữu
được tầm hiểu biết cao thâm khôn lường về thảo dược mà tạo phúc cho nhân loại
như thế.
Từ đó, tôi và người nhà không còn có ý làm thương hại bất kỳ loài
thực vật nào, thậm chí cũng không nỡ dẫm đạp cây cỏ nhỏ bé trên đường.
Đến nay, nhân loại đã bước vào thế kỷ 21, đồng có ý thức bảo trì
môi trường sinh thái quân bình, quan niệm này ngày càng phổ biến, thấm sâu vào
lòng người. Nhưng tôi nhận thấy, bảo vệ môi trường hoàn hảo nhất không ai qua
đức Phật, vì từng chữ từng câu Ngài dặn dò con người “phải thương yêu sinh vật
hoa cỏ”… đă có từ xa xưa, nhưng bây giờ đọc lại vẫn thấy rất mới mẻ, hợp lý,
tràn đầy lòng từ bi và sáng ngời trí tuệ.
Một chiều mùa thu năm ngoái, mười mấy vị cư sĩ Thạch gia trang đến
Ngũ Đài Sơn. Trong đó có một bà hơn năm mươi tuổi, đang ở tại nhà khách hướng
Hòa thượng Diệu Pháp kể lẻ nỗi khổ tâm của mình:
– “Bạch sư phụ! Con quy y Phật 4 năm rồi, cứ rằm, mồng một là ăn
chay, nhưng thân thể không được khỏe lắm.
Nửa năm trước con gặp một vị thiện tri thức, mới hiểu ra nếu muốn
thân hoàn toàn không bịnh, mạnh khỏe, thì phải dứt tuyệt ăn mặn, chẳng nên ăn
máu thịt chúng sinh. Khống ngờ sau khi con đoạn tuyệt thịt cá rồi thì thân ngày
một khỏe hơn, lúc này mới biết ăn tam tịnh nhục chỉ là phương tiện tạm.
Kể từ đó, con thường khuyên con cái ăn chay để tránh tương lai bị
bịnh. Nhưng chúng chẳng những không nghe, lại còn dè bĩu, cho là con học Phật
ngày càng mê tín, khờ khạo. Chẳng những chúng ngược ngạo khuyên con ăn thịt,
thậm chí còn cố tình mua ba ba tươi sống về, nói là muốn cho con tẩm bổ, khiến
con nổi đóa.
Vì vậy mà con thường cùng chúng tranh cãi, nhưng chẳng ai nghe ai,
khiến cho trong nhà không khí rất căng thẳng. Mới đây có lần, con thực sự nhịn
không nổi, phải đến tá túc tại nhà một người bạn. Sau đó thì các con cũng tới
xin lỗi, rước con về. Nhưng hễ đến bữa ăn là trong lòng mỗi người đều cảm thấy
rất khó chịu.
Con nghĩ muốn xuất gia, nhưng lại lo chùa không thu nhận. Tính vào
viện dưỡng lão, lại sợ họ không giúp ăn chay tốt. Hiện con đang rất khổ tâm,
xin Hòa thượng từ bi chỉ giáo”…
Hòa thượng Diệu Pháp từ đầu đến cuối ngồi xếp bằng im lặng lắng
nghe.
Khi bà nói xong, ngài mở mắt bảo:
-“Người học Phật phải biết sống hòa thuận với đại chúng, đây là
tập cho mình thói quen biết tôn trọng người. Khi lựa chọn tín ngưỡng, thậm chí
dù đối với con cái, cũng Không nên cưỡng ép, bắt chúng phải phục tùng, vâng
theo. Bà hi vọng con mình tin Phật, ăn chay, cố nhiên là vì muốn tốt cho chúng.
Thế nhưng, cũng phải biết quan sát căn cơ mà dạy, không nên gấp rút nôn nóng
muốn mau thành. Làm vậy sẽ bị phản tác dụng, khiến các con đối với Phật giáo
phát sinh hiểu lầm, chống kháng.
Trong lúc ăn cơm, có thể dùng một bàn hai mâm, không nên “vì con
ăn thịt mà oán giận chúng”. Bà phải thường tự hỏi: “Bản thản mình giới sát đoạn
thịt… đã lâu chưa?” Nếu như tu tốt thì vì sao hôm nay vẫn chưa thoát ly lục
đạo? Phật Bồ-tát không hề khư khư chấp trước bất xả như chúng ta.
Do vậy, muốn hóa độ người phải nghiên cứu thời cơ và phương pháp,
trừ thuyết giáo bằng lời ra, cần phải dùng thân giáo, điều này rất quan trọng.
Thí như khi các con thấy bà học Phật ăn chay khí sắc ngày càng
tốt, thân thể ngày càng khỏe, tâm thái ngày càng hiền hòa, an lạc; tự nhiên
chúng sẽ tin phục Phật pháp. Dần dần nhờ vào sự thay đổi chuyền tốt âm thầm của
bà mà các con được cảm hóa, sẽ tự động hướng bà nương tựa. Đương nhiên muốn hóa
độ người khác thì điều quan trọng nhất là bản thân mình phải dốc sức hành cho
tới nơi, chánh mà không tà, giác mà không mê, muốn người sửa chánh thì trước
tiên mình phải chánh bản thân.
Ngoài ra, bà phải làm được việc này, thường nói ba điều tốt:
1.
Phải thường nói con cái
tốt, dù không tốt cũng nói tốt.
2.
Phải thường nói sính
hoạt tốt, dù không tốt cũng nói tốt.
3.
Phải thường nói thân
quyến bạn bè tốt, dù không tốt, cũng nói tốt.
Ba điều này từ đây trở về sau, những bậc làm trưởng bối phải ghi
nhớ trong lòng, để sẵn nơi khóe miệng. “Tri túc là thường lạc” mà.
Bất luận là con cái hay thân bằng, láng giềng, cho dù trước đây họ
đối với mình không vừa ý, nhưng nhờ bà luôn ẩn ác dương thiện, biết lấy đức báo
oán, thì lâu dần, đối phương sẽ sinh tâm ăn năn hổ thẹn, sửa lỗi và thay đổi.
Nếu thường nói ba điều tốt, tất nhiên sẽ được mọi người tôn kính, cuộc sống của
bà tự nhiên sẽ ngày càng tuyệt hơn.
Ngược lại, nếu bà cứ sợ người không tôn trọng mình, lúc nào cũng
lên mặt trưởng bối, luôn cậy uy, ỷ thế, ra vẻ kẻ cả, ta đây! – sống mà luồn soi
mói, tìm cách bắt lỗi người, như vậy rất là sai, rất trái với hạnh nguyện, sẽ
tạo nên vực ngăn cách cùng con cái, thân quyến, bạn bè. Hành xử như vậy sẽ
khiến phát sinh xung đột không ngừng, dẫn tới lòng mình và người đều… nổi oán
khí xung thiên!
Cũng đồng một lý này, công phu “ba điều tốt” rất hợp cho mọi người
ứng dụng. Nếu như chẳng thực hành được, thi cho dù là già hay trẻ, chồng hay
vợ, xuất gia hay tại gia, đều sẽ ôm phiền não vô tận”…
Bà nọ nghe sư phụ khai thị xong, không ngừng gật gù, mọi rầu rĩ
héo xào đã tan biến, gương mặt mùa thu ủ rũ của bà đã chuyển sang sắc xuân hớn
hở, ấm áp.
Phật pháp đúng là diệu pháp, Hòa thượng Diệu Pháp thật là diệu
pháp, Ngài luôn đem Phật lý tinh thâm khéo léo giảng giải cho đạo và đời cùng
hiểu, viên dung vô ngại, hết nghi.
Mê hồn thang như… tứ đổ tường… Nhiều người mê đảm khó thể buông hút
thuốc, bạc bài mờ tâm trí đắm ghiền tửu, sắc… tự trói thân. Nếu ai thoát khỏi
bon tật này chính là Như Lai – tự tại vương.
Một chàng sinh viên khoảng hơn hai mươi, hướng Hòa thượng Diệu
Pháp nêu thắc mắc: -Việc kiếp trước đời sau hồi nhỏ con có nghe bà nội kể qua,
nói rằng hễ Diêm vương cho người nào đầu thai thì trước tiên bắt họ uống một
chén “mê hồn thang” của Mạnh bà, uống xong thì quên hết chuyện đời trước. Xin
hỏi sư phụ, thật có chuyện uống canh mê hồn này không ạ?
Hòa thượng Diệu Pháp đáp:
– Ta nói có hay không – đều chẳng thể đưa ra bằng chứng cho con.
Hãy nghĩ xem, hiện tại người thế gian, trước đây là oan gia với nhau, nhưng họ
có thể vì “tiền” mà sẵn sàng vùi quên oán hận quá khứ để bắt tay hợp tác, vậy
là “thù” có thể hóa thành “bạn”. Còn kẻ vốn là bằng hữu, thân thiết như tay
chân, cũng vì “tiền” mà lật lọng, trở mặt phản nhau thành thù, thậm chí dẫn tới
“anh chết tôi sống, thề một mất một còn”. Đây đều là do uống phải mê hồn thang
“tiền” của Mạnh bà mà “quên” hết tất cả.
Việt Vương Câu Tiễn vì muốn báo thù Ngô Phù Sai, cho nên phải nằm
gai nếm mật. Hỏng lẽ ông thật quên mối nhục vong quốc mà chịu theo hầu hạ, phục
dịch Ngô Phù Sai? Đây chỉ là giả vờ, dối trá thôi; vì tận đáy lòng Việt Vương
ôm đầy thù oán, chỉ đợi thời cơ rửa hận, “không phải là không báo thù, mà vì
thời chưa tới”…
Một sinh mạng sau khi đầu thai chuyển thế, có nghĩa là chỉ hoán
đổi cái đãy da thúi bên ngoài thôi, về hình vóc xem như có “thay đầu đổi mặt”
thực đó, nhưng thần thức gá nương bên trong xác thân tứ đại giả hợp này, đối
với quá khứ vẫn biết rõ (một cách khách quan), rằng nên hướng ai báo ân, hướng
ai đòi nợ… Vì vậy mới có câu: “Thiện được thiện báo, ác hữu ác báo”.
Do nghiệp lực dẫn dắt, hễ cần đến thì nhất định phải đến, cần đi
chắc chắn sẽ đi. Quyết không thể vì ưa ghét của bạn mà thủ xả, tăng giảm.
Cho nên bị “mê hồn thang” làm lú lẫn, chính là bị tập khí tham sân
si che lấp Phật tính vốn có, khiến cho chúng sinh phải điên đảo, lưu chuyển trong
sinh tử.
Phố Lạc Dương tình Hà Nam có một gia đình ba nhân khẩu, ông chồng
thì thành thật, bà vợ siêng năng đảm đang. Con gái họ 17 tuổi, mỹ lệ khả ái.
Nhìn sơ qua thì thấy đây là một gia đình hạnh phúc ấm êm, nhưng quả thực đúng
như câu châm ngôn “Nhà nào cũng có điều khổ tâm khó nói”.
Nhân dịp tình cờ, nữ chủ nhân huớng tôi thổ lộ những thống khổ
khôn xiết suốt bao năm qua của bà.
Bà và chồng xuất thân từ nông thôn, trước khi kết hôn cũng chưa có
cảm tình hay quen biết nhau trước. Chỉ là lúc gặp mặt, bà thấy ông kiệm lời ít
nói, cử chỉ thận trọng, bèn nghĩ thầm: “Đây là bậc trượng phu có nề nếp, phong
cách, đáng để cho mình nương”… nên ưng thuận thành thân.
Cưới nhau rồi, mới phát hiện bản thân ông chồng có quá nhiều tật,
khiến bà chẳng cách chi dung nổi.
Chẳng hạn như khi ăn cơm thì ông nhai chóc chách rất thô. Bà kể
nếu như mà ăn mì, thì láng giềng trên lầu, dưới lầu đều có thể nghe rõ tiếng ổng
nhai nuốt, húp rồn rột. Còn khi ăn cơm thì dù mũi dãi “chảy như sông” ông cũng
chẳng thèm quẹt chùi hay ngẩng đầu lên, cứ cắm cúi an miết – bất kể là nhà có
khách hay không –
Còn nữa, một khi ông mắc đánh rắm thi cứ thả bừa rất tự nhiên,
chẳng chút ngại ngùng hay mắc cỡ e dè chi, pháo từ mông ồng cứ nổ dòn, liên
thinh hoặc lẻ tẻ… khiến những người có mặt phải lúng túng, ngượng ngùng vô kể,
còn ông cứ điềm nhiên tỉnh khô như không có chuyện gỉ. Bất kể bà đắng miệng
khuyên lơn thế nào, ông chồng bà vẫn trơ ra như “cây du bị bóc hết vỏ”, cứ “tôi
sao thì hiện vậy”, một bề không thay đổi.
Những chuyện kể ra thế này nghe rất vụn vặt, nhưng giữa phu thê đã
vì vậy mà hục hặc biết bao lần. Bà thấy chồng mình đúng là cam tâm để cho người
ta chê cười, mặc thiên hạ bình phẩm đàm tiếu trong những lúc trà dư tửu hậu mà
không hề biết mắc cở, giống như không có thể diện… ông khiến bà và con gái phải
xấu hổ cực kỳ với người ngoài!
Do vậy, đã nhiều lần bà bàn chuyện li hôn, nhưng thường bị bạn bè,
thân thuộc khuyên can ngăn trở. Phần bà hễ nhìn thấy chồng là trong tâm đã bực
chán, phiền muộn ứ đầy.
Con gái bà ngay từ nhỏ đã thiếu tình thương của cha. (Nó chưa từng
được ông bồng ẳm, nô đùa hoặc dẫn đi chơi.) Đối với phụ thân nó cũng ôm bất mãn
đầy, vì rất ít khi được trò chuyện giao tiếp cùng cha, bị ông cư xử giống như
người lạ.
Đến bây giờ, hễ hai mẹ con đang trò chuyện nói cười, chỉ cần ông
vừa bước vào nhà là họ lập tức im bặt.
Từ lúc quy y Phật môn, con gái và bà đều từ bỏ ăn mặn. Hằng ngày
bà kiên trì thực hành thời khóa sớm tối, siêng năng tụng kinh trì chú. Con gái
bà do bận đi học nên hằng ngày đi đường nó luôn tranh thủ tụng chú Đại Bi. Xem
như rất chịu khó tinh tấn.
Đối với mọi chuyên bà có thể cho qua, buông được hết. Chỉ duy nhất
vấn đề của ông chồng là tâm thường nảy sinh phiền bực. Bà luôn hi vọng nhờ công
phu tu trì mà những thống khổ của hôn nhân sẽ giảm bớt. Ai dè từ lúc ăn chay
rồi thì mùi trên thân ông chồng bà cũng không chịu nổi, nên phải phân phòng ở
riêng, chẳng ai lý tới ai.
Họ ngủ riêng đến nay đã ba năm, bà vốn đợi sang năm con gái lên
đại học sẽ ly hôn. Do ngày ngày phải đối mặt với phiền não thống khổ, nên hiện
thời bà thường bị nhức đầu, lắm bịnh.
Nhìn người phụ nữ vừa kể vừa khóc, bà chỉ hơn 40 tuổi, nhưng bị
cuộc hôn nhân bất hạnh dày vò và bịnh hoạn hành hạ làm cho tiều tụy. Tôi biết
đây là ác duyên đời trước tụ hội, không dễ cho hạng phàm phu như tôi hóa giải,
vì vậy tôi gọi điện thỉnh giáo Hòa thượng Diệu Pháp. Sư phụ im lặng một chút
rồi hướng tôi giảng rõ nhân duyên kiếp trước của hai mẹ con và ông chồng:
“Nữ cư sĩ này kiếp trước là nam nhân X nghèo khổ sống ở thâm sơn,
mưu sinh bằng nghề hái thuốc.
Ngày nọ ông X đem thuốc xuống tiệm ở thị trấn dưới núi bán. Gã chủ
tiệm bảo ông:
Nghe nói trên núi có cây Du ngàn năm, vỏ nó làm thuốc cực quý. Do
núi cao hiểm trở ít ai chịu đi, nếu mà ông lấy được vỏ nó về bán, nhất định sẽ
phát tài và kiếm bộn tiền!
Ông X nghe xong thập phàn mừng rỡ, thầm tính tiền kiếm được lần
này sẽ dành để cưới vợ.
Sau khi chuẩn bị xong xuôi, ông X trèo đèo lội suối, lên tận núi
cao và cuối cùng tim được cây Du to khoảng ba người ôm.
Ông thật là mừng vì được quá ước mơ, bèn cầm rìu khởi sự róc vỏ
cây. Làm hồi lâu thấm mệt, ông dựng rìu dưới đất, trèo lên cháng ba cây nằm
ngủ.
Đang say giấc nồng ông bỗng thấy có một công tử mặc áo xanh quỳ
trước mặt ông khóc lóc, nói mình chính là cây Du, hiện đang tu luyện đã ngàn
năm rồi. Chỉ còn ba năm nữa thì sẽ đắc đạo thành tiên. Nếu như bây giờ vỏ cây
bị bóc hết, thì sẽ lâm vào cảnh “công mất khí tận”, vì vậy cầu xin ông X hãy từ
bi gia hạn, thư thả cho; để ba năm sau hẵng tới róc vỏ, mình tu thành tiên rồi
sẽ đáp tạ thâm ân. Nói xong liền lạy ông X mấy cái.
Lúc đó ông X hét to :
– Không được, không được! Tôi đang cần cưới vợ, chẳng thể đợi ba
năm!
Rồi ông X giật mình thức giấc, công tử áo xanh chẳng thấy đâu? ông
X cuối cùng cũng róc hết vỏ cây Du gánh tới tiệm thuốc. Chủ tiệm hớn hở kiểm
hàng, cân đo. ông X do không biết chữ nên vội nói:
-Tôi cực khổ dữ lắm mới đem được thuốc quý về, anh không được cân
gian dối, lừa tôi đó nghe!
Anh chủ tiệm liền đáp:
– Yên tâm đi! Tôi mà dối gian thì tôi làm… con anh!
Ông X đó đời nay chính là nữ cư sĩ này, chồng bà chính là cây Du
ngàn năm gặp thảm nạn bị lột hết da. Tục ngữ nói: “Người cần mặt, cây cần vỏ!”
Chẳng phải nữ cư sĩ hay nói chồng bà hành xử giống: “Cây Du bị lột
vỏ” không mặt không da, không thể diện sao? Quả thực bà nói rất đúng! Phải biết
tính cách, tập quán và những gì người ta đã gặp phải hay trải qua trong đời
trước rất quan hệ đến đời này.
Chủ tiệm thuốc đúng là có cân gian của ông X hai lạng, do lời thề
“nói láo làm con!” nên giờ y phải sinh làm con, nhưng không còn mang thân trai
mà là con gái. Bởi chính do y đề xướng, chỉ điểm và xúi giục ông X róc vỏ cây
du, phá hủy đạo nghiệp ngàn năm của cây, nên tội y lỗi cao nhất, đứng đầu. Vì
thế mà đời này y phải chuyển sinh làm con trong gia đình nghịch duyên với mình
(mang thân nữ so với thân nam khổ hơn rất nhiều), huống nữa lại làm một đứa trẻ
không hề được cha yêu thương hay để mắt tới, vậy chẳng phải là khổ càng thêm
khổ sao? Đây cũng chính là nguyên nhân quan hệ khác thường, cực kỳ lạnh nhạt
giữa cha và con gái.
Hiểu rõ nhân quả kiếp trước đời này rồi, nữ cư sĩ và con gái cần
thành tâm sám hối tội lỗi đời trước. Bà cần phải sám hối với người chồng đời
này. Con gái cũng phải kiên trì sám hối để xóa đi oán hận trong lòng phụ thân
(ông ngày nay sở dĩ thành kẻ không thông tình đạt lý như thế, đều là do hành vi
của hai mẹ con đã làm trong kiếp trước). Hai mẹ con sau này phải chí thành sám
hối, vì “cây Du xưa” mà tụng 49 biến “Kinh Địa Tạng”.
Khi nhân duyên hội đủ, thời khắc đến, thì-quan hệ gia đình cả ba
người nhất định sẽ cải thiện, cùng hưởng mối vui tình thâm”.
Có lẽ nhờ nữ cư sĩ cùng con gái phát tâm tu (siêng năng tụng kinh,
trì chú, ăn chay niệm Phật ngót ba năm nay) nên được cảm ứng. Cũng có lẽ là cơ
duyên họ đã thuần thục, nên khi tôi truyền đạt lại mọi nguyên nhân cội rễ Hòa
thượng Diệu Pháp vừa giảng thì mẹ con bà như trong mộng chợt tỉnh, hoan hỉ tin
nhận.
Nhất là con gái bà, vừa kinh ngạc vừa mừng vui, bảo mẹ:
– Má ơi! Má và ba chung sống mười mấy năm, má cứ giận trách ba là
“không mặt không da!” Té ra là tại má, má đã tuốt hết da vỏ (thể diện) của ba,
nên mới ra nông nổi như thế…
Câu nói này khiến mọi người tại hiện trường đều bật cười.
Nửa tháng sau, nữ cư sĩ từ Lạc Dương gọi điện tới báo tin vui, nói
chứng đau đầu của mình đã hoàn toàn hết và các bịnh khác cũng nhẹ đi nhiều.
Hiện tại cứ mỗi hai tiếng bà tụng xong một bộ “Kinh Địa Tạng” , chồng bà
cũng đã dần thay đổi.
Bà quyết tâm tụng cho xong 49 bộ “Kinh Địa Tạng”. Sau đó sẽ tiếp
tục tụng mỗi ngày một bộ hồi hướng cho chúng sinh khắp pháp giới nguyện tất cả
đều có thể nghe đến “Kinh Địa Tạng”, hiếu lý và hưởng được lợi ích.
Tôi nghe xong thật mừng cho bà, chúc họ sớm thành gia đình Phật
hóa thuận hòa, hạnh phúc mỹ mãn.
Cát cư sĩ tuổi gần 60, tin Phật đã nhiều năm, lúc bà gặp Hòa
thượng Diệu Pháp, thì mắt lệ tuôn trào, do quá bi ai cho bản thân.
Hai mươi tuổi bà lấy chồng, nhưng tới giờ vẫn chưa biết hạnh phúc
phu thê nồng ấm là chi. Vợ chồng tuy sống chung nhưng chỉ đem lại cho bà toàn
khủng hoảng. Điều khiến bà thống khổ và vô phương kham nhẫn nổi chính là, tuy
hiện thời đã ở vị bà nội, song lắm lúc vẫn bị chồng đánh, mắng… mấy mươi năm nay
hôn nhân của bà toàn là nếm mùi đánh đập, mắng chửi… bị khổ đau mài luyện.
Nhưng ngược ngạo thay, cái ông chồng vô tình vũ phu này, ở bên ngoài ai cũng
tấm tắc khen ổng là người tốt.
Sau khi tin Phật rồi, bà nghĩ: “Chắc đời trước mình thiếu nợ ổng,
cho nên cũng ráng tùy duyên đón cảnh thuận nghịch, ráng mà sống với nhau”… cho
đến hôm nay. Thế nhưng bà rất muốn biết giữa mình với chồng có nghịch duyên oan
trái gì, mà đến giờ vẫn trả chưa xong?
Hòa thượng Diệu Pháp chìu theo nguyện vọng của bà (đây có lẽ nhờ
bà niệm Phật nhiều năm mà được dịp hiểu rõ nguyên nhân).
Hòa thượng kể:
“Ngày xưa có một phú thương, đã có rất đông thê thiếp, nhưng còn
tham lam để mắt tới đứa tớ gái tên Lan có nhan sắc trong nhà. Thế là ông cưỡng
ép chiếm đoạt Lan, còn dùng lời ngon tiếng ngọt gạt lường, dụ dỗ, hứa hẹn rằng
có dịp thuận tiện sẽ nạp Lan làm thiếp. Nữ nhân ngày xưa rất coi trọng việc
chung thân, Lan nghĩ “mình đã là người của ông chủ rồi, nên một bề vọng ngóng
đến ngày được vẻ vang mày mặt” như ông hứa hẹn.
Nhưng phú gia này không thực tâm giữ lời. Lúc cao hứng thì y tìm
Lan thỏa mãn thú tính, khiến nữ tỳ này luôn bị thống khổ, muốn chết mà chẳng
thành, muốn đi mà không được! Do ước mơ cả đời cô không bao giờ thành sự thực,
nên trong lòng oán hận phú ông đến tận xương tủy.
Đời này, oan oan tương báo, bọn họ lại kết thành vợ chồng danh
tánh ngôn thuận (đúng như nguyện ước của cô tỳ nữ xưa), song vai vế vị trí đã
đổi. Phú ông thuở ấy phải chuyển thành thân nữ là Cát cư sĩ đây, còn cô tớ gái
từng nhận chịu nhiều nhục nhã thống khổ nay được thăng làm đàn ông, ở vào vị
người chồng. Những oán hận tích chứa thời xa xưa, kiếp này được dịp phát tiết,
trút cả vào Cát cư sĩ. Đây gọi là “nhân duyên hội đủ quả báo đến liền thọ”.
Cát cư sĩ nghe Hòa thượng Diệu Pháp kể xong câu chuyện, mắt đầy
lệ, bà tỉnh ra và khởi tâm sám hối. Bà nói bà tin điều sư phụ giảng là thật,
bởi bà cảm thấy tính cách mình rất hướng ngoại, giỏi giao thiệp, năng lực làm
việc mạnh mẽ hệt như đàn ông.
Còn chồng bà tính lại kỹ lưỡng, có trách nhiệm bổn phận, ưa làm
những việc dọn dẹp lau chùi, những công việc tỉ mỉ như đàn bà con gái. Trừ việc
cư xử rất tồi với bà ra, ông giao hảo với mọi người thật tốt, dịu dàng như nữ
nhân.
Bà nói hiện này bà thọ khổ đúng là tự làm tự chịu, hết còn trách
ai. Từ rày về sau bà chẳng dám khởi tâm oán hận chồng nữa, một đời quyết chí tu
tinh tấn để về Cực Lạc, không muốn luân hồi đau khổ nữa.
Hòa thượng Diệu Pháp bảo bà hằng ngày phải âm thầm sám hối và tụng
một bộ “Kinh Địa Tạng” hồi hướng cho cô tớ gái tiền kiếp, nếu như bà tin sâu và
kiên nhẫn thực hành, nhất định ác duyên sẽ tiêu trừ, thiện duyên tăng trưởng,
quan hệ phu thê sẽ được cải thiện.
Lần nọ, mười mấy người cư sĩ chúng tôi muốn đi Ngũ Đài Sơn bái
kiến Hòa thượng Diệu Pháp. Anh Kim là giám đốc nhà in, tình nguyện lái xe đưa
chúng tôi đi. Mặc dù anh không tin Phật, nhưng thuộc típ người hết lòng vì bạn.
Anh tự lái chiếc xe hơi đời mới, sang trọng, đưa chúng tôi vượt đường xa. Hơn
nữa, có 3 lý do khiến anh sốt sắng: một là vì muốn giúp bạn hữu, hai là từng
nghe đồn những việc thần kỳ về Hòa thượng Diệu Pháp nên anh cũng tò mò, ba là thưở
giờ chưa biết thắng cảnh Ngũ Đài Sơn, nên cũng muốn đến cho rõ.
Đáng tiếc là, ngày đầu tiên lúc chúng tôi hướng Hòa thượng thỉnh
pháp, thì anh Kim có lẻ do lái xe mỏi mệt quá nên đã đi ngủ mất tiêu.
Sáng hôm sau mấy cư sĩ lại hướng Hòa thượng thỉnh giáo nguyên nhân
bệnh hoạn, sư phụ kiên nhẫn giảng, bảo họ từng giết qua loài vật nào, thậm chí
giết làm sao, ăn như thế nào, cho đến quá khứ từng trộm qua thứ gì, dùng bao
nhiêu, còn bao nhiêu để ở địa phương nào…mỗi mỗi đều kể rất rõ ràng. Chứng kiến
sự thật này anh Kim hoàn toàn bị chấn động. Anh cứ trố mắt nhìn, mồm há to,
chăm chú theo dõi. Ngó bộ anh hết sức hưng phấn, khẩn trương, thậm chí nhiều
lần muốn nói gì đó nhưng lại thôi.
Buổi chiều, anh đến tìm tôi ngỏ ý muốn tối đó một mình đến lễ Hòa
thượng hỏi chút chuyện.Vì ngại, nên nhờ tôi xin phép trước giùm. Được sự chấp
nhận của Sư phụ, bảy giờ tối tôi dẫn anh đến phòng khách.
Chỉ thấy anh Kim cung kính quỳ trước Hòa thượng, hai tay chắp lại,
trang trọng khấu đầu làm lễ ba lần. Ngó bộ anh đã bị Hòa thượng chiết phục,
thực lòng tin theo Phật pháp rồi. (Hôm qua lúc chúng tôi gặp Hòa thượng và hành
lễ với Ngài, anh còn đứng ở bên ngoài ngó vào thôi)
An tọa xong, anh Kim mặt đầy sầu muộn kể lể với vẻ bi ai:
Con và vợ là Tiểu Khiết kết hôn được 12 năm, đã có 1 bé trai 10
tuổi. Trước khi cưới Tiểu Khiết, con có thương một người bạn học láng giềng,
tên Tiểu Lý. Tụi con vốn là đôi bạn thanh mai trúc mã, đã dự tính sẽ kết hôn
với nhau. Ngay lúc đó thì con quen Tiểu Khiết. Nếu so về tướng mạo, công việc,
hoàn cảnh gia đình…Tiểu Khiết đều thua xa Tiểu Lý, vậy mà không hiểu con bị
trúng tà hay ma ám chi, vừa gặp Tiểu Khiết là đã yêu ngay. Mặc cho bạn bè thân
hữu phản đối, con vẫn ương bướng cương quyết kết hôn cùng Tiểu Khiết.
Cưới nhau mới 3 ngày, vẫn còn khách đến nhà thăm, cha mẹ con cũng
bận rộn phụ tiếp.
Ngay lúc này có hai người bạn bước vào, vừa cung tay chúc mừng vừa
cười bảo con:
Chú Kim này, em thật có lỗi nha, kết hôn mà không báo cho các anh
hay, sợ hao rượu mừng hả?
Con vội bước tới nghinh đón, cười đáp:
Thật xin lỗi quá! Do kết hôn gấp gáp, lại bận bịu nên không báo
tin kịp. Mong các anh lượng thứ cho!
Lúc này Tiểu Khiết mang nước ra mời. Các anh bạn đùa:
Chà! Chú Kim này! Tôi phải trách chú không báo tin đấy! Té ra thím
xinh đẹp thế nên sợ chúng tôi…cướp đi có phải không?
Con cười ha hả nói:
Đẹp cái nổi gì! Xấu quá đi! Em còn đang hối hận đây này!
Con nói chưa dứt câu, Tiểu Khiết đột ngột quay lại, hai mắt trợn
trừng, đỏ ngầu, tia nhìn hung dữ, ả giáng cho con hai bạt tai.Lúc đó mắt con nổ
đom đóm, người trong nhà đều đứng ngây ra nhìn, còn cô vợ mới cưới vừa khóc vừa
la làng, làm ầm ỹ lớn chuyện, nhất định không chịu bỏ qua.Con bị tát đau điếng
đến mê muội, thịnh nộ nổi lên, chỉ muốn xé nát cô ta ra. Nhưng con vừa đưa tay
lên thì buông xuống, lý trí nhắc nhở mình: “Không nên làm vậy khiến láng giềng
chung quanh chê cười, không nên làm ba mẹ phiền bực”
Do hai anh bạn áy náy xin lỗi và mọi người xúm nhau khuyên giải,
con đành phải nén giận, ráng gượng cười làm vui.
Suốt 12 năm nay, chúng con luôn gây cãi đánh nhau
không ngừng, làm ầm ỹ và đòi ly hôn 6 lần, trong đây có 2 lần Tiểu Khiết dọn đồ
đi. Nhưng mỗi khi sắp làm thủ tục ly hôn, luôn bị thân bằng xúm vô ngăn trở,
khiến việc ly hôn bất thành. Điều này khiến tâm con luôn thống khổ. Cả hai đứa
đều muốn ly hôn, nhưng cứ gặp cảnh chia tay bất thành. Có quái dị không chứ?
Xin Sư phụ chỉ dạy giúp cho con”
Trong lúc anh Kim nói, Hòa thượng Diệu Pháp khép nhẹ đôi mắt như
đang nghe, lại giống như đang tư duy.
Bây giờ Ngài mới đưa mắt nhìn anh Kim và hỏi:
- Anh dẫn con trai đi sở thú, ưa ngắm nhìn lũ chim công lắm phải
không?
- Dạ phải. Con thấy công xòe đuôi rất đẹp.
Hòa thượng mỉm cười kể:
“Cách đây ba đời, anh sinh ra nơi một thôn trang dưới núi, là một
nam tử hán. Anh thường lên núi đốn củi và quen với một con công ở trên núi. Mỗi
lần gặp thường hay cho nó ăn thứ gì đó, công hay chơi đùa với anh, anh cũng rất
thương công và con công cũng quyến luyến anh. Có ái tức có tình!
Đời sau (là kiếp thứ hai) anh vẫn sinh làm đàn ông, nhưng công thì
chuyển sinh làm phụ nữ, do tình cảm kiếp trước mà kết thành phu thê. Nhưng bởi
vì cô vợ từ kiếp súc sinh mới chuyển lên, tuy mang hình hài người nhưng tập
tính thú cầm vẫn còn, cho nên vợ chồng thường gây cãi ầm náo. Lúc anh nổi thịnh
nộ khó tránh khỏi đánh vợ, cô ta là nữ nên đánh không lại anh, tất nhiên ghim
hận trong lòng.
Đời sau nữa, anh vẫn chuyển sinh làm nam, ăn mặc giống như người
luyện võ. Hôm nọ anh đẩy xe mộc luân xa (xe có bánh làm bằng gỗ) lên núi, bất
ngờ gặp một con sói. Anh liền lấy dây xích sắt đánh nó, chẳng mấy chốc con sói
bị hạ gục. Anh lập tức dùng xích cột cổ nó, ra sức xiết chặt, con sói giãy giụa
một lúc thì bất động. Anh bỏ con sói nằm ở đó rồi đẩy xe đi.
Chập sau, con sói tỉnh dậy, nhân vì bị thương tổn hại đến thần
kinh khiến tứ chi nó bại liệt. Nó tru lên, gọi những con sói khác tới kéo
nó về động, dần dần nó chết đi”.
Hòa thượng Diệu Pháp kể xong câu chuyện, nhìn thấy mặt anh Kim bán
tín bán nghi, liền hỏi:
- Nơi cổ vợ anh có hằn những đường mờ màu trắng, vết sẹo nằm lộn
xộn không có hàng lối gì hết phải không?
Nghe nói thế anh Kim cả kinh, mặt mày biến sắc thưa:
- Dạ đúng, Đúng vậy!
Hòa thượng nhìn gương mặt tái nhợt của anh, ôn tồn nói:
Anh đừng căng thẳng quá như thế. Mỗi người thân thể hình thái, ngũ
quan tướng mạo, cho đến vân tay, dấu bớt…mang từ lúc còn trong thai, ngay cả
tập khí, tính tình, đẹp, xấu, trắng đen…toàn bộ đều liên quan đến nghiệp đã tạo
đời trước.
Bởi vì anh bình thường tâm địa hiền lương, ưa làm chuyện phúc
thiện giúp người, bản thân tuy không tin Phật, nhưng lần này vẫn muốn tình
nguyện chở giúp người lên núi lễ Phật nghe Pháp, nhờ vậy mà hôm nay có duyên
được nghe ta giảng cách phá giải nhân quả cho. Đã nói phá, tức là có phương
cách hóa giải. Anh không nên cứ đinh ninh cho rằng ngủ bên cạnh mình là một con
sói -Vì vợ anh hiện giờ đang thực sự là người!
Mỗi chúng ta từ vô thỉ kiếp đến nay luân hồi trong lục đạo, có cõi
nào mà chẳng từng đi qua? Phật ngày xưa cũng từng hiện làm thân nai chúa mà. Ta
hỏi anh một việc nữa, anh có giúp mấy cô gái mua vé vào tham quan cảnh chùa hay
không? (Các danh lam thắng cảnh ở Trung Hoa Đại Lục khách đến muốn tham
quan, phải mua vé vào cổng, phí thu này do chính phủ quản)
Giám đốc Kim lộ vẻ rất kinh ngạc thưa:
- Dạ có, dạ có. Đấy là mấy nữ công nhân thất nghiệp, muốn vào chùa
bái Phật, nhưng không có đủ tiền mua vé. May là lúc đó con đi ngang, thấy vậy
nên giúp dùm. Làm sao mà chuyện vụn vặt này sư phụ cũng biết?
Muốn người đừng biết! Trừ phi mình đừng làm. Bất kể làm thiện hay
ác chi cũng đồng một lý này cả.
- Thế…con làm qua việc xấu gì…Ngài cũng biết hết ư?
- Chư Phật, Bồ Tát, Thiên, Địa, Quỷ Thần…đều biết và thấy hết! Vì
vậy Phật mới khuyên chúng ta không nên làm ác, mà phải làm toàn điều lành.
- Thế…có phải sau này Tiểu Khiết sẽ lấy mạng con?
Hòa Thượng chậm rải nói:
“Đợi đến khi anh hơn 40 tuổi, vào một tối nọ, anh về nhà, do
một chuyện vặt vãnh mà gây cãi ầm ỹ cùng vợ và anh sẽ ra tay đánh cô ấy. Rồi
anh nằm ngủ. Vợ anh sau một hồi khóc lóc, tâm lang sói sẽ bộc phát. Thế là cô
đi tìm một sợi dây điện, gấp đôi lại, rồi một đầu quấn quanh cổ anh, luồn đầu
kia vào lòng dây đôi nơi cổ, rồi cột vào chân giường. Sau đó hai tay ả nắm chắc
dây điện, dùng chân đạp trụ giường, ra sức kéo, xiết cổ anh. Anh giẫy giụa một
hồi rồi bất động. Cô vợ sẽ nới tay nghỉ mệt một lúc, xong lại làm tiếp, vừa
kéo, xiết dây, vừa mắng anh…dè đâu anh tỉnh dậy, mở mắt ra…nhưng từ cổ trở
xuống đã mất tri giác, từ đó anh bị bại liệt”…
Nghe đến đây, mặt anh Kim trắng bệch không còn chút máu. Anh vội
quỳ xuống trước Hòa thượng Diệu Pháp, khủng hoảng thưa:
Xin Sư Phụ cứu con! Cách đây 5-6 năm về trước, có lần con đi vào
công ty Bách Hóa, khi về, vừa ra tới cổng lớn thì con thấy có một người đẩy
chiếc xe lăn cũng tiến ra cổng. Con vô cùng kinh ngạc khi phát hiện người ngồi
trên xe lăn…chính là con (nhưng tuổi lớn hơn) nhìn khoảng ngoài 40 tuổi! Con
liền định thần, nhìn lại, thì thấy không phải là con. Rồi con nhìn lại nữa, lại
thấy đó là con! Hiện tượng kỳ quặc này đã khiến con suy nghĩ suốt mấy ngày. Lúc
đó con có nghĩ: “Phải chăng mình đang thấy trước điềm báo vào lúc hơn 40 tuổi,
mình sẽ bị bại liệt?”
Lúc đó con suy nghĩ nát óc mà không hiểu được. Bây giờ nghe Sư phụ
kể câu chuyện này rồi, thì con đã hiểu và tin, xem ra mình thực sự có bị nạn
đó-Xin Ngài, xin Ngài hãy cứu con, hãy thu nhận con làm đồ đệ! Từ nay trở đi
con muốn là đệ tử của Phật. Nếu không, cho dù con kiếm được tiền nhiều đến mấy,
thì nào có ích chi đâu?
Hòa thượng Diệu Pháp mỉm cười nói:
- Con hãy đứng dậy, chuyện quy y hãy đợi trong chùa thông báo cho.
Còn như giúp con giải trừ nạn này, thì mấu chốt nằm ở bản thân con.
Trước tiên con phải sám hối nghiệp gây gỗ, đánh đập người trong
kiếp trước và lỗi đã sát hại con sói. Giờ đây con có thể lên đại điện lễ Phật
sám hối.
Sau khi về nhà rồi thì phải thiết lập Phật đường ngay trong nhà.
Nếu không tiện thì không lập cũng được, vì Phật tại trong tâm mà. Nhưng quan
trọng là mỗi ngày, vào lúc rảnh, con tranh thủ nhín thời gian tụng một bộ kinh
“Quan Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn Phẩm”, tụng khoảng hơn nửa tiếng là xong một biến.
Tùy theo thời gian của mình mà mỗi ngày con tụng mấy biến đều được. Lúc tụng
phải tịnh tâm chuyên chú, chí thành hồi hướng cho “con sói đời trước” bị con
làm hại, giúp nó tăng gia phúc báo, kết duyên với Phật môn, tiêu trừ tâm sói và
tâm sân si oán hận đối với con.
Dần dần con sẽ thấy vợ con thay đổi, đối với con từ ái tử tế hơn,
gia đình sẽ hòa thuận, bi kịch vốn phải phát sinh sẽ không phát sinh nữa.
Đây gọi là “cảnh chuyển theo tâm” nghĩa là tâm con có thể chuyển
cảnh, khiến phong khí gia đình được thiện hóa theo. Con phải tu sửa tâm, giữ
thân, khẩu, ý trong sạch để chuyển ác khí thành hiền khí, chuyển phiền não
thành Bồ Đề vì “vạn pháp duy tâm tạo”.
Sau khi con rời khỏi nơi này rồi, từ đây phải thường thân cận
thiện tri thức cho nhiều vào. Đối với bạn bè, con có thể đem kinh nghiệm từng
trải và sự tu hành của bản thân mình để thuyết pháp, hóa độ họ vào chánh đạo.
Lúc rảnh nên đọc kinh tạng, nghiên cứu nhiều để hiểu cho sâu, tự khai mở trí
cho mình.
Bình thường có đi đâu, dù tản bộ hay lái xe, hoặc khi rảnh rỗi,
nên thường niệm danh Bồ Tát Quan Thế Âm
Trong xã hội dẫy đầy bạo loạn tranh đấu như hiện nay, không nên
mưu đồ chiếm lợi nhiều, không nên truy cầu tiền bạc bất nghĩa. Phải biết “hại
người chính là hại mình”
Từ nay về sau, quyết không làm bất cứ điều gì sai trái có lỗi với
lương tâm mình. Khi làm việc, cư xử cần thành thật. Nên nộp thuế đúng thời, chỉ
làm toàn những điều lợi quốc, lợi dân. Được vậy thì nhất định hãng xưởng của
con sẽ trụ vững, không thất bại trong thương trường.
Do con bái ta làm Thầy, nên Ta truyền thọ Phật Pháp cho con. Phải
tôn kính tuân hành, mới là đệ tử Phật chân chính, như vậy sẽ được Thiên Long hộ
vệ, Chư Bồ Tát gia trì.
Nếu con khinh suất không chịu giữ giới luật, thì con chẳng phải là
đệ tử Phật, cho dù con có được tờ phái chứng nhận mình đã quy y thì hiện tại
khó được Phật chúc phúc, mà tương lai cũng sẽ rơi vào ác đạo. Ta giảng nãy giờ,con
nghe hiểu hết chưa hả?
Anh Kim một bề cung kính lắng nghe, vội thưa:
Bạch Sư phụ! Con hiểu rõ hết rồi ạ, xưa nay con vốn chẳng hút
thuốc hay uống rượu chi, ngay cả trà còn chẳng dùng tới. Từ hôm nay trở đi con
thề giữ giới nghiêm minh, dứt tuyệt ăn mặn….
Đọan sau câu chuyện tôi nghĩ chẳng cần kể tiếp nữa. Hiện nay gia
đình giám đốc Kim đã hòa thuận, công việc hãng xưởng rất phát và bận rộn tất
bật, thành là một thương hiệu được tín nhiệm, cực kỳ nổi danh.
Tần cư sĩ là một phụ nữ rất xinh đẹp, từ nhỏ đã có khiếu mỹ thuật,
tuổi còn trẻ đã là thầy dạy cắt uốn tóc nổi danh khắp thành phố. Bà là người
lanh lẹ vén khéo, đảm đang.
Sau khi cách mạng giải phóng, bà tự mở một tiệm làm tóc tại nhà,
đến nay phát triển thành một thẩm mỹ viện bề thế, quy mô.
Tần cư sĩ rất có hiếu với mẹ. Lúc mẫu thân lâm chung, bà quỳ trước
giường suốt 8 giờ, không ngừng niệm Phật, làm cả nhà mười mấy người xúm nhau
quỳ xuống niệm Phật theo. Đột nhiên mọi người không hẹn mà đồng thanh la lên:
“ôi chao! Tôi nhìn thấy Bồ-tát Quan Thế Âm rồi!” Ngay lúc ấy, trong phòng bịnh
nhân tràn ngập hương thơm kỳ diệu, khiến người thanh mát cả tạng phủ. Mọi người
đồng thấy Quan Thế Âm Bồ-tát giáng lâm phía trên (bên phải giường bịnh), chỉ
riêng Tần cư sĩ nhìn thấy mẹ mỉm cười, hướng không trung mà đi, hơn nữa còn
nghe phật nhạc vang vang.
Lúc này toàn gia cực kỳ hưng phấn, đồng quay lại nhìn mặt mẫu
thân, thấy gương mặt bà đang cười mỉm, đã an lành vãng sinh. Từ đó cả nhà đều
tin Phật giáo.
Chính vị Tần cư sĩ thuần thành thiện lương này, đã nhiều lần nhờ
tôi giúp bà liên hệ xuất gia. Qua trò chuyện tôi mới biết, sò dĩ bà muốn xuất
gia là do không có tình cảm với chồng, giữa họ thường gây cãi, ông xa có lúc
còn ra tay đánh bà.
Những lần như thế tôi đều khuyên bà không nên trốn lánh hiện thực
để xuất gia. Huống chi bà còn có đứa con gái chưa thành niên, đang cần mẹ chăm
sóc, nuôi dạy.
Cách đây không lâu, một buổi tối bà đột nhiên gọi điện tới khóc
sướt mướt, kể là do gây gỗ cùng chồng, bà đã đến nhà em trai cư ngụ ba ngày
rồi, hiện giờ chỉ muốn gặp tôi ngay, nếu không bà chẳng thiết sống nữa.
Vừa gặp mặt, Tần cư sĩ òa khóc, kể lể: “Tôi hiện ngụ trong tòa nhà
ba phòng, mới mua hồi nửa năm trước với giá 40 vạn tiền nảy hoàn toàn do tôi
kiếm được. Tôi cùng chồng sống chung, khi đi coi nhà thấy ưng ý, nhưng do bận
việc bề bộn nên tôi giao ông xã giữ tiền và lo thủ tục mua nhả. Không bao lâu
đã có được chìa khóa nhà mới.
Tôi cho rằng nửa đời chịu khổ chịu cực của mình đã được đền bù
bằng ngôi nhà ưng
ý. Nhưng ai có ngờ, ba ngày trước vào một đêm khuya, chồng tôi về nhà bảo:
– Sáng mai hoặc chậm nhất là ngày mốt, em lo chuẩn bị đủ 20 vạn tiền mặt đế giao nộp… nếu không thì phải ra
khỏi nhà.
Tôi sững người, bèn hỏi:
– Chẳng phải tôi đã đưa đủ 40 vạn cho anh mua nhà sao? Còn đòi 20
vạn nào nữa?
Ông lớn tiếng quát:
– Tôi chỉ mới đưa người ta 20 vạn, còn 20 vạn tôi đem mua cổ phiếu
kiếm lời, nào ngờ bị mất hết. Để gỡ gạc, tôi đã thế chấp ngôi nhà mới này lấy
hai mươi vạn, ai dè cũng thua sạch. Bây giờ người ta đòi tiền, không có tiền
trả họ thì mình phải ra khỏi nhà…
Tôi cảm giác như sấm nổ bên tai, vội trách ông xã chơi cổ phiếu
sao không bàn trước với tôi. Nào dè ổng không những chẳng biết lỗi, còn đánh
tôi (vừa nói bà vừa chìa cho tôi xem thương tích trên cánh tay).
Bà sụt sịt nói:
-Tôi thật khó mà sống qua hôm nay. Tôi cũng nghĩ là trước đây mình
thiếu nợ ổng, nên đã ráng nhịn nhục cho êm chuyện gần 20 năm nay. Trong nhà mọi
việc ăn, mặc, ở… tất cả đều do một tay tôi đi làm kiếm tiền, cung ứng. Lẽ nào
vẫn chưa trả đủ nợ cho ổng? Bây giờ nếu như phải đền tiền thì thẩm mỹ viện của
tồi cũng phải đóng cửa. Tôi thực nghĩ không thông! Tôi rất muốn nhờ tôn huynh
xin Hòa thượng Diệu Pháp giảng (qua điện thoại) cho tôi nghe, để hiểu rõ về
nhân quả. Như vậy thì tôi mới cam lòng. Dù có chết, tôi cũng phải chết cho minh
bạch! Hu hu!
Dừng một chút cho tâm tư bình tĩnh, sau đó Tần cư sĩ thuật lại cho
tôi hiểu rõ đầu đuôi cuộc hôn nhân của bà…
-“Em trai tôi từ lúc giải phóng thì bị điều vè quê. Sau đó người nhà
nghĩ cách đem nó về thành. Do vậy mà mẹ dẫn tôi đến nhà cục trưởng dề cầu giúp.
Bà vợ lão cục trưởng vừa nhìn thấy tôi thì tỏ vẻ rất nhiệt tình, hỏi dông dài
một hồi, bà liển thuyết phục chồng nên mau thu xếp việc này giúp chúng tôi.
Sau đó một mình mẹ tôi tới nhà cục trường, em trai tôi không bao
lâu được chuyển về thành.
Lúc này mẹ tôi mới sắp xếp cho tôi và con trai cục trưởng gặp
nhau, tất nhiên tôi không ưa cuộc hôn nhàn được mẹ sắp đặt (giống như đổi chác)
này nhưng do em trai tôi đã được họ giúp đểu về thành phố, nên tồi bắt buộc
phải chấp nhận gặp mặt.
Gặp nhau rồi, hai bên đều không có cảm giác và không nói năng gì.
Nhưng thấy ông ta có học thức (đã tốt nghiệp đại học và đang là cán bộ cơ
quan), nên cũng không đến nổi phản cảm.
Do mẹ tôi nhiều lần thuyết phục bảo ban cuối cùng tôi cũng ưng
thuận cuộc hôn nhân do đôi bên an bài, em trai tôi nhờ vậy mà xin được một công
việc mãn ý.
Nào ai biết, ngay đêm tân hôn, khi tân lang trút y phục ra tôi cực
kỳ kinh hãi khi thấy toàn thân ông ta nổi đầy lốm đốm, lục cục hòn hòn, nhìn giống
như phong cùi hay vảy nên vậy. Định thần nhìn kỹ, tôi chỉ muốn nôn thốc nôn
tháo ra thôi. Gã nam nhân là chồng tôi đây: trừ mặt, cổ và tay ra, khắp mình da
bị bịnh, nổi mụt sần sùi và bong lên như vảy cá. Tồi đứng như hóa đà, lòng đầy
kinh hoảng, mắt tuôn lệ đầm đìa.
Nghĩ mà xem, từ nay về sau tôi làm thế nào để đối mặt với cuộc
sống như vậy? Tôi dám chắc là các cô gái khác mà thấy tân lang kinh khủng như
thế này thì chỉ có nước xô cửa bỏ chạy. Nhưng do tôi không có can đảm đối diện
với gương mặt đầy nước mắt của mẹ, lại nghĩ đến tiền đồ của em trai và những
lời dèm chê của dư luận, xã hội… nên đành cúi đầu chấp nhận số mệnh.
Lúc này tồi mới vỡ lẽ và hiểu ra, vì sao mà gia đình “ngài” cục
trưởng lại sốt sắng nhiệt tình vồn vã giúp đỡ chúng tôi dữ vậy – Vì con trai
mình, họ đã hủy hoại cuộc đời tôi!
Sau đó tôi khuyên chồng nên đi trị bịnh, ông nói: “Hồi trước có
trị qua rồi nhưng không kết quả, nên chẳng muốn đi nữa vì không thích bị người
cười chê, rất mất mặt!” Tôi bèn mua nhiều thuốc cho ông, nhưng thảy đều không
có kết quả tốt. Tôi lại khuyên ông đi bịnh viện, thế là ông đánh, chửi tôi.
Càng khổ hơn nữa là, tôi vô phương đồng sàng cùng ông, ông vừa tới gần là tôi
đã chán ghét muốn nôn. Có thể điều này làm tổn thương lòng tự trọng, tự tôn của
ông, nên ông đối với tôi càng vũ phu thô bạo.
Lòng tôi đầy vết thương, cưới nhau chưa được bao nhiêu ngày, chúng tôi phân phòng ngủ riêng.
Sau đó tôi mang thai, sinh một con gái.
Nhưng điều khiến người ta khó hiểu là một người đã thọ qua nền
giáo dục đại học lại sinh trong gia đình cán bộ cao cấp, vậy mà ngay cả chút
tập quán vệ sinh tối thiểu anh ta cũng không có. Chén bát ăn bỏ sót đầy, quần
áo thì bạ đâu vứt đấy, cởi vớ chỗ nào thì quăng chỗ đó, mười mấy năm nay chưa
từng thay đổi. Nếu như không thúc giục, thì ngay cả tắm rửa ông cũng chẳng
màng. Đối với những tật xấu
này, tôi chỉ cản biểu hiện chút bất mãn thì sẽ lập tức lãnh ngay một trận đòn
nhừ tử.
Bên ngoài nhìn vào, ai cũng cho chúng tôi là trai tài gái sắc, là
tiểu gia đình êm ấm, nào có biết tôi đây “bề ngoài cười nụ, bề trong khóc thầm”…
Có lần tôi đi Thanh Đảo làm việc, ngụ tại một khách sạn ven biển.
Tối đó tôi nằm thoải mái trong phòng, lắng nghe tiếng sóng biển ầm ầm vọng vào,
trong hoàn cảnh lãng mạn như vậy, tôi bất giác nghĩ đến số phận của mình, không
kìm được, lệ rơi đầm đìa, tuôn ướt gối. Lăn lộn mãi vẫn khó thể chợp mắt, tôi
trách trời xanh đối xử quá bất công, đem tôi gả cho một nam nhân vũ phu, tồi tệ, đáng chán, kinh
khủng… như vậy. Lẽ nào đây là định số mà con người thường nói?
Bỗng dưng tôi nhớ tới truyền thuyết Bồ-tát Quan Thế Âm ở Nam Hải,
nghe rằng: Ngài rất đại từ đại bi, hay cứu khổ cứu nạn. Lẽ nào Ngài lại không cứu
giúp cho tôi? Vì sao số tôi khổ thế này? Ngoài song, tiếng sóng biển ầm ào gầm
vang, như thể muốn ủi an, ban cho tôi hi vọng…
Tôi ngồi bật dậy, mặc áo khoác, bước ra khỏi khách sạn, đi đến bờ
biển. Trong đêm khuya, mình tôi dạo gót chầm chậm trên bãi cát cô tịch không
một bóng người. Tôi ngước nhìn bầu trời lấp lánh ngàn sao, lòng muốn khóc nhưng
lệ không chảy nổi. Đột nhiên tôi mơ hồ trông thấy đức Quan Thế Âm cưỡi trên
lưng một con cá đứng nơi ven biển (chỗ tiếp giáp với chân trời)… giây phút này,
bao oan khuất, tủi nhục, oán hận và hi vọng… trong tôi đồng loạt trào dâng như
suối, tôi quỳ xuống trên cát, vọng hướng về phía Quan Thế Âm Bồ-tát và bật lên
tiếng khóc thật to. Lòng tha thiết mong Ngài cứu vớt, đem tôi ra khỏi chốn trần
ai khổ ải này!
Sau đó thì tôi được quen biết tôn huynh, và quy y Phật môn. Có lẽ
là trời cao dã nghe tiếng van cầu của tôi nên đáp ứng. Thế nhưng, dù tôi tụng
kinh bái Phật nhiều đến mấy, vẫn chưa khiến hôn nhân thê thảm của mình chuyển
tốt. Rốt cuộc là kiếp trước tôi thiếu chồng bao nhiêu nợ? Mà làm thế nào cũng
trả không xong?
Tôi nghe nói gia đình giám đốc Kim cũng gặp vấn đề rối rắm khó
giải, đã nhờ Hòa thượng Diệu Pháp giúp cho rồi. Vậy tôn huynh có thể hỏi giúp
giùm tôi chăng? Nếu không, tôi thực chằng thiết sống nữa!”…
Nghe Tần cư sĩ khóc kể chuyện minh mà đau lòng. Nhìn bà tinh thần
tuyệt vọng, tôi khó mả tin “ách vận sao có thể giáng xuống đầu một phụ nữ thiện
lương, hiếu thuận, đảm đang, chu toàn trách nhiệm” như vậy, càng tìm không ra
lời để an ủi bà. Tôi không thể từ chối, lại một lần nữa đành phải gấp rút gọi
điện cho sư phụ cầu trợ giúp.
Tôi ấn nút loa vang đề mọi người có thể nghe rõ lời sư phụ khai
thị. Tiếng sư phụ hiền hòa vang lên:
- “Vào khoảng 100 năm về trước, có người đàn ông dắt theo đứa con
gái nhỏ đến một tiểu trấn nọ, mở một quán ăn để sinh nhai. Mẹ bé gái này bị
bịnh, đã qua đời; chủ quán sợ mình tục huyền sẽ khổ con thơ nên quyết ở vậy.
Hôm nọ ông đi ra ngoài, trên đường về gặp thằng bé khoảng 5-6 tuổi
bị người bỏ rơi. Lão chủ bèn tính toán: “Số cơm thừa canh cặn mà khách ăn dư có
thể nuôi sống thằng bé này. Nếu bây giờ ông cứu mạng nó, thì khi lớn lên nó có
thể làm công cho ông (mà ông khỏi phải trả tiền thuê người). Thực là “nhất cử
lưỡng tiện”.
Thế là ông quyết định thu nhận thằng bé và làm một cái chuồng gia
súc bằng gỗ, mái lợp tranh (gần nhà mình) cho thằng bé ở. Hằng ngày nó giúp ông
rửa bát, quét dọn, ăn đồ thừa mà sống qua ngày.
Trong mắt lão chủ và con gái, đứa bé này bất quá chỉ là một con
vật biết nói, cho dù nó có nhức đầu cảm sốt, bị muỗi cắn trùng rỉa… chi chi thì
cũng mặc! Họ để nó tự sinh tự diệt. Nhưng tính ra thằng bé này mạng lớn, nó cứ
thế mà trưởng đại.
Thế nhưng, do từ nhỏ đến lớn không ai xem nó là người, ngoài việc
sai khiến nó tối tăm mặt mũi ra, chẳng ai thèm chuyện trò với nó. Hễ gặp chuyện
gì không vừa ý thì cha con chủ nhân lại trút giận lên mình nó, nếu không đánh
thì cũng chửi mắng, cho dù nó rất kiệm tiếng ít lời, ngờ nghệch ngốc nghếch…
Song vẫn bị đối xử rất tồi tệ.
Khi con gái đến tuổi lấy chồng, lão chủ cũng muốn chọn người ở rể,
nhưng ngẫm nghĩ ông lại sợ “mình chết rồi gia sản sẽ bị thằng rể chiếm mất’. Vì
vậy, dù có rất nhiều người cầu thân, nhưng ông cứ trù trừ, lần lựa chẳng muốn
gả con cho. Cuối cùng, ông bỗng nảy ra ý hay, ngoái dòm lại thằng mồ côi ông
nuôi bấy lâu: “Nếu như mà gả con cho thằng tớ này, thực tế nó chỉ là tên nô lệ
thuần phục con gái mình, vậy thì khỏi phải lo gia sản lọt vào tay kẻ ngoại nhân’’.
Thế là lão chủ thông minh liền an bài cho con gái một cuộc hôn nhân “vạn vô sai
thất’’.
Con gái mặc dù tuân lịnh cha, nhưng tắt nhiên chẳng chịu chung
phòng cùng chồng (là tên nô dịch ngu đần dơ bẩn), nên cô đã sống cả đời trong
tư tình phóng túng vụng trộm. Còn thằng bé thì suốt kiếp sống cảnh lao dịch,
oan khuất, tủi nhục…
Đứa con gái trong câu chuyện là Tần nữ sĩ ngày nay, còn tên nô
dịch mồ côi, chính là chồng bà hiện thời.
Tập quán sống thiếu vệ sinh, không tốt – là do tháng ngày sống
trong chuồng thú đời trước dưỡng thành – Da trên mình sần sùi ghẻ chóc (một
phần là do ác báo tiền khiên của bản thân và một phần cũng do cảnh sống trường
kỳ ở dơ, luôn bị muỗi mòng châm chích tạo thành). Tục ngữ nói: “oan có đầu, nợ
có chủ; chẳng phải chẳng báo mà là chưa đến lúc …
Nhân duyên tệ lậu từ tiền kiếp đã chiêu cảm quả báo hôn nhân thống
khổ cho Tần cư sĩ trong đời này. Kiếp trước đứa bé đã vắt kiệt sức, làm nô dịch
cho chủ nhân cả đời mà không được trả công một đồng nào, thì đời này nó đến đòi
nợ. Tần cư sĩ bị đánh bị mắng, chính là trả báo ngày xưa bà từng đánh mắng nó.
Đến như cuộc sống phu thê đời này, cũng là phiên bản của đời trước.
“Muốn biết nhân đời trước,
nhìn thọ báo đời này”. Tần cư sĩ đời
trước làm ác, đa phần là do từ nhỏ chịu ảnh hưởng phụ thân.
Đời nay bà hiếu kính mẫu thân, tâm đại thiện hiền lương, ưa nghe
Phật pháp, lại biết qui y Phật, ăn chay niệm Phật, chỉ Phật pháp mới có thể giúp bà giải quyết, chấm dứt nợ cũ.
Cho nên, xin Tần cư sĩ khi đã hiểu rõ nhân duyên đời trước rồi,
không nên sinh tâm oán hờn chán ghét đối với người chồng hiện tại nữa. Mà phải
biết nắm ngay cơ hội gặp gỡ trong đời này, thành khẩn sám hối tội nghiệp đời
trước. Sống phải thường thấy lỗi
mình, ít bàn vè lỗi người, nhất định sẽ gặp hung hóa cát, biến nạn thành an. Bà
phải tụng nhiều “Kinh Địa Tạng” và “Kinh Phổ Môn” hồi hướng cho “tên nô dịch”
kiếp trước, thì nhất định chồng Tần cư sĩ sẽ thay đổi”.
Tôi tiếp điện thoại xong, ngoái nhìn Tần cư sĩ đang ngồi yên lặng,
“mưa” trên mặt đã dứt hạt, hiện đang “trời quang mây tạnh”.
Hơn nữa năm trôi qua, Tần cư sĩ đã gọi điện đến hai lần. Một lần
hỏi về các sách kinh Phật giáo, lần khác thì kể bà hiện đang bận công việc bề
bộn, khi nào có thời gian rảnh sẽ đến thăm tôi. Nghe giọng nói của bà chứng tỏ
tâm tư đang vui vẻ.
Tôi thở ra nhẹ nhõm. Thầm cầu mong phu thê nhà bà sớm giải xong
túc oán, gia đình hòa thuận, cùng vượt qua cửa ải khó khăn.
Tưởng cư sĩ năm nay hơn 70 tuổi, thường tham gia Phật thất, nhưng
bà có chứng bịnh tim, khiến bà niệm Phật không được chuyên nhất. Nguyên do
chính là tại thằng cháu nội tên Lư (17 tuổi) thường theo ông xã bà (tuổi gần
80) kêu to hét lớn, ép bà làm những việc nó cần, từ việc thay y phục hằng ngày
cho tới cung ứng cơm nước phải “hầu nó” ngày ba bữa, thậm chí còn sai bà tới
nhà bạn học lấy những thứ nó cần.
Con trai bà điều kiện kinh tế rất khá, có ngôi biệt thự xây kiểu
hiện đại, tối tân; sở hữu điền sản, nhà, xe phong nhiêu… rất muốn thằng con về
ở chung, nhưng thằng Lư từ nhỏ chỉ thích ở với ông bà nội. Song ngày ngày nó
luôn quấy phá hành hạ, làm phiền hai ông bà đủ điều.
Bất kể ông bà nội đối tốt đến mấy, nó luôn trở mặt lật lọng, cáu
gắt vô lễ, lúc bực tức còn đá nhà đá cửa, quậy một trận văng tưng mới chịu yên.
Tưởng cư sĩ than: – Có thằng Lư ở nhà, hai vợ chồng chúng tôi dù
miệng có niệm Phật tâm cũng chẳng an.
Tôi nghe xong hết sức cảm thông và tội nghiệp họ, vì vậy bèn thỉnh
giáo Hòa thượng Diệu Pháp. Sư phụ trầm ngâm một lúc rồi ôn tồn bảo;
– “Hai Ông bà này kiếp trước cũng là vợ chồng, ngụ ở nông thôn. Họ
có nuôi một con lừa. Con lừa này bình thường giúp họ trồng trọt, chở đồ, đưa họ
ra chợ, đi về. Nó làm mọi việc rất vất vả nhưng ăn toàn rơm khô, không xứng với
công sức nhọc nhằn của nó. Lại còn hay bị chửi mắng đánh đập. Đến khi con lừa
già, họ đem nó bán cho lò mổ.
Hiện nay, thằng Lư chính là con lừa chuyển sinh làm người đến đòi
nợ họ. Hai ông bà phải nhanh chóng đến trước Phật sám hối tội ngược đãi “con
lừa kiếp xưa”, và mỗi ngày phải tụng một bộ “Kinh Địa Tạng” hồi hướng cho nó,
như vậy mới có kết quả tốt. Nếu không, tương lai cả hai sẽ bị nó làm cho tức
chết”.
Tôi đem lời Hòa thượng thuật lại cặn kẽ cho Tưởng cư sĩ nghe. Bà
cực kỳ tin và nói:
– Thằng bé này đúng là con lừa, hèn gì mà nó hay đá và tính khí
vui giận thất thường. Chồng bà bị nó chọc tức đến lên tension (tăng xông), mấy
ngày trước còn bị hành đến đau tim. Nếu nó cứ quậy theo mừng này mãi, thì chắc
chắn là cái mạng già của họ sẽ tiêu đời.
Lần này, đã biết rõ nguyên nhân của não phiền rồi, họ nhất định sẽ
làm y theo lời sư phụ dạy.
Hơn một tháng sau, Tưởng cư sĩ gọi điện tới nói:
– Tôi xin báo tin cho tốn huynh và Hòa thượng Diệu Pháp hay, tôi
và ông xã hằng ngày kiên trì tụng “Kinh Địa Tạng” sám hối lỗi đã qua trong quá
khứ, từ hồi bắt đầu tụng, tính đến nay đã 39 bộ rồi. Suốt thời gian này thằng
Lư chỉ quậy có một lần, chuyện hét la quát mắng cũng không còn. Hơn nữa, hôm
qua thầy giáo còn biểu dương, khen nó tính chất phác, ưa giúp người, thật kiến
hai người già chúng tôi mừng đến rơi lệ.
Nói xong bà buột miệng tán thán:
– Uy lực “Kinh Địa Tạng” quả là cực lớn, không thể nghĩ lường,
Phật pháp thật kỳ diệu. Hiện tại chúng tôi tu hành, tín tâm càng tăng kiên cố.
Một buổi chiều nọ Hòa thượng Diệu Pháp mới vừa an tọa, thì một vị
tóc điểm muối tiêu tiến tới quỳ xuống, chưa khai khẩu đã tuôn lệ như mưa, khóc
chẳng thành tiếng, mọi người an ủi, ông mới dần bỉnh tĩnh được chút và bắt đầu
hướng về Hòa thượng kể chuyện của mình, cầu xin chỉ dạy.
Ông vừa buồn vừa tự trách, giống như phát xuất nỗi niềm sám hối bi
ai từ nội tâm, khiến người có mặt ở đó không ai là không rơi lệ.
Ông kể mình vừa bắt đầu hướng dẫn vợ và các con bước vào đường học
Phật thì đã nhanh chóng dứt bỏ ăn mặn, toàn bộ thời gian rảnh ông đều dùng vào
việc tụng kinh hoằng pháp lợi sinh, tu tập tinh tấn.
Trước khi học Phật ông có mua một đâu máy video hiện đại, chỉ xem
qua có 4-5 cuộn phim thôi, đến nay đã 10 năm, chẳng hề động tới nữa.
Riêng truyền hình, ngoại trừ nghe tin tức ra, các tiết mục văn
nghệ khác ông cũng chẳng để mắt tới. Việc học Phật đem lại cho toàn gia ông
nhiều cái hay vô cùng, có thể nói gần 10 năm nay, trong gia đình chẳng phát
sinh điều gì bất như ý.
Điểm tuyệt nhất là cả nhà không hề vướng qua bịnh chi. Trong lúc
cùng các bạn đạo bàn luận ông thường nêu lên những cái hay về ăn chay học Phật.
Lòng đầy niềm tin và tôn kính đối với Phật.
Năm ngoái, có một bác sĩ bảo ông:
– Mười năm anh nay không ăn thịt, nhất định là thiếu dinh dưỡng,
anh tự cho mình khống bịnh, thì thấy như không có bịnh. Nhưng nếu anh đi bịnh
viện kiềm tra máu mà không có vấn đề chi thì chúng tôi sẽ niệm Phật ăn chay
theo anh!
Dưới sự cổ vũ của bạn đồng tu, ông bèn làm cuộc kiểm tra. Lúc lấy
phiếu xét nghiệm, ông hỏi nhân viên: – Huyết dịch tôi có vấn đề chi không?
Họ đáp: – Có, năm nay ống tuổi gần 60, mà máu huyết lại giống như
người hai-ba mươi tuổi, vậy là không bình thường.
Ông mới đầu hơi ngẩn ngơ một chút, sau đó bật cười. Khi đem kết
quả tới cho mọi người xem, ông bảo:
– Nếu xét theo tiêu chuẩn người ăn mặn, thì máu tôi đương nhiên là
bất thường. Nhưng tình trạng máu huyết giống thanh niên không phải là chuyện
tốt hay sao? Bởi vi suốt mười năm nay tôi không động đến rượu thịt, thuốc hút,
nên máu tôi đã được thanh lọc, tịnh hóa. Tiêu chuẩn này có thể nói là không
giống phần đông người bình thường. Chúng ta ăn chay tức là đang tịnh hóa máu
huyết mình, là phản lão hoàn đồng, là trở về với mộc mạc chân thực, khiến cuộc
sống hôm nay thân ít bịnh, hoặc không bị bịnh khổ, khiến kiếp nhân sinh hữu hạn
lại càng thêm tốt đẹp…
Nói đến đây, đột nhiên ông trầm tư một chút, mắt lại tuôn lệ.
Ông sụt sịt kể, nửa tháng trước tai họa đã giáng vào gia đình ông.
Đứa con gái ông cưng yêu nhất bỗng dưng liên tục hai ngày ăn gì đều ói, đi bịnh
viện khám họ nói nó bị ung thư bao tử.
Nhưng không thể phẫu thuật vì bịnh đã phát tán trầm trọng. Bác sĩ
nói sau này bịnh sẽ ngày càng chuyển ác, thời gian sống tối đa chỉ còn nửa
tháng. Gia đình ông nghe tin này giống như bị đấm vào đầu, ngày ngày rửa mặt
bằng nước mắt, chẳng biết làm sao. Bác sĩ nói con gái ông bịnh là do cơ thể thu
nạp ít mà làm quá sức, do lao lực tích lũy lâu ngày, thành bịnh nan y.
Ông tỏ vẻ nghi ngờ, nói:
-Thưa sư phụ, chẳng phải trong “Kinh Địa Tạng” từng giảng: lễ bái
tượng Địa Tạng, tụng “Kinh Địa Tạng” sẽ được các thiện báo như: gia trạch vĩnh
an, kéo dài tuổi thọ, tật dịch chẳng đến?… Nhưng vì sao nhiều năm nay con tụng
“Kinh Địa Tạng” và các kinh khác, mà hiện tại lại bị đại nạn ập xuống đầu như
thế? Bà nhà con nói: “Nếu như không học Phật thì chẳng đến nỗi con gái phải
bịnh nặng như vậy”.Thế này thì e rằng thân thích láng giềng vốn không tin Phật
sẽ càng dèm chê và trách um lên, thậm chí còn làm lung lay tín ngưỡng của con.
Xin hỏi sư phụ, con đã trồng nhân gì mà bị ác báo này?
Hòa thượng ngồi xếp bằng trên tràng kỹ, đôi mắt khép nhẹ như đang
lắng nghe. Thấy cư sĩ hỏi, ngài từ tốn đáp:
– Lời Phật là chân ngữ, thật ngữ, không gian dối, quyết chẳng gạt
lừa người. Nhưng vì sao nhà ông gặp đại nạn như thế? Đây phải tự hỏi bản thân
mình một chút. Như ông vừa nói, ngoài nguyên nhân do con gái ông lao lực quá độ
thành bịnh ra, bản thân ông cũng có lỗi một phần. Tuy ông siêng năng học Phật
nhưng chẳng bỏ được tính cố chấp độc đoán. Phật pháp cùng thế pháp vốn vô phân
biệt, nhưng ông lại cho đối lập nhau. Một mặt ông đem Phật pháp tích cực giới
thiệu cùng mọi người, khiến kẻ nghe pháp được lợi ích thậm chí giúp nhiều người
ly khổ đắc lạc, đó là rất tốt.
Nhưng ông cũng đem Phật pháp biến thành trói buộc, bắt vợ con
“nhốt” trong khuôn khổ do mình định lập ra. Thậm chí khi vợ con ông ra ngoài,
đi đâu, muốn trang điểm chút cũng bị ông phê bình cho một trận. Con cái ông
thỉnh thoảng nếu nghe những khúc nhạc đang lưu hành, thì xem như phạm vào đại
kỵ, có lỗi với phép tắc “đại giáo huấn” của ông, lập tức sẽ bị ông nghiêm khắc
quở trách. Nếu họ tạm có chút phản ứng, thốt lời phê bình hay tỏ thái độ không
phục, thì ông lớn tiếng quát la, thịnh nộ như sấm rền. ông lập tức biến thành
pháp quan, một bề làm vệ sĩ hộ giáo, như thể trong thiên hạ chỉ có ông mới là
người học Phật chân chính. Hễ nghe trong Phật môn có chút việc không đúng pháp,
thì ông ghim mãi trong lòng, phê tam bình tứ… Tuy ông có chánh tri chánh kiến
nhất định, nhưng mắt toàn chỉ thấy lỗi người, tâm chửa toàn thị phi phải quấy
và nhìn ai cũng thấy đều là ngoại đạo. Thế là rất sai.
Ông phải biết mọi sự trên đời đều có nhân quả, mà người chân thật
tu hành thì không nên dòm tìm, soi mói lỗi thế gian. Sai sót của ông chính là
do quá chấp trước nên đã biến tâm mình thành tâm ma, rơi vào cảnh quỷ!
Thật ra cũng có ma bên ngoài, không có gì đáng sợ. Người tu phải
thành thiện tri thức giúp mình thành Phật!
Năm xưa, lúc Phật Thích-ca làm tiên nhân nhẫn nhục để vua Ca Lợi
chặt thân thể, Ngài tuyệt không có “ngã tướng, nhân tướng chúng sinh tướng, thọ
giả tướng”… Không những tâm chẳng sinh oán hận mà còn phát nguyện tương lai
mình thành Phật rồi, người sẽ độ đầu tiên là vua Ca Lợi. Đây mới là tấm lòng và
cảnh giới, tri kiến của Phật,
Ông có biết sau khi nổi nóng hầm hè với vợ con rồi, trong lòng họ
thấy thế nào chăng? Do họ bị ông áp chế, khí oán giận không được bung ra, phải
nén cả vào trong. Hơn nữa ngọn lửa vô minh của ông, tùy theo tiêu chuẩn đạo đức
ngày càng thấp của xã hội mà càng cháy bùng dữ dội, thế là người nhà biến thành
nạn nhân, thành chỗ trút bực, trút giận của ông; họ phải chịu đựng trường kỳ
tháng, năm như thế, làm sao kham thấu?
Ông hiện giờ là một người hai mặt. Một mặt là kẻ rất có ái tâm, là
chồng tốt yêu vợ, cha lành thương con. Còn một mặt khác nữa lại là kẻ có tâm ma
hung ác, toàn gieo tổn thương trầm trọng cho quyến thân.
Giờ đây con ông vướng bịnh hiểm, ông chẳng những không phản tỉnh
đề nhìn ra lỗi mình, ngược lại còn oán trách Phật Bồ-tát không che chở chúc
phúc. Cho dù Phật Bồ- tát có đại thần thống, cũng không thắng nổi.
“Người quản tôi chưa sinh ra” (nghĩa là trên đời này, không ai có
thể quản được con). Con quá ngông cuồng kiêu mạn, tự sa vào tâm ma, quả báo vẫn
là chính mình tự thọ. Hu hu! Con luôn cho rằng mình là người chồng tốt, cha
lành. Té ra con chỉ là kẻ ôm tâm xấu hại người! Ha Ha! Vợ của con ba mươi năm
nay luôn tròn phận hiền thê, mẹ đảm, một bề phu xướng phụ tùy… Con muốn học
Phật bà cũng chịu, con bắt ăn chay (cho dù trong lòng bà không muốn) nhưng cũng
nguyện ăn chay theo con bao năm nay. Sau đó con đề xuất ngủ riêng, đoạn dục… hễ
con nói là bà vâng theo, chưa từng nghĩ đến tâm tư tình cảm của bà. Quên rằng
bà cũng là người biết buồn, vui, hờn giận… con luôn cho là mình tu rất tinh
tấn! Bây giờ con mới biết thế nào là học Phật đúng đắn! Con chính là ma quỷ
luôn đem đến áp bức, thống khổ cho người, vì con chỉ biết có mình, luôn cho
rằng cái gì mình cũng đúng, cũng hay. Không ai được phép cãi… con sống ích kỷ,
tư lợi, sống luống uổng suốt bao năm nay, hu hu!… hu hu!
Tôi trước đây chỉ nghe các bà, các cô, các má… vừa khóc vừa rên,
hôm nay lần đầu trong đời mới nghe một nam tử 60 khóc hù hụ, kể lỗi mình um sùm,
vừa khóc vừa than vừa sám hối. Nếu như ông không thật tâm sám hối, sao có thể
thốt ra những lời chẳng màng đến thể diện minh như thế?
Trong phòng khách bên phía quý bà đều bật khóc thành tiếng, còn
quý ông thi không ai là không rơi lệ.
Lúc này tôi phát hiện chỉ có sư phụ là điềm nhiên đoan tọa, đôi
mắt hơi khép của ngài khẽ động đậy. Trong lòng tôi bỗng nổi lên nghi vấn trước
tình huống cảm động nay vì sao sư phụ không chút xót thương mà cứ ngồi bất động
như thế? Sao ngài không mau mau nghĩ cách phá giải giúp cho họ?…
Bỗng sư phụ khai khẩu, nhưng chẳng hê mở mắt, tuy âm thanh ngài
không lớn, nhưng có đủ sức mạnh khiến các tiếng khóc nghẹn ngào ngưng bặt ngay:
– Ta đâu có nói là con gái ông nhất định phải chết! Sao ông chẳng
hỏi phương pháp cầu sống?…
-Dạ??…
Không khí trong phòng như ngưng đọng, mọi âm thanh hoàn toàn im
bặt.
Lão cư sĩ bỗng quỳ mọp trước sư phụ, dập đầu lia lịa nghe vang thành
tiếng, tại hiện trường mọi người đều quỳ xuống hết…
Sư phụ giống như không nhìn thấy cảnh tượng xúc động này, vẫn bình
tĩnh từ tốn nói:
– Phật pháp là diệu pháp, “tất cả duy tâm tạo”, tâm có thể khiến
ông đọa địa ngục, có thể khiến ông thành Phật, có thể khiến ông bị bịnh, tử
vong, cũng có thể khiến ông hóa giải hàn băng, chuyển nguy thành an. Chú Đại Bi
là thuốc hay vạn năng, khéo trị tám vạn bốn ngàn chứng bịnh. Nhưng cần phải sám
hối chân thành thì tác dụng thuốc mới phát. Nếu như con gái ông lành bịnh rồi,
ông có còn nóng nảy, độc tài, áp bức… nữa chăng?
– Quyết không! Con sẽ không dung dưỡng các tật xấu đó nữa, con sẽ
đổi mới, làm lại từ đầu.
– Được! Tốt lắm! Nếu muốn thành Phật, trước phải thành người hoàn
mỹ. Phật đối với tất cả chúng sinh đều từ bi. Phật là bậc đại giác, có thần
thông trí huệ cao tột, nhưng Ngài chưa bao giờ nổi nóng cáu giận với đệ tử,
chưa hề la hét chửi mắng ai. Pháp Phật giảng là giúp người minh lý, hiểu rõ đạo
rồi, thì trong sinh hoạt ngày thường, trong công việc thực tiễn luôn thực hành
Phật pháp. Đây gọi là “minh lý tức sự”. Chúng ta ngày ngày đều gặp rất nhiều
việc xảy ra ngoài dự tính, bởi vì quý vị đã minh lý, đã hiểu Phật pháp, cho nên
không để những cảnh đó chuyển, mà sẽ như pháp giải quyết, xử lý sự việc, đây
chính là “minh lý tức sự”.
Người tu hành mà phát cáu, nóng nảy hét la ỏm tỏi là tối đại kị,
có câu: “Lửa sân thiêu hủy rừng công đức” tuyệt không phải là lời hư vọng. Đã
là đệ tử Phật mà không sửa đổi, không từ bỏ tính xấu này, thì cho dù cả ngày
tụng nhiều bộ kinh, giảng pháp nhiều lần, độ biết bao người học Phật, thì bản
thân cũng không ra khỏi tam giới. Để cho tính khí nóng nảy sân giận bộc phát là
biểu hiện bản thân mình đang quá vô minh! Vô minh nghĩa là không sáng, bản thân
quý vị Phật pháp không sáng tỏ, thì làm sao có thể độ người viên mãn được?
Trong thời đại hiện nay, con trai con gái, chỉ cần có chánh tri
chánh kiến, có thể giữ ngũ giới thập thiện, thậm chí có thể ăn trường trai, đều
là việc khó làm, rất hiếm, rất quý. Nếu như ông cứ chấp nhất cứng cỏi, vì cầu
toàn mà khư khư đem giới luật của người xuất gia, áp đặt cho hàng tại gia, rồi
ép buộc, quở trách họ, như thế là quá ngu si, đây giống như “kéo mạ thúc lớn”,
làm vậy chỉ khiến người lánh xa Phật pháp, biến Phật pháp thành khủng bố, đe
dọa, áp bức…
Chẳng phải Lục tổ từng giảng: “Nếu lìa thế gian tìm con đường giác
ngộ thành Phật, giống như tìm sừng thỏ, vĩnh viễn không tìm được”.
Con gái ông ra ngoài, có thể điểm trang chút ít hay mặc y phục
lịch sự xinh đẹp, có thể cùng chúng bạn thưởng thức những ca khúc đang lưu hành
(miễn là nội dung âm nhạc lành mạnh, có ích)… thì đều được cả. Không bắt buộc
họ phải suốt 24 giờ niệm Phật mới là tinh tiến. Ông phải hiểu rõ Phật pháp như
thế này: tự thúc liêm ngôn hạnh, giữ gìn tác phong của mình chuẩn mực
cũng chính là niệm Phật! Sống trong thế gian, đối diện mọi hình sắc cảnh
duyên phải luôn có con mắt sáng suốt biết tuyển trạch pháp nhãn, “ưng vô sở trụ
mà sinh kỳ tâm”. Mỗi ngày, buổi tối trước khi ngủ, ông nên sắp xếp tĩnh tọa
chừng 40 phút, niệm Phật hoặc trì chú, hay tu pháp môn nào đó hợp với mình,
nhằm giúp tĩnh tâm, mục đích giải trừ mỏi mệt cả ngày, cũng tính là khóa tu tối
thường nhật.
Được rồi, chúng ta đã minh bạch chân tướng vũ trụ, tức là nhìn
thấu phá. Nhìn ra rồi thi phải buông. Nếu như nhìn thấu phá mà chẳng buông, thì
ông so với hàng tục nhân chưa nhìn thấu, càng chẳng tự tại, bởi vì trong lòng
ông ngoài tám vạn bốn ngàn phiền não trần lao ra, còn bị áp lực Phật pháp đè
nặng.
Bây giờ xin chư vị hãy buông tất cả hết, để được đại tự tại.
Mỗi cá nhân nên quý người bạn hữu duyên ở bên cạnh mình, là đệ tử
Phật, ta đối với động vật có thể sinh lòng từ bi, vì sao lại cư xử vô tình với
người bên cạnh, làm tổn hại thân nhân mình?
Ông bao niên kỷ mới tin Phật? Bao nhiêu tuổi mới tri giới? Có cư
sĩ tin Phật mấy mươi năm rồi, đến nay chẳng phải vẫn còn ăn tam tịnh nhục ư? ở
đây tôi không nói đúng hay sai, mà chỉ nói vấn đề thời cơ, nhân duyên thôi, hễ
trăng đến rằm thì tròn.
Cả nhà ngồi chung một bàn, có kẻ ăn thịt uống rượu, có người ăn
chay tin Phật, thế thì một bàn cứ chia hai mâm, chẳng có gì là không đúng. Thế
giới này chính là một bàn nhiều mâm mà. Lục tổ trong hoàn cảnh thắt ngặt đặc
biệt vẫn phải phương tiện ăn rau cạnh thịt, rau ấy có dính vị thịt chăng? Chẳng
ảnh hưởng đến việc thành tổ của ngài.
Không nên vừa hiểu chút Phật pháp, liền lập ta ở trỏng ròi khoa
chân múa tay làm… cảnh sát trong Phật giáo, một bề kiểm soát áp đặt, bắt bẻ
lung tung. Đến khi ác quả thành hình thì hối hận đã muộn!
Đạo Thiên Chúa, Tin Lành giảng bác ái, đây cũng là quan điểm của Phật
giáo. Chúng ta cần dùng tâm Bồ-đề bác ái của Phật cảm hóa chúng sinh tiến vào
Phật môn, chứ đừng dùng phương pháp tranh đấu, chỉ trích, quở mắng, rầy la.
Được rồi, cư sĩ mong giúp con gái ông chuyển nguy thành an? Thì 8
giờ sáng mai ông lên đại điện bắt đầu lễ Phật, tụng 7 biến “Sám Đại Bi” hồi
hướng cho pháp giới chúng sinh. Xin ông nhớ nhắc con gái, ngày mai cháu ở nhà
bản thân cũng phải bắt đầu tụng “Kinh Địa Tạng”, tụng cho đến khi cháu hoàn
toàn bình phục, và từ đây về sau cháu hãy chuyên tụng “Kinh Địa Tạng”.
Còn phần ông, ngày mai lễ xong “Sám Đại Bi” rồi, thì bắt đầu lễ ba
bộ “Lương Hoàng Sám”. lúc bái sám phải dùng tâm thành lễ bái (giống như ông vừa
thành tâm sám hối hồi nãy đó), nếu không thành tâm – thì sám hối tụng chú gì
cũng chẳng linh – Phải khắc cốt ghi tâm, thành ý hết lòng mới có thể chiêu được
cảm ứng “chấn thiên động địa”. Phần các cư sĩ, quý vị có chịu làm công đức này
không?
– Chúng con đồng ý ạ!
Âm thanh hồi đáp vang vọng làm rung chuyển cả mặt kính lưu ly
trong phòng.
Hòa thượng mỉm cười, nụ cười hoan hỉ như trẻ thơ, khuôn mặt tuổi
tác của ngài tươi như đóa sen mùa hạ, khiến mọi người xúc động, chiêm ngưỡng
không rời.
Các đệ tử đều biết Hòa thượng xưa nay không hề vọng ngữ, chỉ cần
bạn làm y theo lời Ngài dạy, thì sẽ ly khổ đắc lạc.
Trước khi kết thúc, Hòa thượng ngâm một bài thơ cho người suy gẫm:
Không tức sắc, sắc tức không
Phật pháp diễn giải vô cùng thâm sâu
Đem thân hành pháp nhiệm mầu
Giúp người tỉnh giác tiêu sầu hết mê
Trong biển khổ hiện Bồ-đề
Muốn thành Phật phải oai nghi thiện lành
Độ mình độ khắp chúng sinh.
Học gương hoan hỉ, thấu tình cảm thông
Lòng bao dung tợ hư không
Có đi có đến, chẳng căng, chẳng dùn
“Trung đạo’’ hữu hiệu vô cùng
Rất là thích hợp nên thường hành luôn.
Khi Hòa thượng Diệu Pháp dẫn tôi đến một đại đạo tràng nọ, thì Sư
bà trụ trì Ni tự này kể cho Hòa thượng nghe nơi đây có hai Sa-di ni, khoảng hơn
hai mươi tuổi, tướng mạo trang nghiêm, trước khi xuất gia họ đều đã tốt nghiệp
đại học, có bằng thạc sĩ. Sau khi họ phát tâm xuất gia rồi, thì tụng niệm bái
sám, kinh điển thuộc mau, các oai nghi, mỗi mỗi đều ổn. Lẽ ra hai cô này có thể
nổi bật xuất sắc trong chúng, nhưng ngặt nôi họ mắc phải chứng bịnh… “đồng tính
luyến ái” mà trụ trì khuyên mãi không được.
Xin gọi họ là ni X và ni Y. Mới đầu hai cô này chẳng ai lìa ai,
ngủ thì nằm sát đơn nhau, đứng đâu cũng đứng cùng, lên điện tụng kinh sớm tối
thì một trước một sau, vào Thiền đường thì cũng ngồi kề bên nhau.
Thậm chí ngay cả đi rửa tay hai người cũng chẳng phân ly. Mới đầu
đại chúng chẳng để ý, nhưng lâu dần, trong chúng bắt đầu lưu tâm, phê bình. Bởi
vì khi Trụ trì phái một trong hai người đi làm việc, thì người kia nhất định
phải đi theo, nếu không cho, thì làm ầm lên.
Lần đó thấy vấn đề tuy không nghiêm trọng nhưng lại ảnh hưởng đến
sự thanh tịnh trong đạo tràng ni chúng; mặc dù cả chúng ngoài miệng không nói
gì, nhưng thường để mắt đến họ, cũng không phát hiện họ có hành động gì phạm
thanh quy.
Sư Trụ trì đã nhiều lần khuyên nhủ hai cô. Sau khi góp ý phê bình
xong, thì ni X bắt đầu lánh xa ni Y, nào dè lại phát sinh việc không hay. Ni Y
không chịu nổi cảnh ni X lánh xa mình, nên giữa hai người xảy ra gây cãi, mặc
dù họ không dám lớn tiếng làm ồn, nhưng cả hai thường gây nhau đến đỏ mặt tía
tai. Có tranh cãi cho lắm, Y vẫn không chịu để X xa mình nửa bước, cứ theo kè
kè giống như mẹ che chở con đi trên đường vậy.
Theo như hai cô kể, tình cảm bọn họ có từ thời trung học, bắt đầu
quen là thân ngay. Có thể nói rằng “vừa gặp mặt đã thấy thương liền”. Từ lúc
quen biết đến giờ họ chưa hề xa nhau. Vào đại học cũng chung trường, ở ký túc
xá sinh viên dù người giường trên kẻ giường dưới, nhưng hai người vẫn thường
ngủ chung. Chỉ cần X ở ngoài tầm nhìn của Y là trong lòng Y rất bất an. Ni Y
thưa với Trụ trì rằng:
– Con cũng cảm thấy như vậy là không bình thường, nhưng vô phương
khống chế nội tâm mình.
Do vậy mà sư Trụ trì hi vọng Hòa thượng Diệu Pháp có thể giúp giải
quyết vấn đề khó khăn này.
Hòa thượng trầm ngâm một lúc rồi kể:
“Cách đây ba đời, bọn họ từng là mẹ con: mẫu từ, tử hiếu.
Kiếp thứ hai thì họ tái sinh làm phu thê quan hệ càng khắng khít,
như keo sơn quân quýt không rời suốt cả một đời. Do tâm dâm ái sâu nặng, nên
kiếp vừa rồi họ sinh làm đôi chim yến, sớm tối chẳng lìa nhau.
Đôi chim yến này làm tổ nơi cây đại thọ trước chùa, nhờ vậy mà
ngày ngày được nghe kinh thính pháp, nên đời nay có thể cùng chuyển sinh làm
người, cùng mang thân nữ, có trí thông minh, nhớ dai, lại được đồng xuất gia tu
đạo.
Nếu tu hành tốt, đời này họ có thể liễu sinh thoát tử. Nếu như tâm
cứ mãi đắm chìm trong tình ái sâu đậm từ nhiều đời đến nay chẳng thể buông bỏ,
thì kiếp sau nhất định họ sẽ đọa địa ngục, có muốn tiếp xúc với Phật pháp cũng
khó được”
Kể xong Hòa thượng đáp ứng lời sư Trụ trì thỉnh cầu, đặc biệt khai
thị cho hai cô Ni kia.
Khi hai cô hiểu rõ nhân duyên của họ rồi. lập tức phát nguyện
buồng bỏ hết. Họ cùng lên đại điện xin sám hối, phát thệ sẽ tu hành tốt.
Người ta ai cũng ưa phát tài, có người biết nắm lấy cơ hội nên
“tâm muốn, sự thành”. Có người tùy khả năng mà vươn lên theo thời, nỗ lực phấn
đấu, dốc hết cả đời, cuối cùng cũng thành tựu. Có người dù tích lũy lắm tiền
của, tuy được tài phú nhưng không bền lâu, vì “sai lầm một chút mà ôm hận thiên
thu”.
Hơn mười năm nay tồi theo hấu Hòa thượng Diệu Pháp, chứng kiến
nhiều người đến thỉnh giáo ngài vắn đề này, vì vậy tôi tuyển chọn hai câu
chuyện có thực tiêu biểu, chia sẻ cho độc giả nghe.
Như đã thuật trong quyển Báo ứng Hiện Đời tập 1, nơi mục: “Pháp
ngữ của Hòa thượng”có cư sĩ hỏi:
– Làm sao để tụ nhiều tiền tài, nhằm giúp kiến thiết đạo tràng…?
Hòa thượng đã dạy: -“Tiền tài như củi, tụ nhiều vô ích, chỉ cần
cho một mồi lửa là chiêu họa đốt thân. Củi dễ tìm, cản thì lượm nhặt, nhưng
không nên tham, vì tiềm ẩn họa ở trong”…
Thực ra, câu chuyện này còn nửa phần sau chưa kể hết… Vì sao cư sĩ
này thỉnh giáo, muốn tụ nhiều tiền tài để xây cất chùa? – Bởi ông là một người
giàu có, sự nghiệp cực kỳ thành công –
Mời quý vị xem câu chuyện dưới đây:
Gia đình ông Trình có ba người, sau khi qui y Phật rồi thì giữ
giới rất nghiêm. Nhà ông giàu có ngàn vạn, lại một bề trì giới chu toàn, khiến
mọi người rất kính phục. (Xem ra phú quý học đạo cũng không khó? Mấu chốt nằm ở
chỗ bạn có huệ căn và cùng Phật có duyên hay chăng thôi).
Con trai của ông là Trình Vĩ vừa mới lên cao trung. Ngày nọ tan
học chàng ra về cùng các bạn, trong nhóm có bạn X đang đói bụng, nên đã mua một
cái bánh nướng, vừa mới cắn một miếng, thì X nhổ ra ngay rồi vứt miếng bánh ra
xa.
Trình Vĩ hỏi:
– Sao lại ném bánh đi?
X nói:
– Dở quá! Ăn không ngon.
Đang trả lời thì X đi đến gần cái bánh vừa ném đó. Thuận chân anh
đá nó văng ra xa thêm mấy mét nữa. Trình Ví vội chạy đến lượm cái bánh lên, đưa
cho bạn, ôn tồn nói:
– Đừng có vứt bỏ bánh như vậy rất uổng, bạn hãy ăn đi nha. Lãng
phí lương thực là có tội nhiều lắm đó!
X cười khẩy, bảo:
– Bánh này tôi mua, không ưa thì ném đi, có tội gì chứ hả? Nếu anh
sợ lãng phí thì tự mà ăn đi!
Trình Vĩ nói:
– Vậy tôi ăn thay anh nha!
Nói xong, liền ăn cái bánh đó. Khi mẹ Trình Vĩ mách Hòa thượng
chuyện này, mắt bà đỏ lên. Bà nói mình đã khóc khi nghe con trai thuật lại cảnh
trạng đó.
Hòa thượng nghe xong, nhìn thật lâu vào cậu con đang ngồi im lặng
bên mẹ, mỉm cười khen:
– Con trai ngoan, học tập giỏi, tiền đồ xán lạn vô cùng a!
Ba Trình Vĩ nói:
– Trình Vĩ ngày nhỏ rất ưa tĩnh tọa, có lúc nó chơi đùa trong nhà,
khi tìm thì chẳng thấy đâu. Do chẳng nghe tiếng mở cổng lớn, nên con và mẹ nó
rất thắc mắc, cùng đi tìm thì bỗng nghe tiếng động trong tủ quần áo. Chúng con
mở tủ ra, nhìn vào thấy thằng bé đang ngồi xếp bằng trang nghiêm trong đó, mắt
nhắm, miệng chẳng nói lời nào, nhưng giống như đang niệm gì đó. Con kéo cháu
ra, hỏi:
– Ngồi trong đây làm chi?
Nó đáp: – Con không biết.
– Thưa sư phụ, Ngài nói xem, thằng bé này có duyên với Phật phải
không? Nó luôn nói tương lai mình không kết hôn, chẳng thèm chuốc phiền làm
chi.
Hòa thượng bảo:
– Đúng đấy! Các ngươi ráng nuôi dạy nó cho tốt, để nó làm thiện
tri thức cho Phật giáo, tương lai sẽ cống hiến rất lớn cho đạo.
Ba Trình Vĩ nói:
– Con có một việc nghĩ hoài không hiểu, ôm thắc mắc mãi suốt bao
năm nay. Xin thỉnh giáo sư phụ. Con vốn chỉ có tấm bằng cao trung, sau đó gặp
cơ hội, chỉ tính làm ăn nhỏ thôi, ngờ đâu việc hết sức phát đạt, thuận lợi vô
cùng, mãi cho tới giờ. Sự nghiệp quá thành công có lúc khiến bản thân con cũng
lấy làm lạ. Vì có nhiều người bằng cấp rất cao, lại cực kỳ thông minh, thậm chí
ra làm việc sớm hơn con, nhưng trước sau không phát, hoặc có hưng thịnh được
mấy năm thì bị suy sụp, còn con thì không những phát đạt thuận lợi, mà còn may
mắn được gặp Phật pháp, biết niệm Phật, tụng kinh, in ấn kinh, tạo Phật tượng…
công việc làm ăn ngày càng tốt. Đây không thể nói là không có phúc báu. Sư phụ
có thể giảng cho con hiểu, con đã trồng nhân tốt gì trong quá khứ mà được kết
quả như hôm nay chăng?
Sư phụ nói:
– Vấn đề này phải do chính mình tự tham thiền, công phu đạt, thì
sẽ hiểu minh bạch thôi. Chắc hẳn anh làm ăn, từ sáng đến tối toàn lo kiếm tiền,
không có thời gian tĩnh tọa? Để cháu Trình Vĩ và mọi người hiểu rõ nhân quả,
tôi sẽ kể cho nghe một câu chuyện:
“Thời Phật Thích Ca Mâu Ni trụ thế, lần nọ, có hơn ngàn vị đệ tử
Phật đang ngồi trong giảng đường, chăm chú nghe Ngài thuyết pháp. Khi đó có một
vị Tỳ kheo ngồi ở tận ngoài cùng, gần cổng lớn, Trong bụng đột nhiên vang lên
tiếng sôi rồn lột, nhưng do các Tỳ kheo quanh đó đang chú tâm nghe pháp nên
không ai để ý. Vị Tỳ kheo này bỗng nghe phía sau mình có tiếng cười, liền quay
đầu lại dòm, thì thấy ngoài cổng có một bé trai khoảng 9 tuổi đang cười hi hi,
mồm đang nhai gì đó, tay còn cầm nửa cái bánh, nhỏ tiếng hỏi:
– Sư đói hả?
Tỳ kheo gật đầu. Thế là thằng bé tặng nửa cái bánh cho vị Tỳ kheo
rồi xoay mình bò đi chơi tiếp”.
Hòa thượng bảo ba Trình Vĩ:
Đứa bé đó là tiền thân của anh, do biếu vị tỳ kheo nửa cái bánh
đang lúc đói lòng, giúp ông ta vững tâm nghe pháp, công đức này hết sức lớn.
Đây chính là nguyên nhân khiến đời này anh giàu có sung túc.
Trong “Kinh Địa Tạng” nói: “Đời vị lai nếu có thiện nam thiện nữ,
ở trong Phật pháp, trồng chút thiện căn bằng hạt cát, mảy tơ, sợi tóc, thì phúc
lợi được hưởng không thể ví dụ… Trong đời vị lai, nếu có thiện nam thiện nữ gặp
kinh điển đại thừa, hoặc nghe một câu, một bài kệ, phát tâm ân trọng, tán thán
cung kính, bố thí cúng dường, thì người đó được phúc báu lớn vô lượng vô biên,
nếu có thể hồi hướng cho pháp giới, thì phúc này không thể ví dụ’.
Đứa bé kia do hiếu kỳ mà đến cổng giảng đường nghe mấy câu Phật
pháp, có thể bé chẳng hiểu rõ nghĩa lý, nhưng trong nhiều đời sau, từ đó đến
nay, nhân duyên chín mùi, bé không những thảnh đệ tử Phật, mà còn rất giàu có,
chính là anh đấy.
Phải biết vị Tỳ kheo được bé tặng nửa cái bánh lót dạ lúc đói
lòng, nhờ vậy mà vững tâm nghe pháp Phật, được khai ngộ và chứng quả. Nhân đây
mà có duyên với anh, biết đâu chừng đời này cũng đến tụ hội hoặc cùng anh gặp
gỡ, chung sức hoằng dương Phật pháp… Chỉ cần anh không ngừng tu tinh tấn, chịu khó
tham thiền tĩnh tọa, sẽ có ngày anh hiểu rõ hết.
Còn những người làm ăn mà sự nghiệp không thành công, đa phần do
đời trước hoặc đời này họ không chịu bố thí, hoặc đã từng tạo nhiều chướng ngại
khác. Muốn chuyển biến vận mệnh thì phải biết cách bố thí, làm nhiều việc từ
thiện ích quốc, lợi dân… và nhất là không nên sát, đạo, dâm, vọng. Thực hành
trì chí bền tâm thì có ngày sự nghiệp sẽ thành.
Những người giàu sang mà sau đó tiền tài bị tán thất, đa số là tại
họ tiêu tiền tạo nghiệp mà ra. Chẳng hạn như: tạo nghiệp tà dâm hừng thịnh, vì
muốn ăn ngon sướng miệng mà tạo lắm sát nghiệp… hoặc là họ kiếm tiền bất chánh
(thí như kiếm tiền bằng cách tạo các nghiệp sát, đạo, dâm, vọng). Một khi nhân
duyên chín mùi, ác báo sẽ hiện tiền. Cho nên những ai làm ăn sinh sống theo
nghiệp tà, thì nên sớm chuyển nghề, phải gìn giữ thân, khẩu, ý, sửa đổi hành vi
xấu, sám hối tội lỗi, bỏ ác hành thiện…thì sẽ thay đổi được ác báo vị lai”.
(Tiếp theo là câu chuyện thứ hai cũng liên quan đến CON ĐƯỜNG LÀM
GIÀU):
Nghiêm Đại cư sĩ là nhân vật khá nổi tiếng đối với các tự viện
trong nước. Sở dĩ người ta gọi ông là “Đại cư sĩ”, là do ba điều: Thứ nhất: ông
rất giàu, sở hữu nhiều hãng tiệm khắp các thành phố lớn trong nước. Thứ hai:
hùng tâm in kinh tạo tượng cúng dường bố thí cực kỳ mạnh. Thứ ba: tính khí nóng
nảy cũng bự tương đương…
Người như Nghiêm Đại cư sĩ đây, tôi đã sớm nghe danh, nhưng bây
giờ mới có dịp quen biết, khi ông đến bái kiến Hòa thượng Diệu Pháp.
Ông khoảng chừng sáu mươi mấy tuổi, nhưng đầu tóc bạc trắng hết.
Thoạt nhìn, thấy ông chẳng có phong độ đại gia chi, ngược lại còn giống hệt một
người làm công già thoái hưu. Ông mặc cái áo lạnh màu lam, quần cũng màu lam
nhưng nhăn nhúm, chân mang giày du lịch, mà giầy cũng nhếch nhác.
Bề ngoài lôi thôi này ít khơi gợi sự chú mục của người. Nhưng vì
tôi đã nghe nhắc nhiều về thành tích của ông, vốn nổi danh là kẻ “xem kim tiền
như rác rưởi”, tính rất hào phóng rộng rãi. Có người kể: ông có một tượng Phật
bằng vàng, rất quý, chỉ cần khách đến thăm tán thán ngưỡng mộ, ngợi khen… là
ông liền hai tay bưng tặng, dâng cho. Hễ gặp kinh sách Phật giáo hay thì lập
tức cho sắp xếp in ấn, số lượng ít nhất thì cũng phải đầy một Container hai
mươi tấn. ông mà đến chùa nào, chỉ cần phát hiện bàn ghế chén mâm… (nghĩa là
thấy vật dụng chùa Không đủ dùng hay bị hư hao), thì lập tức bỏ ra số tiền kếch
xù để ủng hộ.
Sau này ông tuyên bố: -“Bây giờ tôi không đưa tiền nữa mà sẽ trực
tiếp mua vật chùa cần đem tới”. Bởi vì từ khi ông phát hiện trong tự viện có cư
sĩ nhận tiền ông xong, không những chẳng mua đồ mà còn biến mất tăm.
-Tôi cúng dường mà tạo dịp cho họ xuống địa ngục thì tôi cũng có
tội, nên từ nay về sau tôi chỉ cung ứng đò chứ không đưa tiền! – ông trợn mắt,
nói với vẻ rất tức giận –
Ông còn vì ngôi chùa nọ tạc một tôn tượng Quan Thế Âm cao 22m bằng
gỗ thơm, cho thếp vàng toàn bộ là hai kí, tiêu hơn trăm vạn nhân dân tệ.
Hòa thượng Diệu Pháp mời ông ngồi, hiền hòa hỏi:
– Sớm đã nghe nói về ông, có chuyện gì mà muốn tim ta, hiện tại
ông đã thoái hưu rồi có phải không?
Nghiêm cư sĩ kể hai chân minh đi đứng khó khăn, cảm giác rất nặng,
ngoài ra còn bị nhức đầu máy mươi năm nay, đã khám đủ các bịnh viện nổi danh
trong nước lẫn ngoài nước, tốn bộn tiền, nhưng không hiệu quả.
Ông cũng có bái thỉnh mấy vị Phật sống Tây tạng, xin quán đỉnh
cho, nhưng cũng không dứt được chứng nhức đầu. Hiện tại ông giao xí nghiệp
cho các con quản, tự mình niệm Phật, tới lui các tự viện. Thực tế là muốn cầu
chư Phật Bồ-tát gia trì cho bịnh thuyên giảm nếu không, ông án ngủ đều bị phiền
muộn, cho nên hay phát cáu bực.
Ông thành thật thưa với sư phụ:
– Con thừa hiểu tiền tài thế lực dù lớn cũng không thắng nổi
nghiệp lực, không giúp giải hết ưu tư. Cho nên mấy năm nay con tận lực làm chút
việc cho Phật giáo, hi vọng tương lai lúc ra đi có thể yên lành vãng sinh không
thống khổ. Đọc cuốn “Báo ứng Hiện Đời’’ rồi con mới biết danh sư phụ, thông qua
nhiều mối giao lưu, dò la dữ lắm mới rõ được chỗ Ngài cư trú, nên mạo muội tìm
đến bái kiến… Con cũng hiểu Ngài bế quan tu không tiếp khách, nhưng con vẫn cố
chấp, ráng tìm đến trước cửa, xin Hòa thượng từ bi hiểu cho mà tha thứ, con một
mực rất muốn biết, tại sao con vì Phật giáo tạo nhiều công đức lớn nhỏ có đủ,
thậm chí đã ăn chay bao năm nay, chẳng những bịnh nhức đầu không lành mà chân cũng
có vấn đề, mong Hòa thượng từ bi khai thị.
Hòa thượng bảo:
– Cư sĩ chẳng nên khách sáo, tồi sở dĩ không tiếp khách là vì khí
lực chưa đủ. Lúc sách “Báo ứng Hiện Đời” chưa ra, tôi có thể tùy duyên mà giảng
nhân quả để cảnh tỉnh thế nhân. Nhưng khi sách ra rồi, lại thành giống như
“quảng cáo” về tôi, khiến nhiều độc giả không minh bạch đạo lý, chỉ biết hướng
ngoại cầu, đi khắp nơi tìm Hòa thượng Diệu Pháp, biến tôi thành thần y, làm vậy
là quá sai lầm. Nếu như không biết hướng nội cầu, tự sửa ngôn hạnh cho minh
chánh, thì dù có gặp Quan Thế Âm Bồ-tát, cũng không thể ly khổ đắc lạc.
Những chuyện khác của ông tôi không cần bàn, trình độ văn hóa ông
không cao, nhưng ông biết tại sao sự nghiệp mình quá thành công không?
Nghiêm cư sĩ đáp:
– Dạ… đây là nhờ chính sách tốt của quốc gia.
Sư phụ bảo:
– Nói thế chỉ là duyên phụ, một phần nào thôi, toàn quốc người mở
xưởng làm ăn rất nhiều, nhưng thành công như ông đây có rất ít.
Nghiêm cư sĩ hỏi:
– Vậy… nhất định là nhờ nhân gieo đời trước của con?
Sư phụ nói:
– Vì sao ta nhắc việc này với ông? Bởi nó liên quan đến chứng nhức
đầu của ông. À, vợ ông vì sao không đi theo hả?
– Vốn là vợ con cũng định đi, nhưng do trong nhà có nuôi một con
chó Đức. nếu bà đi thì không ai chăm sóc nó. Thưa sư phụ, vi sao ngài hỏi về bà
ấy?
Sư phụ nói: – Bởi vi ông đi đâu vợ ông đều quấn quýt đeo theo mà?
Nghiêm cư sĩ cười đáp:
– Dạ đúng vậy! Con đi đâu bà cũng đòi theo, xa một chút thì không
yên tâm, có lúc con cũng cảm thấy hơi phiền…
Sư phụ nghiêm trang nói:
– Ta kể cho ông nghe một chuyện được không? Nhưng nghe rồi không
được nổi giận đấy!
Nghiêm cư sĩ cung kính thưa:
– Dạ không dám đâu ạ. Con đã xem qua “Báo ứng Hiện Đời”, chính vì
nghe Ngài giảng như vậy mà tìm tới. Nói xong liền lễ ba lạy.
Sư phụ kể:
-“Cách đây trăm năm, có một cậu bé mồ côi khoảng mười mấy tuổi, đi
xin ăn rồi trôi giạt đến ngôi chùa nằm lưng chừng núi. Hòa thượng trụ trì hỏi
thăm thằng bé, thấy nó bơ vơ không chỗ nương, nên tội nghiệp thu nhận, cho nó
ngụ tại một gian phòng trống trong chùa, làm tạp vụ, lúc cần thì cũng sai nó
xuống núi đi chợ.
Sau đó chẳng biết nó nhặt được ở đâu một con chó vàng, một tối nọ
dẫn về ở chung. Lúc nào nó xuống núi thì có con chó đi theo bầu bạn, giúp tăng
thêm can đảm. Mỗi khi nó về đến chùa thì con chó vàng luôn tiến đến trước, đập
cửa sủa “gâu gâu” gọi người giùm. Ban đêm cậu bé và con chó ngủ cạnh nhau. Cả
hai cùng nương nhau mà sống.
Mỗi mồng một hay ngày rằm, thường có nhiều thiện nam tín nữ dưới
núi lên viếng chùa, nhìn thấy gái, trai già trẻ hân hoan bái Phật thắp hương,
vui đùa hớn hở, cậu bé càng thêm thèm thuồng ước ao, tự cảm thán và hay nói với
con chó:
– Tao tương lai chỉ cần cưới được cô vợ nghĩa tình cỡ như mày là
tốt rồi, ngày ngày quấn quýt đeo theo tao, bầu bạn rất tuyệt!
Lại một hôm, khách ra về cả rồi, trong lòng cậu có chút thắc mắc
liền lên đại điện thắp hương, đứng trước tượng Phật, cậu ngẩng đầu chiêm ngưỡng
từ dung tôn nghiêm rất lâu, rồi tự lẩm bẩm một mình:
– “Đức Phật ơi! cũng chẳng biết Ngài có thật hay không? Nếu như mà
thật có, thì Ngài hãy cho con giàu một chút, có thể sở hữu các thứ chi đó”…
Đang nói đến đây thì cậu bỗng nghe tiếng Hòa thượng vang lên phía
sau:
– Chẳng phải là ngươi đang mơ ước phát tài sao?
Cậu quay đầu lại, thưa:
– Bạch sư phụ, ai mà không muốn phát tài chứ hả, nếu mà con giàu
thì có thể thành gia lập nghiệp rồi…
Hòa thượng bảo:
– Đúng! Sung túc thì có thể thành gia lập nghiệp, nhưng bất kể
giàu sang đến mấy, người ta ai cũng phải già, bịnh, và sớm muộn gì cũng chết
trong tiếng khóc vĩnh biệt tiễn đưa của con cái, ngươi xem có đúng vậy không?
Cậu nghe sư phụ nói, ngẩn ngơ một lúc rồi thưa:
– Như thế thì dù con giàu cũng chẳng sướng được bao nhiêu năm, một
khi bịnh, chết đến… thì vẫn khổ ư?
– Đúng vậy! Bất kỳ ai cũng không trốn thoát quy trình “sinh, lão,
bịnh, tử’. Tới lúc chết thì vẫn phải ra đi trắng tay, thây vùi xuống mộ, rục
rã… rồi cuối cùng biến thành bụi đất. Còn thần thức thì tiếp tục luân hồi, đi đầu
thai làm trâu, làm ngựa, thọ khổ sinh tử không cùng tận.
– Bạch sư phụ, thực có chuyện đầu thai chuyển thế ư?
Hòa thượng chỉ vào con chó ở bên cạnh cậu, giải thích:
– Thì đây, con Vàng này kiếp vừa qua là một Sa-di trong chùa, nơi
đuôi mày phải chú ấy có một nốt ruồi. Bởi do lúc dọn cơm chú đa lén ăn trước
một cái bánh bao. Khi Tri khố phát hiện thiếu một cái bánh bao, bèn hỏi chú thì
chú một mực phủ nhận, còn thề rằng:
– “Nếu như tôi có lén ăn bánh bao thì tương lai sẽ biến thành con
chó!”…
Sau đó chú sa di mắc bịnh chết, quả nhiên đã đầu thai thành con
chó và đến chùa này. Khi ngươi dẫn con chó về đây là ta nhận ra ngay. Bây giờ
ngươi hây xem kỹ đuôi mày phải của nó, thực có nốt ruồi màu nâu hay không?
Nghe Hòa thượng nói vậy cậu bé hơi hoài nghi, bèn khom xuống đưa
tay vạch lông gần đuôi mày con chó ra xem. Cậu kinh ngạc kêu lên:
– Ôi trời ơi! Quả có nốt ruổi đây nè! Sư phụ, con chó này theo con
bao năm, con không hề biết, vậy mà sư phụ lại phát hiện nó có nốt ruồi!”… (nghe
đến đây Nghiêm cư sĩ có vẻ rất kích động).
Hòa thượng Diệu Pháp kể tiếp:
“Vị Trụ trì bảo cậu bé:
– Người phạm sai lầm nhất định phải can đảm nhận lỗi và sửa chữa,
không thể che giấu, ương bướng chối phăng, rồi còn dùng lời thề độc để chứng
minh mình trong sạch. Giả như đương sự không có lỗi thì không sao, còn cứ
một mực nói điêu, thề ẩu – thì sớm muộn gì lời thề cũng hiện thành sự thực –
Sau khi con chó trả xong nghiệp báo rồi thì nó tái sinh làm người,
lại tiếp tục tu hành.
-Thưa sư phụ, vậy phải làm sao mới không tiếp tục luân hồi đau
khổ? – Cậu bé hỏi.
Trụ trì nói:
– Người ta chẳng biết lúc nào mình chết, cho nên phải mau gấp tu
hành xuất gia để liễu sinh tử. Tại gia cưới vợ sinh con cũng có thể tu, nhưng
đương nhiên đời sống xuất gia ít chướng ngại hơn.
– Thế con muốn xuất gia tu liễu sinh tử, sư phụ có thu nhận
không? – Cậu bé lại hỏi.
Vị trụ trì mỉm cười đáp:
-Ta đợi câu nói này của con từ lâu rồi!”…
Hòa thượng Diệu Pháp kể tiếp:
“Cậu bé đó sau khi làm Sa-di rồi, quyết tâm đời này tu thoát tam
giới, dụng công hết sức gian khổ. Nhưng mới được mấy năm thì mắc bịnh lìa đời,
tâm nguyện thực hiện chưa tròn. Nhiều năm trôi qua cho đến hiện tại, cậu sinh
vào thế giới này, lý đáng phải tiếp tục xuất gia cho tròn tâm nguyện quá khứ.
Nhưng trong tiền kiếp, hồi chưa xuất gia cậu từng nhen nhúm nhiều ước mơ khác
nữa. Và những hạt giống tư tưởng đó đời nay đã trổ thành quả.
Phần con chó vàng nhờ đời trước có công coi nhà hộ chùa, nên nó
cũng chuyển lên cõi người, tái sinh làm một cô gái mỹ lệ, hơn nữa vỉ “ứng với
lời nguyện” của cậu mồ côi kia, nên đời này nó kết duyên làm vợ cậu”…
Kể đến đây hòa thượng Diệu Pháp mỉm cười hỏi Nghiêm cư sĩ:
– Ông biết ta nói ai rồi chứ?
Nghiêm cư sĩ hưng phấn gật đầu, hồi đáp:
– Thưa biết, sư phụ vừa nói là con đã rõ ngay, vợ con có một nốt
ruồi ở đuôi mày ạ!
Hòa thượng bảo:
– Ông sở dĩ đời này có được phước báu, lả do nhân thiện đời trước
dốc hết sức lực cống hiến cho chùa. Còn chuyện nhức đầu, chỉ cần ông xuất gia
thì khỏi ngay. Đôi chân ông đau là do trong thời gian làm việc, đã tặng quà,
nhận quà hối lộ mà tạo thành nghiệp chướng, cộng thêm nhiều tội nặng chèo kéo
theo, làm sao mà có thể bước đi dễ dàng được?
Nói xong, Hòa thượng tỏ dấu chào khách:
– Nếu ông thực tâm sám hối các tội nghiệp thì bịnh sẽ dứt. Ta hơi
mệt rồi, hãy để Quả Khanh lo cho ông dùng cơm. Những gì cần nói ta đều báo cho
ông biết hết cả, đã đáp ứng cho ông mãn nguyện rồi. Phần ông muốn làm gì, là
việc của ông!
Nghiêm cư sĩ vội đảnh lễ bái tạ và thưa:
– Rất đội ơn Hòa thượng đã khai thị, chuyện xuất gia con sẽ suy
nghĩ.
Rốt cuộc Nghiêm cư sĩ có xuất gia hay chăng, điều này tuyệt chẳng
quan trọng. Hiện nay chẳng phải người ta ai cũng ham phát tài giàu có sao?
Tôi ghi câu chuyện này ra là muốn chia sẻ, mách mọi người con
đường làm giàu: Đó là in kinh hoằng pháp, cúng dường Phật, Pháp,Tăng. Bất kể
bạn gặp duyên tốt đến đâu, nếu bản thân không gieo nhân thì chẳng thể gặt quả.
Giống như bạn không trồng trọt, thì dù có ban cho bạn vùng đất mầu mỡ đến mấy,
bạn cũng không thể thu hoạch được gì!
Tôi tên Trương Lập Hoa, năm nay 65 tuổi, là công nhân đã nghỉ hưu.
Tôi sinh trong xã hội cũ, lớn lên trong chế độ mới. Từ lúc bắt đầu đi học đến
nay, tôi toàn hấp thụ nền giáo dục vô thần, nên suốt nửa thế kỷ nhồi huân… có
thể khẳng định đầu óc tôi… rặt toàn thuyết vồ thần mà thôi.
Thời thanh niên, ngoài giờ học tập công tác tôi đọc khá nhiều tiểu
thuyết nội dung phù phiếm, có một số sách nhắc đến nhân quả, nhưng các điều
trong sách nói toàn là những chuyện xa xưa, cũ rích… từ mấy trăm năm, thậm chí
cả ngàn năm trước, tuy có đạo lý nhưng không chỗ khảo chứng, nên chẳng khơi gợi
được sự chú trọng của tôi về nhân quả.
Năm nay, tôi và người bạn già may mắn bước vào cõi “thuần khiết
chân thật”, số là nhóm lão niên chúng tôi thường vào hoa viên dạo mát nghỉ
ngơi. Có một bà họ Trương, (chúng tôi gọi là Trương cư sĩ) thường kể cho mọi
người nghe các câu chuyện liên quan tới nhân quả, tôi cũng có nghe bạn đời của
tôi nhắc đến vụ này, nhưng trước đó chẳng thèm lưu tâm.
Tháng ba năm nay, tôi vào hoa viên chơi, tình cờ gặp Trương cư sĩ
kể chuyện cho mọi người nghe, ngẫu nhiên tôi biến thành thính chúng (vì cũng có
mặt ở đó). Nghe một hồi, mới biết những chuyện thiện ác nhân quả báo ứng (rất
thú vị) này đều là chuyện thực người thực ngay trong hiện đời.
Sau khi Trương cư sĩ nghe tôi kể lể bịnh khổ của mình rồi, bà liền
tặng cho tôi cuốn “Báo ứng Hiện Đời’’. Cuốn sách này đã phá tan cơn mê dài suốt
mấy mươi năm của tôi, giúp tôi tỉnh ngộ.
Những gì Hòa thượng Diệu Pháp giảng giải, khai thị trong sách,
thực là bất khả tư nghị Các chứng bịnh của các nhân vật trong sách được Hòa
thượng phá giải, nêu lên rất thực: không gì mà không do sát sinh, không gi mà
không do báo ứng nhân quả, vì ham ăn ngon sướng miệng mà tạo thành nghiệp ác.
Trong sách kể rằng: “Hầm thịt nấu vật thỏa cơn thèm, nào biết chúng chết không
cam tâm, nhà bếp biến thành nơi thảm sát, mổ bụng, phanh thây lên núi đao” và
chuyện nấu, xào, nướng, quay hầm, rim… chính là đang hành tội loài vật bất
hạnh, sớm muộn gì cũng bị báo ứng.
Tôi bị bịnh tiểu đường đã 17 năm, dẫn đến tay chân bị đơ cứng,
võng mạc thị lực biến chứng, đi khám các bịnh viện lớn, bác sĩ chẩn đoán: “Mắt
phải hết thấy, thị lực mắt trái chỉ còn một phần mười. Tầm nhìn cực kỳ suy”.
Tôi rất sợ, bàng hoàng, khổ tâm khôn xiết.
Bởi vì một khi mắt trái không thấy nữa thì chẳng phải tôi thành kẻ
mù hay sao? Hồi xưa tôi luôn cho rằng ăn thịt sẽ giúp thân khỏe mạnh, thực là
quá lầm, quá sai!
Nhờ cuốn “Báo ứng Hiện Đời” mà tôi được khai thị, tôi quyết tâm:
ngay đây thực hành thể nghiệm, đổi mới cuộc sống. Tôi phát thệ từ nay vĩnh viễn
không sát sinh, không ăn mặn, không ăn bất cứ thịt loài vật nào và trong lòng
thường hướng về những chúng sinh đã bị mình ăn, thành tâm sám hối, niệm Phật
hồi hướng phúc cho chúng…
Từ tháng ba đến tháng sáu năm nay, tính ra hơn ba tháng, kỳ tích
đã xuất hiện. Tôi không tốn một xu nào đi bịnh viện nhãn khoa nhưng hiện tại
(trừ mắt phải bị đục thủy tinh thể ra), thị lực mắt trái đã khôi phục bình
thường như xưa (đoản văn này chính tôi đang tự viết), nếu như tháng 11 năm
ngoái đến tháng 2 năm nay, chiếu theo bịnh tình phát triển suy như thế đó, thì
mắt trái tôi chắc chắn phải mù. Nhưng do tôi biết khởi tâm sám hối ăn chay, tu
tập… kỳ tích đã xuất hiện, ôi! Là Phật và Hòa thượng Diệu Pháp đã ban cho tôi
ánh sáng, tôi thực tri ân, cảm phục vô cùng.
Tháng 6 năm nay, qua giới thiệu, tôi may mắn được gặp tác giả Quả
Khanh, và còn tận mắt gặp một số nhân vật được kể trong sách, những vai chính
trong các câu chuyện như: “Thai nhi ưa nghe Kinh Địa Tạng”, “Trì giới niệm Phật
được lợi ích”, “Tỉnh cảm thiên địa”… Các vị này ngồi sát cạnh tôi, cùng nghe cư
sĩ Quả Khanh giảng pháp, sao không khiến tôi tâm phục, khẩu phục kia chứ?
Bây giờ tôi đã thọ trì ngũ giới và ăn chay, Tôi và bạn đời đều đã
qui y Phật môn, những năm tháng sống còn này của chúng tôi là: học
Phật, niệm Phật, trở thành một đệ tử Phật thiện lành đúng nghĩa,
làm những cư sĩ tại gia tu tập chân chính, đây mới thực là phúc báo của chúng
tôi!
Quả Khanh phụ chú:
(Vào tháng 12, lúc gặp lại tôi cư sĩ Trương Lập Hoa đã thay đổi
tốt, hoàn toàn khác hẳn, chứng bịnh tiểu đường đã lành và không còn dùng bất kỳ
thuốc nào).
Hỏi: -Trong thời kỳ mạt pháp, người giảng tà
pháp quá nhiều, kẻ không tuân thủ giới luật càng nhiều hơn. Có phải là Phật
pháp kể từ đây sẽ ngày càng suy vi, phát không nỗi chăng?
Đáp: – Không phải vậy. Theo như tôi biết thì
bất kể giới xuất gia hay tại gia, đều có nhiều người âm thầm tu hành. Tôi không
tiện bàn về người xuất gia, chỉ có thể đem những câu chuyện cư sĩ tại gia tu
hành thực tế kể cho bạn nghe. Trong “Báo ứng Hiện Đời tập 1 tôi đã lược thuật
chuyện “Tiên sinh dạy học” giờ xin nói rõ hơn:
Đôi phu thê này người chồng năm nay 29 tuổi, vợ anh 32 tuổi. Con
họ bị thay thuốc chẩn đoán là bại não. Hiện nay bé được 4 tuổi, trông rất thông
minh xinh đẹp.
Trí tuệ, và số đo IQ vượt xa những trẻ lớn tuổi hơn nó rất nhiều.
Thí như bạn chơi trò biến hóa ảo thuật với bé, giấu vật gì đó, bé không những
biết bạn đang lừa nó, mà lập tức có thể tìm ra vật bạn đang giấu. Khi đi đường
bé rất nhút nhát vì không thể giữ thăng bằng, phải nhờ người lớn dắt mới có thể
đi được. Hiện bé vẫn còn đang cố gắng luyện tập, nhưng tiến triển như vậy so
với lời bác sĩ tuyên bố: “Em bé này sẽ không thể ngồi được” thì quả là đã tiến
bộ rất xa. Bé có thể nói các từ đơn giản với ba, mẹ, ông. bà… Hễ đói thì em kêu
ba mẹ, hoặc vỗ bụng, chỉ vào miệng mình. Khi muốn đại tiểu tiện thì bé kêu ba
mẹ hoặc diễn tả bằng động tác. Hay cái là ban đêm bé ngủ cũng chẳng hề đại tiểu
tiện ra giường. Hễ cần bài tiết là biết đánh thức ba mẹ, bày tỏ.
Nếu như người bé ưa thích đến thăm, họ vừa lên tiếng ngoài cổng,
là trong nhà bé đã mừng rỡ khoa tay múa chân. Mấy ngày trước tôi gọi điện cho
mẹ bé, em đòi cầm điện thoại và mừng rỡ bập bẹ: -“ông ơi!” Chẳng cần ba mẹ bé
kể, tôi nhìn mức độ tiến bộ của bé mà trong lòng cảm thấy rất vui và an ủi.
Hòa thượng Diệu Pháp ban cho bé tên Huệ Hân, hôm nay quả nhiên đã ứng
nghiệm.
Sư phụ nói:
– Huệ Hân thay đổi tiến bộ nhanh hơn ta tưởng, tương lai không
những cháu có thể tự xử lý, mà sẽ hoàn toàn bình thường và còn có thể khai mở
trí tuệ trước năm 20 tuổi.
Tôi nghe xong rất ngạc nhiên, hỏi sư phụ:
– Huệ Hân là từ cõi súc vật (thuộc loài heo) chuyển sinh lên, sao
có thể khai mở trí huệ?
Sư phụ đáp:
– Ông giáo dạy học nhân vì nói bậy: “Những gì Phật giáo rao giảng
toàn là hư dối!’’, còn đem uy tín danh dự mình ra bảo đảm, làm lỡ mất cơ duyên
học Phật của bao người, nên sau khi chết bị đọa làm heo, nhưng kiếp trước nữa,
ông giáo này đã từng là một Hòa thượng rất có tiếng tăm danh vọng (vào thuở
đó), về sau do dâm tâm chưa sạch nên chết rồi quay lại nhân gian, sinh làm ông
giáo sư nọ. Hai đồ đệ của ông cũng giống vậy, do tình ái chưa đoạn nên cùng đến
nhân gian, làm học trò của ông. Tiên sinh dạy học này do một bề ôm tà
kiến, tuyên bố sai, diệt mất cơ duyên học Phật của bao người, do tội
đó mà chết rồi phải mang thân heo. Còn hai môn sinh của ông sau khi bịnh, già,
chết đi, họ lại tiếp tục sinh vào nhân gian kết làm vợ chồng.
Bởi vì họ có sở thích rất ưa ăn thịt đầu heo, nên duyên nghiệp
chiêu cảm thành cha mẹ Huệ Hân. Cũng có thể nói: “Huệ Hân đời trước là con heo,
tiền thân heo là ông giáo sư, tiền thân ông giáo là một tu sĩ có đạo hạnh nhưng
tâm dâm chẳng trừ”.
Còn cặp vợ chồng trẻ ưa ăn thịt heo, chiêu cảm sinh đứa con
bị chứng bại não – bại não là ngu si, mà nhân của ngu si, chính là do làm thầy
có uy tín địa vị cao mà nói lời cầu thả làm chướng ngại việc tu tiến của người,
khiến người bỏ ý định học Phật – Lại suy tiếp nữa thì ngu si chính là do tâm
dâm chưa trừ, dâm tâm chính là nam nữ ưa gần gũi chung chạ… Đây cũng có thể nói
là thánh xưa khi tạo chữ, đã đem chữ hôn thuộc cụm từ kết hôn trong đây có bộ
nữ đứng cạnh chữ hôn, hàm ý là: có nữ nhân ở bên cạnh thì trí óc mờ mịt u ám
phát (hôn to mê muội. Đó chính là nguyên nhân ngu si. (Đây là giảng riêng đối
với người tu hành). Thế nên trong “Tứ trọng thanh tịnh minh hối” nơi “Kinh
Lăng Nghiêm” Phật đã dạy: “ông tu tam muội, muốn thoát trần lao, tâm dâm chẳng
trừ, trần không thể thoát”.
Hòa thượng lại nói:
– Cha mẹ Huệ Hân từ khi hiểu rõ Phật pháp rồi, nhất tâm qui y
Phật, Pháp,Tăng, không những dứt trừ ăn mặn, mà vợ chồng còn đoạn dục khử ái;
không những bản thân tự tụng kinh niệm Phật, còn hướng dẫn Huệ Hân niệm Phật,
bái Phật. Ngôi nhà bọn họ trước mắt ta đã hiện thành một ngôi tự viện tỏa ánh
kim quang, dù đang là cư sĩ tại gia nhưng cả ba người họ đều đã thầm hiện tướng
xuất gia. Trí tuệ Huệ Hân (thuở là Tăng sĩ trong kiếp trước) sẽ có ngày hồi
phục được xem trọng.
Mùa hạ năm nay, tôi kết bạn cùng sư đệ Quả Bồi (dẫn theo một số
bằng hữu là đệ tứ Hòa thượng Diệu Pháp), tiện đường ghé thâm nhà ba mẹ Huệ Hân.
Lời sư phụ nói cuối cùng cũng đươc kiểm chứng.
Lưu cư sĩ (cha của Huệ Hân) ngồi trước mặt tôi, thân cao vừa tầm,
dáng nho nhã thư sinh. Lý cư sĩ vợ anh, tuy là công nhân hãng may, song nhìn
giống như giáo sư trung học, cô dung mạo mỹ lệ nhưng không mất vẻ trang nghiêm,
nhìn chẳng có vẻ gì là lớn hơn chồng ba tuổi cả.
Trò chuyện một hồi, tôi nhìn thấy nơi hai cổ tay anh Lưu có vết
bỏng dài còn đỏ, có lẽ là mới bị bỏng gần đây nên trông màu sẹo hãy còn non,
tôi hỏi nguyên nhân, anh Lưu thật thà khai báo:
– Dạ, vợ chồng chúng con nhân vì Huệ Hân bịnh mà được biết đến
Phật pháp, hiểu đạo rồi thì đồng phát thệ từ nay quyết tâm tu hành thoát ly tam
giới. Bởi do gieo nhân ái luyến mới thành vợ chồng, vì niệm ái mà kết hôn sinh
con, rước vào đủ thứ phiền não khổ đau. Chúng con vâng theo lời Phật dạy, lại
nhờ xem qua sách “Báo ứng Hiện Đời”, hiểu rõ về các chuyện kiếp trước đời này,
nên quyết tâm đoạn dục khử ái, đã cùng nhau thắp hương thệ nguyện.
Hơn nửa năm nay, chúng con vẫn ngủ chung giường mà không sao, thảy
đều binh an vô sự.
Nhưng cách đây nửa tháng, một hôm không biết ma lực nào xui ám,
khiến dục tâm con nổi lên mãnh liệt, khó bề khống chế. Ngay lúc đó con vội nhảy
ra khỏi giường, quỳ trước Bồ-tát Quan Thế Âm cầu Ngài gia trì giúp con thêm sức
mạnh để bình tâm, định tĩnh. Khi ấy con đã dùng hai cỗ tay kẹp chặt vào ngọn
lửa cây hương to đang cháy, quyết tâm dùng lửa cây nhang xua đuổi tà tâm và cầu
Phật lực gia trì.
Kể đến đây anh Lưu trang trọng nói:
– Vợ chồng chúng con đã nhất quyết đoạn trừ tâm dâm. Xin tôn ông
chuyển lời thưa với sư phụ giùm, chúng con nhất định sẽ làm đệ tử xứng đáng của
sư phụ.
Tôi bị vợ chồng anh Lưu làm cảm động đến rơi lệ.
Bọn họ tuy tuổi còn trẻ, nhưng có khí phách, dũng cảm, khiến cho
nhiều lão cư sĩ phải cảm phục tự hổ thẹn thầm. Mọi người đều quý mến họ.
Tôi hỏi:
– Lần này tôi viết tiếp cuốn “Báo ứng Hiện Đời tập 3” có thể ghi
chuyện anh chị vào được không?
Chị vợ nói:
– Việc phát thệ tu hành nguyện trừ bỏ ái dục giống như chúng con
cũng có 3-4 cặp phu thê thực hiện rồi a. Do cư si Quả Bồi thường hướng dẫn
chúng con tổ chức pháp hội Lăng Nghiêm nên đa số chung con ai cung đều thuộc
Chú Lăng Nghiêm. Bốn lời dạy quan trọng trong Kinh Lăng Nghiêm các Phật tử (nhỏ
từ 20 tuổi cho đến lớn 60 tuổi) ai mà không thuộc Chú Lăng Nghiêm đều cảm thấy
rất hổ thẹn ạ. Nhóm bạn đạo chúng con hễ vừa phát tâm học Phật là lập tức từ bỏ
ăn mặn. Trong số này có cư sĩ Hồng Bân, lúc đi tắm hơi thì quen biết cư sĩ Ngạn
Tân và được dắt đến gặp cư sĩ Quả Bồi. Sau khi xem “Báo ứng Hiện Đời” rồi, ông
Bân liền hướng dẫn vợ và các con tu tập, từ đó đoạn tuyệt ăn mặn. Gần đây nghe
nói cả hai vợ chồng họ cùng phát thệ khử ái đoạn dục, dù tu tại gia nhưng lòng
đã nhất quyết phải liễu sinh thoát tử…
Chúng con cảm thấy những lời Phật dạy đều là chân lý, nên nguyện
tuân theo, y đó thực hành, chỉ mong được làm đệ tử xứng đáng của Như Lai, chứ
chẳng phải mình là kẻ tài ba giỏi giang gì đâu ạ.
Con vốn muốn xin giáo sư đem chuyện Huệ Hân viết ra. Kể rõ khi nó
chào đời, thì giữa bụng, hai bên lưng đều có một đường ngấn dài. Các bịnh viện
đều nói nó bị chứng “mất sắc tố” và nói đây là chứng bịnh di truyền của gia
tộc. Nhưng hai họ nhà chúng con không ai bị như thế. Cổ chân, cổ tay Huệ Hân
cũng có ngấn tương tự.
Hôm nọ trong khi tĩnh tọa, con đột nhiên thấy mình đi vào lò giết
heo, thấy một con heo bị trói bốn chân. Sau khi nó bị giết rồi, người ta ném nó
vào nồi nước nóng và khiêng đi cạo lông. Tiếp đến dùng côn sắt chêm vào giò cẳng
bụng nó, rồi nện đập bốn chỗ này. Sau đó người ta thổi hơi vào mồm nó, khiến
bụng heo phình lên như quả cầu, tiếp đến họ dùng dây cột tay, chân, miệng heo
lại; ngăn không cho khí tuôn ra, rồi dùng côn sắt đánh trên mình heo (Sau này
con hỏi thân phụ mới biết người ta làm vậy để cho nước trong nội tạng và da
thịt phân ly, mặc dù heo đã chảy hết máu rồi, nhưng lúc bị đánh thân vẫn hằn
các đường nhợt nhạt (như bị tắc nghẽn máu) hiện trên da thịt. Cuối cùng thì nó
bị phanh thây mổ bụng.
Lúc này con chợt hiểu ra, các đường hằn trên mình Huệ Hân, bác sĩ
nói là bịnh “mất sắc tố” nhưng thực chất là do heo bị giết, đánh nên lưu vết
tích. Xem như đây là kiểm chứng lời Hòa thượng Diệu Pháp nói… rất chính xác ạ!
Kiếp trước đời sau, luân hồi lục đạo là thật có, nhân quả báo ứng
hoàn toàn chân thực. Chúng con hi vọng đem chuyện nhà mình cảnh tỉnh những vị
đệ tử Phật không nghiêm trì giới luật, bởi vì chỉ có giữ giới, sám hối mới tiêu
trừ nghiệp chướng, thực tâm hành pháp mới ly khổ đắc lạc.
Những lời ba mẹ Huệ Hân nói khiến người cảm động. (Mẹ cháu vốn
muốn cho Huệ Hân chụp ảnh để tôi đăng lên sách để ngươi tin đây là chuyện
thiệt, nhưng tôi từ chối). Mặc dù hiện giờ cháu còn bé, nhưng sau nay sẽ lớn lên.
Tuy trình độ viết văn của tôi không giỏi, nhưng tôi cho rằng dù không đáng khinh,
độc giả vẫn có thể tin đây là chuyên thật và hiểu rõ lý nhân quả. Tôi tuyệt chẳng
dám viết chuyện bịa đặt gạt lừa người, bởi làm thế chính là phản bội nhân quả.
Chỉ nhìn sơ qua địa phương nhỏ bé này thôi, đã thấy có rất nhiều
cư sĩ tu chân thành, như thế đủ chứng minh thời này “tuy mạt pháp mà không
mạt”, vì còn rất nhiều đệ tử Phật tinh tấn tu hành trong biển người mênh mông.
Trong Phật môn từng nói: “Có người ẩn tu ở thâm sơn, có người tu
thầm nơi phố thị, đệ tử Phật không tranh, không tham cầu, không tư lợi ích kỷ,
không vọng ngữ… Tất cả những ai tu hành chân chính, dù là cư sĩ tại gia thì vẫn
có thể thành đạo nghiệp.
Còn như trong đạo tràng xảy ra những hiện tượng trái đạo, thậm chí
xuất hiện tà sư thuyết pháp, thì đây há chẳng phải là thử thách, là khảo nghiệm
đối với chúng ta ư? Không có tà thì sao hiền chánh được, không có ma thì sao có
Phật được?
Chư vị đại đức cao tăng từng dạy chúng ta: “Ma là giúp chúng ta tu
thêm kiên cố, ta phải biến ma thành bậc thầy nghịch hạnh hỗ trợ”, chẳng phải là
tạo thêm lực đẩy giúp ta tu giỏi hay sao?
Đối với những ai không tuân thủ quy củ của Phật, ta chỉ cần đừng
lý tới họ lả xong. Gặp kẻ giảng tà pháp, cũng là dịp khảo nghiệm xem chúng ta
có con mắt biết phân biệt chánh pháp hay không? Xem như đây cũng là thử thách.
Nếu giận họ, thì ta cũng giống như họ thôi. Hòa thượng Diệu Pháp từng khai thị:
Mạt thế thuyết pháp
Có sai có đúng
Nên xả thì xả
Nên dùng thì dùng
Tùy duyên hóa độ…
Cuối cùng xin kết thúc bằng hai câu:
Như như bặt động, nào sợ tham sân tật đố Nhất tâm bất loạn nào
quản hổ đấu long tranh
Năm 2002 đi Trung Nguyên, tôi đã may mắn gặp một ni cô dùng máu
chép mấy bộ kinh. Đây là hành động hi hữu, trong sử Phật giáo Trung Quốc không
có nhiều.
Ni Diệu Dung năm nay 28 tuổi (xuất gia đã ba năm), trước khi xuất
gia cô đã dùng máu chép kinh. Hiện đang chép bộ kinh “Đại Phương Quảng Phật Hoa
Nghiêm’’ cả thảy có 36 vạn từ, đã hoàn thành 6 vạn từ. Kế đến sẽ chép kinh Pháp
Hoa. Một Phật tử là Bác sĩ viện trưởng Y Khoa, thấy vậy nói:
– Phải dùng máu toàn thân mới chép xong mấy bộ kinh này, như thế
thì máu cô cũng đổi mới hết…
Cô sinh trong gia đình đầm ấm, dung mạo mỹ miều, mẹ tính hiền
thiện. Cô tốt nghiệp Đại Học Y nổi tiếng, là bác sĩ Quân Y cấp bậc Trung úy.
Sau khi tốt nghiệp hành nghề được hưởng chế độ rất ưu đãi, lương bổng cực
cao nhưng những điều này chẳng ngăn được chí xuất gia của cô.
Dưới sự hướng dẫn kiên nghị của người mẹ phi phàm, cô đến núi
Thanh Nguyên tỉnh Giang Tây, được Hòa thượng Thể Quang đạo cao đức trọng xuống
tóc cho.
Chùa Vân Môn là đạo tràng cô thường ở tu hành. Cô bắt đầu công tác
gánh phân, bước vào con đường khổ hạnh. Vị nữ nhân tài Phật giáo có nhiều hạnh
nguyện hi hữu này xuất hiện vào thế kỷ 21 trong thời đại hôm nay, nhiều người
nghe danh, rất khâm phục tán thán. Tôi và mấy vị tín đồ Giang Tây cùng các đệ
tử quy y Hòa thượng Thể Quang, có di.p ngụ nơi đây hơn mười ngày, đích thân
chứng kiến cảnh ni Diệu Dung tu hành, khiến những người từng học Phật mười mấy
năm, tuổi gần 60 như chúng tôi phải thầm xấu hổ vì thấy mình còn kém xa.
Có lần dùng cơm xong, mọi người đứng dậy chuẩn bị bỏ đi, ni Diệu
Dung phát hiện chén của cư sĩ nọ ăn bỏ mứa thừa rất nhiều, ni lập tức bưng chén
lên nói.
– Đạo hữu ăn không hết để tôi ăn giùm, ông chẳng nên bỏ đồ dư lãng
phí như thế.
Nói xong liền ăn hết. Cư sĩ Diệu Lợi cảm động bảo:
– Sư Diệu Dung thật hết biết! Vì quý tiếc từng hạt thức ăn, chịu
khó ăn đồ thừa của người, chúng tôi phải học tập gương cô đó!
Sư Diệu Kiến ngồi chung bàn nói:
– Chuyện này mà nhằm gì, đồ người khác nhổ bỏ vì chê ăn không
ngon, cổ thấy được là lượm ân sạch hết.
Tôi bảo: – Cô giống hạnh ngài Tuyên Hóa ở Mỹ rồi! (Phải biết cô là
bác sĩ rất chú trọng vệ sinh nhưng làm thế để cảnh tỉnh người, vi không muốn
phí phạm)
Sư Diệu Dung mỉm cười nói:
– Thức ăn chúng ta dùng đây quả thực ngon tốt hơn nhiều so với
thức ăn của các tu sĩ ở Tây Tạng. Có qua Tây Tạng hành đạo rồi, thì thức ăn nào
cũng nuốt được hết, có nếm khổ gì thì cũng không thấy khổ nữa.
Cô kể lúc mình mới xuất gia làm Sa-di, nhận công tác phải gánh phân,
do thường ra vào nhà xí và đồng ruộng, dù có mang hài cũng khó tránh giẫm đạp
trên phân, nên lúc lên điện, để tỏ lòng cung kính, cô cởi hài bỏ bên ngoài chỉ
mang vớ vào điện, nhưng vì hằng ngày thời gian lên điện tương đối dài, lâu dần,
chân bị nhiễm lạnh, hai chân và đầu gối bị thủng nặng, đau đến đi đứng khó
khăn.
Sư nói:
– Đây là nghiệp chướng bản thân hiện tiền, nhưng mỗi ngày tôi vẫn
phải cắn răng chịu đựng để công tác.
Sau đó, bịnh ngày càng nghiêm trọng, trong núi thiếu thuốc men
thích hợp nên cô phải về nhà mẹ. Bác sĩ chẩn khám nói cô bị phong thấp nan y,
dần dần bịnh từ phong thấp sẽ chuyển đến tim, gây nên chứng bại liệt.
Cô nghe xong không sợ hay hoảng kinh chi, chỉ là trong lòng bất
an, vì thấy mình tuổi còn trẻ, chưa làm được chuyện gì giúp cho chúng sinh, mà
vướng phải bại liệt thì càng lụy người phải lo, như thế thiệt là… “sống khống
bằng chết!”
Sau đó, cô khấn nguyện trước Bồ-tát.
– Đệ tử chẳng cầu huyễn thân trường tồn, tật bịnh hồi phục, chỉ
xin kéo dài hơi thở của mạng sống tội lỗi này, dùng máu huyết chép kinh, hồi
hướng cho tất cả chúng sinh trong pháp giới đồng thành Phật đạo. Chép kinh
xong, đệ tử có chết cũng không tiếc.
Cô nói:
-Tôi dùng kim châm vào mười ngón tay lấy máu, không đủ dùng nên
phải lấy ống chích rút máu từ cánh tay, mẹ tôi chẳng nỡ nhìn, cũng không chịu
giúp tôi lấy máu, lãng tránh ra ngoài làm việc. Nhưng lúc tôi chép kinh, mẹ tôi
vô cùng kinh ngạc khi phát hiện toàn thân tôi đang phóng kim quang (mà bản thân
tồi không hề hay biết và hoàn toàn không nhìn thấy). Đây có thể là nhờ Phật lực
gia hộ, khiến mẹ tôi có chút cảm ngộ.
Lúc tồi chép xong bốn quyển kinh máu, thì hai chân hết phù thủng,
khôi phục bình thường. Thật là Phật Bồ-tát xót thương gia hộ, khiến tôi có được
mạng sống mới, tôi cảm kích đến rơi lệ, không sao báo đáp cho cùng.
Tôi chỉ biết âm thầm phát thệ: “Nguyện đem thân này cúng dường
Phật Bồ-tát, hằng giữ ba nghiệp thân khẩu ý thanh tịnh cúng dường Phật Bồ-tát.
Nguyện từ đây đến tận vị lai, đời đời kiếp kiếp vì chúng sinh mà sống, vì chúng
sinh mà chết”.
Hôm sau, đi y viện kiểm tra, bác sĩ rất kinh ngạc, ông tuyên bố
tôi hoàn toàn hồi phục.
Ni Diệu Dung nói: – Khi mẹ thấy tôi hết bịnh bà rất mừng, đồng
thời thái độ quan tâm lo lắng cũng thay đổi.
Bà nghiêm nghị bảo:
– Sư Diệu Dung, bịnh cô đã lành, hãy mau thu xếp về chùa. Cô là
người xuất gia, ở mãi nơi nhà tôi không tiện.
Đương nhiên khi nghe những lời lạnh nhạt chẳng có chút tình người
như vậy tôi thật khó tiếp thu, phải gắng kìm chế để nước mắt không trào ra, tôi
giận dỗi nói:
– Con đi liền đây!
Thế là tôi tom góp hành lý đơn giản, bước ra kêu xe. Khi xe sắp
chạy, tôi ló đầu ra cửa xe thưa với mẹ:
– Quách cư sĩ, tôi để chìa khóa nhà ở trên bàn đấy!
Xe chạy rồi, từ sinh ra đến giờ tôi mới nhìn thấy hai hàng lệ nóng
từ khóe mắt mẹ tuôn trào…
Tới ga, lên hỏa xa ngồi. Trong lúc xe lao vun vút, tâm tôi dần
bình tĩnh lại, Hai mắt tôi càng lúc càng mờ vì lệ nhạt nhòa…
“Ôi mẹ ơi! Con gái đã hiểu lòng mẹ rồi! Mẹ sợ con luyến thế quên
về, sẽ tu hành bê trễ. Chính mẹ hướng dẫn con đi trên con đường học Phật, là mẹ
bảo vệ hạnh xuất gia cho con. Mẹ chứng kiến con xuống tóc làm ni mà chưa từng
rơi giọt lệ nào, chỉ vì muốn con kiên định tâm đạo. Mẹ yên tâm nha mẹ. Như mũi
tên một khi đã bắn ra không bao giờ quay về, con đã bước vào đường tu thì sẽ
không quay trở lại, con sẽ tẩy tâm đồi mặt, mãi mãi hoằng pháp lợi sinh cho đến
ngày tạ thế”…
Hiện nay do nhiều chúng cư sĩ thỉnh cầu, ni Diệu Dung đã chọn một
địa điểm thích hợp, chuẩn bị xây một ngôi kiến trúc tại Trung Nguyên, dự định
sẽ thu nhận chư cư sĩ cao tuổi nghỉ hưu, cho họ trú ngụ, hướng dẫn họ niệm Phật
nghe kinh, pháp, tu hành.
Đây là đạo tràng dành cho tập thể cư trụ, lo hết tất cả từ ăn, ở,
thuốc men, cho đến vãng sinh. Các bác sĩ, hộ lý cùng những phục vụ viên… hoàn
toàn là tình nguyện phụng hiến.
Chư cư sĩ đến ở chỉ cần đóng phí thức ăn (do gia đình quyến thuộc
cung cấp) phần còn lại đạo tràng bao thầu hoàn toàn phi lợi nhuận) do nhân viên
bác sĩ hộ lý không cần đền đáp nên phí y liệu cũng rất thấp. Đương nhiên đây
chỉ là ý tưởng sơ bộ của ni Diệu Dung, vẫn cần tập thể đồng tu trợ lực góp tâm
góp sức hoàn thành tốt việc này.
Ni Diệu Dung đã mời hòa thượng Diệu Pháp và tôi đến thường trụ ở
đây, hỗ trợ cộng đồng đại chúng tu hành. Nếu như có thể kiến thiết nhanh đúng
như dự tính thì sư phụ và tôi cùng các huynh đệ rất sẵn lòng giúp ni Diệu Dung,
cùng mọi người tụ hội ở đây, dụng công tu tập thành đạo bồ đề.
Bài văn dưới đây tôi viết theo danh xưng ngôi thứ nhất, để mọi
người tiện đọc, (thể văn giống như tự thuật) nhằm giới thiệu chuyện thực về sư
Diệu Dung từ sinh ra đến xuất gia, giúp mọi người hiểu rõ hơn về vị ni ưu tú
trong Phật giáo và có thể rút ra từ trong đây chút cảm ngộ.
Tác giả Quả khanh xin giải thích riêng:
Sư Diệu Dung là câu chuyện có thật hoàn toàn. Sau khi tôi biết rõ
những gì sư trải qua rồi; rắt cảm kích nên quyết định viết ra để khuyến khích
bạn đạo tu hành. Do chưa được sư cho phép nên tôi quyết định “hóa danh” (nghĩa
là tên và địa danh đều đổi, không ghi thật), tôi nghĩ làm vậy sẽ không gây ảnh
hưởng hay quấy rầy gỉ đến việc thanh tu của sư.
Mục đích của tôi không phải để ca tụng công đức sư, bởi vì khả
năng của sư sẽ còn tiến xa hơn rất nhiều. Tôi viết câu chuyện này, vì muốn chia
sẻ cùng bạn đọc “nét đẹp của người tu”, tôi muốn chấn chỉnh lại những quan niệm
sai lầm, hiểu trật về người xuất gia.
Không những tôi hi vọng ni “Diệu Dung” có thể đại diện cho hình
ảnh các tu sĩ nữ giới, mà còn hi vọng ngày càng có nhiều phần tử trí thức gia
nhập vào sự nghiệp hoằng pháp Phật giáo, cùng góp sức giúp cải thiện phong khí
xã hội, dùng đức trị nước, dùng lực tu để báo ân.
Bởi vì trong nước ta hiện còn rất nhiều người hiểu sai về giới
xuất gia (bao gồm cả tôi mười năm về trước) luôn ngộ nhận, cho rằng những người
xuất gia là hạng trốn đời, trốn việc, trốn bổn phận, ưa sống biếng lười cầu an,
toàn những kẻ thất tình thất chí, tâm bị tổn thương, vì mê tín hay do tướng mạo
xấu xí khó kết hôn, hoặc do gia cảnh quá bần hàn nên phải đi xuất gia để kiếm
cái ăn, cái mặc v.v…
Những hạng người này không dính dáng gì tới sư Diệu Dung. Trong
Phật môn có lẽ cũng có những hạng người này, nhưng tồi chưa gặp! Còn những vị
có chí xuất trần cao tột, nguyện đem
thân tâm phụng hiến hoằng pháp lợi sinh như sư Diệu Dung thì có rất nhiều và tôi thường gặp
luôn, các phần tử trí thức cũng không thiếu. Tôi thường gặp họ tại các chùa
Thiên Đài Sơn, Phổ Đà sơn v.v… Các tu sĩ này mỗi mỗi đều có những câu chuyện
khiến người nghe phải cảm phục. Chỉ tiếc là sách tôi đang viết thuộc dạng “Báo ứng Hiện Đời” nên không thể
giới thiệu nhiều về các vị ấy Cho nên, mong độc giả khi xem hãy hiểu và thông
cảm cho tâm ý của người viết.
Mẹ của sư Diệu Dung rất giỏi thi thơ hội họa, là bậc nữ lưu kiên
cường, đã dũng cảm khuyến khích con gái xuất gia. Hòa thượng Thể Quang (là cao
đồ ngài Hư Vân) từng tán thán bà là thánh mẫu. (Tôi cho rằng lời này tuyệt
không phải nói đùa, mà giống như ấn chứng).
Xin nói rõ bài văn này là hành vi riêng của cá nhân Quả Khanh,
không liên can đến sư Diệu Dung. Nếu có điều gì khiến quỷ vị phải trách, thì đó
là lỗi của tôi, và tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm. Sau đây là bài viết:
NGUYÊN NHÂN SƯ DIỆU DUNG XUẤT GIA
Tôi chào đời trong một gia đình công nhân phổ thông, gia cảnh cha
mẹ đôi bên tương đối khác biệt, mẹ tôi là một người rất tin thờ thuyết “trên
đầu ba thước có thần linh”, cực kỳ tôn trọng đạo đức gia đình theo truyền thống
đông phương và trưởng thành từ trong đó, điều này có thế nói là do ảnh hưởng tổ
tiên bên ngoại của mẹ tôi.
Bởi dòng họ Lý có hai vị tiên hiền (nhưng tôi không rõ đời nào) là
thầy của nhà vua triều Thanh, được hoàng đế ân phong là “Võ Trạng Nguyên”. Dựa
theo bối cảnh lịch sử trên, gia tộc chúng tôi đã có một thời hiển hách huy
hoàng và cực thịnh.
Bà ngoại kể, tổ tiên bà,rất ưa làm phúc, gia phong liêm chánh.
Những năm đói kém thường mở kho bố thí, nấu cháo cứu tế, chẩn bần giải tai. Nhờ
âm đức tổ tiên, cho dù đến bà cố gia đạo tuy có suy vi, nhưng vẫn giữ y nếp
xưa, theo đúng lời ông cha hằng giáo huấn: “Phải luôn dùng đức báo oán, dùng
thiện đãi nhân” đây là việc đáng mừng, đáng tự hào cho dòng tộc.
Bà ngoại tôi sau khi kết hôn, gia phong vẫn duy trì chánh khí,
nhất là đối với con gái, lo huấn luyện nữ công thêu thùa, gia chánh khéo léo,
khi cười vẫn giữ oai nghi, đi đứng nghiêm trang, hiếu kính song thân, chu đáo
với khách, phải nói là tất cả con cháu đều được giáo dục kỹ lưỡng.
Bà ngoại sinh sáu con: gồm ba trai, ba gái, mẹ tôi là trưởng nữ,
nhờ thọ hưởng nền giáo dục tốt, nên được lợi ích rất lớn.
Mẹ tôi từ nhỏ tính tình ôn nhu hiền lương, thành tín, minh lễ, đối
với người khoan hậu, thông minh khéo léo, bà cùng Phật môn đặc biệt có duyên.
Ngoại trừ thời chiến loạn bà chào đời trong chùa, sau khi bà ra đời không lâu,
thì ông ngoại mua bức tranh Nhị Thập Tứ Hiếu và tượng Quan Âm (ngàn tay
ngàn mắt) từ Thượng Hải đem về thờ.
Ông bà ngoại và bà cố tôi đều kinh ngạc khi phát hiện mẹ tôi
càng lớn càng giống hình đức Quán Thế Âm Bồ tát, có một dạo điều
này thành là đầu đề bàn tán của mọi người trong lúc trà dư tửu hậu
(thực là rất ngộ).
Mẫu thân tôi tính tình dịu dàng ôn nhu, rất thích thi họa,
tuy học chưa hết đệ ngũ nhưng bà rất có tài.
Năm 1958, gia cảnh càng khó khăn, chị em tăng thành sáu người, do
vậy mà mới mười bốn tuổi mẹ tôi bị bắt phải thôi học để đi làm, phụ
sớt chia gánh nặng cuộc sống cùng cha, vì hiếu thuận bà bà ngoan ngoãn vâng
lịnh, chẳng mảy may có lời than oán. Tiếp theo đó bà nếm trải mười năm
phong vũ luyện mài, phải làm nhiều việc khác nhau để sinh nhai, nhưng
chẳng vì vậy mà bị thui chột tri thức đối với khát vọng về chân đế cuộc đời.
Trong đoản văn “Tự ngộ”, bà viết:
“Cuộc đời tôi giống như quyển sách dày, lật trang nào cũng đề
có mưa cuồng bão dữ. Muốn chọn một bến đỗ giữa phong ba, cũng phải ra
sức phấn đấu trong cảnh nổi chìm. Tuy đã nhìn thấy bờ rồi vẫn còn
cách một khoảng xa, nên cần phải hướng lên, tiến tới mãi. Cuộc đời tôi
giống như thế, vẫn luôn phải cố gắng tiến bước không ngừng về miền đất
Thánh, phải quỳ dài mà tiến lên”…
Cả đời mẹ tôi thường nhẫn nhục gánh việc, đối với nhân
sinh luôn có cái nhìn hướng thượng, thiên về nẻo sáng.
Năm 1997 trải qua mấy mươi năm mài luyện chua cay, cuối cùng vận
mệnh mẹ tôi cũng phát và nhìn thấy ánh mặt trời. Đầu tháng sáu năm đó
bà lên Nga My hoan hỉ nghe giảng kinh, lời dạy của Phật như trận mưa cam lộ tưới đẫm
vào nộ tâm khô cằn của bà, mẹ như kẻ nghèo gặp châu báu, rơi lệ như mưa, tuy
chưa quy y nhưng từ năm 1997 phát tâm ăn chay trường đến nay.
Hiện tại bà là đệ tử Tam Bảo, quyết tâm ngay một đời này
liễu thoát sinh tử (Xin cầu cho mười phương tất cả chư Phật, Bồ tát ba đời
gia hộ mẹ tôi có thể vĩnh viễn thoát khỏi biển khổ sinh tử, viên mãn đại
nguyện Bồ đề).
Sau khi tham gia quân ngũ rồi, tôi mới bắt đầu học Phật. Dưới sự
dắt dìu của mẫu thân, tôi thấm nhuần pháp ích. Học Phật không lâu thì gặp
dịp bộ đội cắt giảm năm mươi vạn nhân sự, tôi vội xin từ chức, giã biệt bảy năm
sống trong quân đội, chuyển về địa phương.
Mặc dù điều kiện công tác đang được ưu đãi.
lãnh lương rất cao, nhưng tinh thần tôi lại cảm thấy cuộc sống khổ phiền và ngột
ngạt, dần dần nhen nhúm ý muốn xuất gia. (Có thể đây là nhân duyên đời
trước của tôi, nhưng cũng có thể nói từng bước trưởng thành của tôi, đều
không rời bàn tay nâng đỡ, giá huấn dắt dìu chuẩn mực của mẫu thân).
Mẹ tôi dạy:
– Xuất gia không phải việc nhỏ, con phải suy nghĩ cho chín chắn
rồi hãy quyết định. Việc này giống như “mũi tên một khi đã bắn ra vĩnh viễn
không bao giờ quay trở lại”. Nếu có chết thì cũng phải chết trên con đường hoằng
pháp!
Cảm ơn Phật Bồ-tát đã an bài, không bao lâu tôi được Hòa thượng Thể
Quang (vị cao đức đương kim Thiền tông thu nạp), thực cảm ân sư phụ đã từ bi,
hai lần tiếp kiến đều đáp ứng thỉnh cầu xuất gia của tôi.
Khoảng tháng 7 năm 1999, tôi từ bỏ công tác nhiều người thèm muốn,
được mẫu thân hỗ trợ, tôi bố thí hết y phục vật dụng thế tục, sửa soạn hành
trang giản đơn, lên xe lửa Nam Hạ. Mẹ tôi cần khổ một đời, chỉ có duy nhất một
con gái là tôi, song bà vẫn có thể cứng rắn đúng hẹn, hộ tống tôi đến Chùa Tịnh
Cư, núi Vân Cư tỉnh Giang Tây. Ngày 28 tháng 8 năm 1999 âm lịch, tôi chính thức
thế phát xuất gia, được sư phụ ban cho pháp hiệu Diệu Dung, tự Thanh Minh.
Từ sau khi phụ thân mất, hai mẹ con chúng tôi nương nhau mà sống,
cùng bầu bạn hơn mười năm qua. Lúc nghỉ phép, tôi rất thích nghe mẫu thân nhắc
về thời thơ ấu của mình. Mỗi khi bà kể, căn nhà nhỏ chúng tôi luôn rộn rã tiếng
cười.
Do tính tôi thuở bé quá khác biệt với đa số trẻ nít, khiến mẹ tôi
nếm đủ mùi đau đầu.
Mẹ kể người ta thường nói con nít mới sinh rất xấu xí, nhăn nhúm.
Nhưng tôi sinh ra ấn đường no đầy, rất sáng, sống mũi hiện rõ thẳng cao, mặt
mày hồng hào, hai má lúm đồng tiền, bà mụ khi phụ đỡ đã không ngừng tóm tắc:
– Ôi dào! Em bé xinh đẹp quá đi!
Và “em bé xinh đẹp” này mấy ngày sau đã khiến mẹ dở khóc dở cười
vì màn quấy nhiễu kinh khủng.
Trước tiên, vừa chào đời thì tôi khóc “oa oa” và cứ thế “tấu” mãi
không ngừng (suốt một trăm ngày đêm chẳng gián đoạn), tôi cứ đêm khóc ngày
nghỉ. Mẫu thân kể tôi có thể khóc một hơi bốn tiếng đồng hồ, thành tích vượt
hơn “chỉ tiêu” này cũng có mấy lần, nhất là vào nửa đêm. Khiến hai-ba dãy nhà
của các chú, dì… tôi ngụ xung quanh, đều bị tiếng khóc của tôi hành hạ.
Bây giờ ngẫm nghĩ, tôi không hiểu sao lúc đó ba mẹ tôi có thể chịu
đựng được? Và cam cảnh “tra tấn” như thế suốt hơn ba tháng trời ròng rã bất kể
ngày đêm. Mẫu thân tôi bản tính vốn độ lượng, mỗi khi tôi khóc bà luôn khôi hài
bảo:
– “Nữ ca sĩ nhí” nhà ta bắt đầu khoe “âm thanh vượt không gian”
rồi!
Cũng có người mách nước, bảo gia đình nên viết mấy chữ vào tờ giấy
vàng như: “Thiên hoàng, địa hoàng, nhà
tôi có con bé khóc hăng, quân
tử đi ngang đọc mấy biến, hễ thức
liền ngủ đến sáng, ngoan”…
Nhưng mẫu thân cảm thấy chịu đựng được nên chẳng viết, dán chi…
Lúc đó hình như tôi được thể, cứ khóc mãi không thôi.
Ngay cả ban đêm, bất kể bạn thích hay không, “nữ ca sĩ nhí” tồi cứ
ngân mãi âm giai, “hét cao, xướng to” cực độ, đủ trăm ngày mới đình chỉ. Ba mẹ
và láng giềng cuối cùng cũng được hưởng phút giây bình yên. Tuy tôi khóc lâu
như thế, song chẳng ai nghiên cứu. tìm hiểu hay đem đến bác sĩ khám chi cả.
Bây giờ thì tôi suy đoán: “Có thể do thấy thế gian này khổ quá nên
tôi mới khóc dữ vậy đó”. Mẹ kể khi tôi tạm lớn chút, trông rất mủm mặt bầu
bĩnh, đôi mắt to tròn môi đỏ ong. Ai cũng cưng yêu và bảo rất thích đôi mắt
sáng to trong veo của tôi, mỗi lần gặp đều không nhịn được, luôn muốn dừng lại
trêu tôi đôi chút, nhưng tôi khăng khăng không cho bất kỳ ai chọc phá, ngay cả
phụ mẫu còn không thể, huống nữa là người ngoài.
Đa số con nít ưa tụ họp chơi đùa nhưng tôi hễ bị trêu là không ưa
và phản đối bằng cách khóc lên. Tôi không hay chơi đùa với các trẻ khác, cũng
không ưa ồn, đông. Khi chụp hình kỷ niệm toàn gia, cả gia đình ai cũng chọc cho
tôi cười nhưng không sao khiến tôi cười được. Các dì tôi thường đùa, gọi tôi là
“Tiểu nhi thâm độc”.
Hôm nay tôi đã là người cửa Phật có thể tạm giải thích nguyên nhân
tính khí của minh theo bài kệ cảnh tỉnh: “Mỗi ngày trôi qua mênh cũng giảm dần, như cá
thiếu nước, nào có gi vui?” Có lẽ tư duy này tiềm ẩn trong tàng thức
nên mới khiến tôi buồn khóc vì thêm một lần nữa bị bất hạnh luân hồi lưu chuyển
hình như giải thích thế này có vẻ hợp hơn.
Lúc được 14 tháng, tôi vào nhà trẻ, mẹ tôi mấy lần lén quan sát,
thấy tôi thường im lặng ngồi một mình, cứ trơ như gỗ nhìn đám đông các bạn nhỏ
(giống như tôi mới đến thế gian này chưa lâu), đám con nít với đủ trạng thái
cười có, khóc có, bò có, quỳ có v.v.. Những hiện tượng hỗn tạp này, hình như khiến
tôi vô phương tiếp nhận, nên đôi mày thường nhíu lại hiện vẻ căng thẳng. Có lúc
gặp bạn nhỏ chủ động tới chơi, muốn an ủi con bé cô độc như tôi, thì tôi luồn
tỏ ý ưa ngồi một mình chừng như khó hòa nhập cùng đám đông. Do vậy mà các dì
tôi nói, hiện tại là “tiểu nhi thâm độc”, lớn lên là “đại nha đầu thâm độc!”.
Nhưng tôi cũng thích giúp đỡ bạn. Bạn làm rớt bánh thì tôi cúi
xuống lượm đưa cho thế mà nó tưởng tôi giành ăn nên cắn tôi. Đúng là hiểu quá
sai, đồ cái thứ… lấy ác đáp thiện! Tôi oan khuất bật khóc. Sau đó chẳng ưa chơi
hợp quần nữa.
Mẫu thân nói tôi từ nhỏ đã ngủ rất ít, cực ít. Chưa từng nghỉ
trưa. Mẫu thân làm việc khoảng 6 giờ thức dậy thì tôi cũng thức theo trưa cũng
chẳng ngủ. Vào nhà trẻ buổi trưa cho ngủ ba tiếng, tôi cứ lăn qua lộn lại trên
giường không ngủ, cô giáo cũng bó tay.
Khoảng 3 tuổi, trí lực tôi tạm khai mở, bầu bạn cùng các câu
chuyện đồng thoại thật hay do mẹ kể mà lớn lên (Nhân vật trong chuyện luôn xả
thân vì người, phẩm cách chân thành, thiện lương tươi mát, cứ thế thấm sâu vào
tâm linh thơ dại của tôi).
Sức nhớ và lực tưởng tượng, tư duy của tôi tương đối cao. Tôi học
tập rất dễ, không hề tốn sức. Tôi có một tật khiến mẹ rất phiền, là hồi nhỏ mỗi
khi mẹ chải tóc, tôi luôn giẫy nẩy khó chịu, giống như bị cực hình. Mùa hạ, mỗi
lần mẹ chải tóc, tôi đều khóc ầm lên, khóc đến mặt mày nhem nhuốc, khiến mẹ
cũng toát mồ hôi theo. Ngày nào cũng vậy, ai mà chịu thấu, cuối cùng mẹ tôi
nói: -Thôi thì cạo quách đi cho yên chuyện!
Vì vậy mà hai tuổi tôi đã cạo đầu. Ba tuổi lại cạo lần nữa. Nếu
không tiện để tóc dài thì cứ cắt như kiểu con trai, như thế cả tôi lẫn mẹ đều
khỏe, (bây giờ thì khỏe hơn nữa vì được cạo vĩnh viễn).
Mẹ nói tôi rất có phong thái và thích làm khất sĩ. Mùa hạ, đến giờ
ăn mẹ chưa tan sở về nhà, do ở chung cư trời nóng, mọi người hay dọn ăn ngoài
sân. Nhà nhà cách nhau không xa, những lúc đó tôi thường cầm cái chén đến gần
họ, đứng bên bàn, không nói gì, im lặng nhìn họ ăn cơm. Láng giềng thấy thế mỉm
cười nhìn tiểu khất sĩ nhỏ bé như tôi, hỏi:
– Con đói bụng hả?
Tôi im lặng gật đầu. Họ liền đơm cơm vả thức ăn vào chén cho tôi.
Nếu như tôi ăn chưa đủ thi lại đến cạnh bàn họ im lặng “khất thực” tiếp nữa,
cho đến bao giờ cảm thấy no bụng thì thôi. Việc này thường xảy ra lúc tôi 4-5
tuổi, khiến mẹ tôi rất ngạc nhiên, khó hiểu.
Tôi học rất mau biết, siêng năng, nhớ dai. Tùy theo tuổi tác tăng,
mà năng lực làm việc cũng phát mạnh mẽ. Hồi học lớp ấu nhi, 5 tuổi tôi đã được
cô giáo chỉ định làm trợ thủ, giao cho nhiều việc để làm. Lên tiểu học, năng
lực này càng tăng, thành tích học luôn ưu tú, tôi làm việc sồi nổi, nhiệt tình,
yêu tập thể, suốt sáu nám tiểu học luôn được trường bầu chọn là học sinh xuất
sắc, năm nào cũng làm trưởng lớp và chẳng còn chút dấu vết gì của “tiểu nhi
thâm độc”. Nhưng tôi vẫn có thói quen ngủ ít, không bao giờ ngủ trưa.
Tôi làm việc học tập luôn đứng đầu nên kiêu khí cũng tăng cao. Cô
chủ nhiệm muốn dẹp kiêu khí của tôi, nên trong niên học nọ, đã cố ý đem mỹ danh
“học sinh ưu tú cấp tỉnh” của tôi giáng xuống “cấp địa phương”. Vì việc này mà
cô phải đặc biệt đến nhờ mẹ tôi phụ giúp. Mẹ tôi hào sảng đáp ứng. Nào ngờ sau
việc đó, cô bị hiệu trưởng giận dữ quở trách rất nghiêm. Bây giờ nhớ lại, tôi
thầm hiểu cô vì lo cho tôi mà phải động não dụng tâm gian khổ. Trong lòng tôi
xấu hỗ áy náy mãi, mỗi khi nhớ đến nghĩa tình “Ân sư nan báo” kia, tâm cứ nặng
nề như bị đá đè.
Hồi tưởng lại thời thiếu nhi, cha mẹ tôi đồng lương khiêm tốn,
ráng lo cho tôi ăn học. Tôi chơi với bạn, họ cần gì tồi đều đáp ứng, có khi bạn
mượn một đồng, hai đồng… không trả tôi cũng chẳng đòi. Khi tôi lớn lên làm
việc, kiếm tiền rất dễ dàng, kinh tế độc lập, những y phục vật dụng đắt tiền,
từ một trăm hai trăm thậm chí đến số ngàn, chỉ cần bạn thích là tôi sẵn sàng
biếu cho. Xuất gia rồi, tính cho biếu rộng rãi này càng phát hơn.
Hồi tưởng cuộc đời mình gần 30 năm, tối có cảm giác ắt hẳn kiếp
quá khứ mình từng là tu sĩ? Do hối hận “một niệm mê đi vào luân hồi thọ khổ”,
nên mới khóc dai dẳng?… Tính không ưa chơi đùa ồn ào, mà quen khất thực, biết
thương xót tử vong, yêu quý động vật, xem nhẹ tiền tài, mọi việc nếu tư duy
theo kiểu này thì đây có lẽ là đáp án chính xác.
Nhiều người hay hỏi tôi một câu họ thắc mắc chung là: -Vì sao lại
xuất gia?
Quả tình tất cả bọn họ đều nghĩ không thông nên cứ suy đoán mãi,
rốt cuộc đành kết luận rằng: chỉ có “thất tình chán đời”, sự nghiệp thất bại”
“bị phụ rẫy”, tinh thần bị “sốc” v.v.. nên mới phải xuất gia!
Thậm chí các bằng hữu “cố cựu” của tôi còn nổi giận tìm đến gây
cãi, mắng tôi là kẻ “tự cam đọa lạc”, quá “mê tín cố chấp” nên mới xuất gia… và
họ xúm nhau thuyết phục khuyên tôi mau mau quay về.
Đúng là cái nhìn thế nhân dành cho các tu sĩ hiểu lầm quá sâu, họ
cho rằng sự lựa chọn của tôi là không lý trí, là bất bình thường, là điên!
-Sao là bình thường, sao là bất bình thường?
Trước khi tôi xuất gia, cũng từng sống rất vui nhộn như bao người.
Thời ấu niên tôi bầu bạn và lớn lên cùng với những câu chuyện đồng thoại mà mẹ
kẻ. Thời tiểu học, sơ trung, cao trung, tôi ưa nhất là thú vui đọc sách, trữ
sách. “Thư viện” riêng của tôi chứa đầy danh tác thế giới, tối hay sưu tầm
trích dẫn các danh ngôn danh nhân, rút tỉa chân thiện mỹ từ trong đó và thường
đem các câu răn dạy của “cổ thánh tiên hiền” để răn nhắc, khuyên mình tiến lên.
Thời sơ trung tôi ưa đọc các sách huyền bí nói về đĩa bay, trong
não chứa đầy những thắc mắc như: “Có người ngoài hành tinh ở địa cầu khác
chăng? Trời cao đến đâu? Sau khi chết rồi mình sẽ đi về đâu?”…
Năm đó tốt nghiệp sơ trung, một bạn thân của tôi vì thi rớt nên
uống thuốc rầy tự tử. Nhìn tấm ảnh cô bạn gái tuổi trẻ, mặt còn non choẹt, đôi mắt
sáng như thuở nào còn đeo theo tôi chơi đùa trò chuyện, tôi rơi nước mắt. “Mạng
sống sao quá vô thường mong manh, ngắn ngủi trong hơi thở”, sống không phải để
đau khổ, mà phải làm sao để không khổ. Tồi nhìn thấy bạn bè quanh mình vì tranh
công danh, vùi đầu học thi, lo chuyện đậu rớt mà khổ đau rên rỉ.
Dõi nhìn đại lộ dòng xe cộ tấp nập, người qua kẻ lại, vội vội vàng
vàng, mặt mày khẩn trương chứa đầy phiền lo không đâu, các nam nữ tuổi trẻ thì
cuồng nhiệt săn đuổi, bắt chước theo thời trang của các ngôi sao điện ảnh,
tranh hơn thua nhau bằng hàng hiệu, dùng quần áo đúng mốt thời thượng để loè
nhau.
Tôi thầm nghĩ: “Những đua đòi trần thế lao xao, thật hỗn tạp và
bát nháo. Đằng sau những cạnh tranh khốc liệt vô nghĩa đó, phải chăng có nhiều
người vẫn âm thầm thấy cô độc, tự an ủi mình trong thê lương? Rốt cuộc con
người ta sống để làm gì?…
Đi học cực khổ, nỗ lực phấn đấu, cả đời vật lộn đua tranh là để
truy cầu cái gì? Có phải tiền bạc, vật chất cũng không đem lại hạnh phúc thực
sự cho đời sống?…
Còn tình yêu nam nữ, những lời hẹn biển thề non, những lời nguyện
hứa sống chết với tình, liệu có thể duy trì và kéo dài bao lâu?”…
Tôi cảm thấy rất cô tịch chán nản, tâm linh luôn buồn rầu cảm
thán. Những cảm xúc “yếm thế” này nhanh chóng bị cuộc đua tranh thi vào đại học
phủ lấp, nhưng lại chuyển thành làn sóng ngầm mạnh mẽ ẩn tàng tận đáy lòng tôi.
Tôi nghĩ: “Thôi thì dùng màu áo lính và cuộc sống quân sự để thay
đổi nếp sinh hoạt sa sút”… Tiếc là, cảnh vui không bao giờ bền lâu. Một bước
trở thành nữ sĩ quan,
tôi dần dần cảm thấy chán phiền trong cảnh “thây đi thịt bước, bầu rượu túi
cơm” này, chán nếp sinh hoạt tẻ nhạt và những mối giao tế hư ngụy, chán ghét sự
lặp đi lặp lại không ngừng nghỉ: “làm việc kiếm tiền, dưỡng gia nuôi miệng,
tiêu khiển giải trí, ngày lại ngày, năm qua năm, cứ thế không đổi, hôm qua chờ
hôm nay, hôm nay đợi ngày mai, không có gì khác lạ … tôi bi ai cảm thấy mình
từng bước tiến về tử vong một cách khó chịu…
Lỗ Tấn nói: “Không hài lòng là đang hướng thượng”. Nhưng hiện tại
kim tiền, danh vọng, địa vị, những thứ mà thường nhân cả đời ước ao tranh giành
không ngừng thì tối có rất dễ, nhưng lại thấy chẳng có chút ý nghĩa chi, tôi tuyệt
không có tâm muốn chiếm hữu, thế thì tôi truy cầu cái gì trong cuộc sống? Tôi
giống như một kẻ lang thang ưu buồn, lạnh lẽo, vọng nhìn chung quanh… Sau lưng
mang mang, trước mắt mờ mịt!…
Tôi thử sống như mọi người, cũng tiêu xài, giải trí theo cách sang
cả phong lưu, dùng toàn hàng cao cấp, đắt tiền; cũng quần là áo lụa, trang điểm
thật xinh, thử vào các quán sang trọng rực rỡ ánh đèn nhấm nháp cà phê, sâm
banh… nhưng lại thấy thê thảm hơn khi phát hiện mình giống như một tên hèn đáng
thương không thuộc vai diễn, ngồi co ro trong một góc.
Sau đó tôi gởi tình vào sơn thủy, lấy thiên nhiên làm lương dược để
điều trị tâm linh bất thường này. Tôi mê say và thích sống giống như tác phẩm
“Đào Hoa Nguyên Ký” từng diễn tả, muốn làm ẩn sĩ đẻ “mùa đông hài cúc, mùa hạ
ngắm núi nam”. Cái kiểu lấy núi đồi, bách tùng làm bạn lữ, sinh hoạt thanh nhàn
với mây trắng gió lành làm tôi thích thú. Ở trên núi, tôi được dịp tiếp xúc với
tự viện và người xuất gia, bước vào đạo tràng trang nghiêm thanh tịnh, tâm tư
phiền muộn bất an trở nên yên tĩnh rất nhiều. Vọng nhìn một tảng sĩ mặc áo tu,
phong thái siêu nhiên thanh thoát, tôi bỗng khởi tâm ngưỡng mộ ước ao, tự nói
thầm: “Nếu như ngày nào đỏ tồi được mặc chiếc áo giải thoát này thi tuyệt bết
mấy!
Nhân duyên hội đủ, song thân tôi quy y Phật môn làm cư sĩ, nhân đó
cũng dìu dắt tôi đi vào đường học Phật. Tôi vô cùng cảm tạ mẫu thân đã giúp cho
tôi có bước rẽ trọng đại. Mẹ tôi nhẫn nại giảng giải, tôi bỏ công nghiên cứu
một số kinh sách để thâm nhập Phật môn, cảm thấy như vừa tỉnh cơn mê dài, vui vì
“thoát thai đổi cốt”.
Những cảm xúc khó chịu quẫn bách trong tôi thảy đều tìm được đáp
án nơi kinh Phật. Tôi chưa bao giờ có qua niềm khinh an hỉ duyệt như thế này,
lòng cảm kích không nguôi.
Tuy tôi là một bác sĩ, nhưng chỉ có thể giải quyết cái khổ nhất
thời cho thân xác bịnh nhân. Còn cái khổ về tinh thần, cái khổ của tử vong, thi
vô phương đào thoát và đối với vấn đề căn bản trọng đại như sinh tử, tôi đành
thúc thủ bó tay.
Phật là đại y vương không gì không thề trị, là bác sĩ tài giỏi tối
cao trong cuộc đời, bịnh gì Ngài cũng có thể chữa. Tôi muốn tu học theo Phật!
Và tôi khó bề kềm nén ước muốn này, càng vô phương khắc chế niềm tôn kính muốn đảnh
lễ tạ ân cao vợi không gì sánh được của Phật!
Tôi biết từ vô lượng kiếp đến nay, mình tội nghiệp vốn thâm trọng,
vì vậy sau khi quy y làm cư sĩ, tôi nỗ lực bố thí, đem tiền bạc vật dụng sở hữu
cúng dường tượng Phật, in kinh sách, phóng sinh, hộ trì tự viện v.v… thậm chí
có mượn tiền cũng phải làm cho bằng được! Bây giờ nhớ lại thái độ chấp trước để
bố thí lúc đó mà buồn cười. Khi gặp Phật pháp, tôi cho rằng mình đã tìm được
kho báu tối trân quỷ trong đời, thế là đem tất cả sách thế tục, sách danh nhân
và mọi danh tác, bưu tem… mà minh từng tích chứa sưu tầm từ trước đến nay, cho
hết – không cần nữa.
Những truyện về chư Phật Bồ-tát đại từ bi và lịch đại thánh đức
cao tăng hạnh nguyện thâm sâu khiến tôi cảm động rơi lệ đầm đìa như Hòa thượng
Hư Vân, Hòa thượng Tuyên Hóa, đại sư Ấn Quang, đại sư Quảng Khâm…các ngài có
đầy đủ đại nguyện, đại hạnh, đại dũng, đại bi, đi vào đời vì chúng sinh bằng sự
nghiệp xuất thế, nhẫn nhục gánh vác, nguyện lực hùng thâm, hoằng dương chính
pháp, quảng độ chúng sinh quá tuyệt vời như thế, mỗi mỗi đều là Bồ-tát hóa
thân, thừa nguyện tái lai. Khiến bao nỗi niềm cảm kích, xúc động, tôn kính,
khâm phục, sùng bái… cứ trào dâng và thấm đẫm toàn thân tôi.
Người thế gian do quan niệm sai lầm nên miệt thị giới tu sĩ. Có kẻ
cho người xuất gia là hạng ăn xin lường gạt dối lừa. Có kẻ cho người tu là trốn
trách nhiệm bổn phận xã hội, muốn náu thân nơi cửa chùa làm ký sinh trùng hưởng
thụ, là kẻ giả thần lộng quỷ mê hoặc người, có kẻ còn tưởng các tu sĩ giống như
các nhân vật trong truyện tình cảm ủy mị hay các truyện võ hiệp thường viết, vì
thất tình mà đi tu, hoặc là bậc đại hiệp có võ công tuyệt thế…
Trong lòng tôi bỗng nghe đau ảm thầm, đau mà không thể nói, nỗi
đau này càng đẩy tôi bước nhanh vào đường xuất gia. Trong Phật môn “hữu cầu tất
ứng”, hoặc có lẽ trong vô hình trời xanh đã thầm an bày. Không bao lâu tôi được
vị ân sư đạo cao đức trọng 80 tuổi thế phát cho.
Sư phụ tôi xuất gia từ nhỏ, một đời khổ hạnh. Thời tuổi trẻ ngài
lên núi tu hành, lấy rau cỏ làm thức ân, thu hạ xuân đông chỉ có một y bá nạp
vá chùm vá đụp. Ngày ăn một bữa, tùy cảnh mà an. Chẳng cầu danh lợi, ngài vui
sống đạm bạc theo tôn chỉ: “Chẳng vì bản thân cầu an lạc, chỉ nguyện chúng sinh
thoát khổ đau”, được ngài Hư Vân ngợi khen.
Tôi quyết định dùng máu mình chép kinh cúng dường, bày tỏ tâm
nguyện muốn làm tu sĩ. Cảm ân sư phụ từ ái nhiếp thọ và mẫu thân sáng suốt
cương nghị đã đưa tôi đến con đường giải thoát, nhận thọ phúc duyên được sư phụ
thế phát.
Lúc đó mẹ tôi cười bảo: – Hồi nhỏ con không ưa để tóc, thường phải
cạo đầu, lần này xem như là cạo vĩnh viễn rồi đấy nhé!
Tôi hiểu rõ ẩn ý trong câu nói của mẹ, bà muốn tồi nhất định phải
kiên tâm đi trên con đường này đến cùng, không được hồi đầu…
Sư phụ từng hỏi tôi:
– Con có sợ khổ hay không?
Tôi thưa: -Dạ không.
Bởi vì, gần 7 năm sống trong quân đội đã mài luyện ý chí tôi kiên
cường vô úy, nhưng khi làm tiều Sa-di, lần đầu dối diện với công tác gánh phân,
tôi không khỏi kinh hãi. Con gái thành phố chưa từng gánh nước hay gánh qua bất
cứ thứ gì giờ phải gánh đôi thùng phân to đùng, vừa dơ vừa thúi, văng lên mình
là muốn nôn.
Nhưng tôi chuyền niệm nghĩ lại “Muốn học hạnh Bồ-tát thì phải dùng
đây mà phá ngã, phá hết chấp trước đối với sắc thân”. Tôi nhớ hồi ở y viện,
từng công tác điều trị tại khoa bỏng. Hằng ngày tiếp nhận bịnh nhân thảm đến
chẳng nỡ nhìn. Vỉ toàn bộ mặt mày nạn nhân đều bỏng, những nạn nhân này trong
quá khứ từng có dung nhan thanh tú, xinh đẹp mê hồn. Cũng có người anh tuấn tài
hoa, siêu quần bạt chúng, nhưng chỉ trong chớp mắt thôi, họ đã bị ngọn lửa cướp
đoạt nhan sắc và tính mệnh, thậm chí bị bỏng đến hình dạng xấu như ma, chẳng ra
dáng người nữa.
Sắc thân này vô thường và chẳng có gì đáng để ái tiếc, tôi đặt
mình vào lúc đang công tác chữa trị những người “đang sống mà thân bị thiêu
cháy”, thì lập tức có thể vui vẻ gánh phân ngay, nhờ vậy mà tôi nhanh chóng
thích ứng với mọi công tác gánh nước bửa củi, cày ruộng, gieo trồng, nấu cơm
hành đường v.v…
Các công việc này hồi ở thành phố tôi chưa làm qua, tôi hiểu lao
động cũng là một loại “thiền mỹ lệ”, giúp đả phá mọi chấp trước và mài luyện
tâm chí, làm giảm thiểu vọng tưởng và tăng gia phúc báo. Tôi không ngăn được
giọt lệ cảm ân chư Phật Bồ-tát!…
Tôi thầm cảm thấy mình tội nghiệp sâu nặng làm chướng ngăn tâm
trí, huệ căn mỏng bạc. Nghĩ đến sư phụ muốn tôi phát tâm đại bồ đề, lấy giới
làm thầy, lấy cảnh khổ làm sư tôi xấu hổ vạn phần.
Một lần tình cờ, tôi đến vùng tuyết sơn, bị tín ngưỡng toàn dân ở
đây làm chấn động. Bất kể họ bao nhiêu tuổi (từ em nhỏ khoảng ba bốn tuổi cho
đến người lớn bảy-tám mươi), tất cả đều chí thành, cứ tam bộ nhất bái, năm vóc
sát đất đảnh lễ Phật, dù trời đang lạnh buốt rất khắc nghiệt, tuyết rơi phủ
núi. Nơi này dù thiếu nước ít lương, cảnh ăn tuyết nằm sương cũng chẳng ngăn
được nhiệt tâm đảnh lễ của họ. Khát thì nếm một nắm tuyết, đói thì nuốt một
nhúm bột stampa. Tâm tư họ cực kỳ thành kính, nhờ vậy mà có được niềm vui thánh
khiết. Đây há tâm của kẻ thường nhân có thể hiểu tới, tuy khổ tu mà chẳng khổ,
trong cực khổ mà cực lạc.
Về đến nước mình rồi, tôi cảm khái vô hạn so với đạo tâm của người
dân ở tuyết sơn. Hàng tu sĩ nội địa chúng ta sống nơi đây đâu có đạm bạc gì?
Một bề là đang hưởng phúc đấy chứ. Nhưng núp sau cuộc sống hưởng thụ vật chất
cao độ, tinh thần đạo đức thường bị suy vi, vì người ta dễ lười biếng, mặc tình
buông lung, ham hưởng thụ, nên dễ tật đố và phát sinh chướng ngại, biến chiếc
áo tu thành ô bảo hộ, dung túng tham sân si mạn nghi tàng ẩn bên trong, mặc
tình cho chúng phát triển sinh sôi tràn lan.
Tôi thầm cảm thấy mình là hạng người có chủng tử địa ngục, chẳng
chút tu hành, ác tập dẫy đầy, mượn áo Như Lai mà không có chi để đền đáp, thật
thẹn với danh “Thích tử”.
Chư Bồ-tát kiếp xưa từng lột da làm giấy chẻ xương làm bút, lấy
máu làm mực… Tôi chẳng có phúc báu, càng không trí huệ, chỉ có một trái tim nhỏ
bé, cũng làm gan phát nguyện: “Xin dùng máu mình sao chép Phật kinh, nguyện đem
công đức này hồi hướng cho tất cả chúng sinh tận hư không pháp giới, nguyên tất
cả chúng sinh cùng đăng bồ đề, viên thành Phật đạo. Nguyện thế giới hòa bỉnh
chúng sinh an lạc”.
Tôi không thể cắt lưỡi làm mực như đại sư Trí Thành, nên chỉ trích
máu tay làm mực, chép Kinh Hoa Nghiêm. Đến nay đã chép xong “Kinh Địa Tạng”,
“Phật thuyết vô lượng thọ”, “Kinh Kim Cang”, “Kỉnh phổ môn”, “Kinh A Di Đà”,
“Phổ hiền hạnh nguyện phẩm”, hiện chưa chép xong “Kinh Hoa Nghiêm và “Kinh Pháp
Hoa”. Một đời chẳng mong cầu chi, xuất gia là tôi tự chọn, không hối hận, kiên
định không đổi.
Vinh hoa phú quý, danh hư lợi ảo, thâm tình bè bạn, ái tình… tất
cả chẳng qua chỉ là “mộng huyễn bào ảnh khói sương qua mắt”… Ta bà thế giới
nhiều khổ không vui, chúng ta chỉ là lữ khách tạm trú, là Phật tử lưu lãng
trong cõi ta bà, bấy lâu trôi nồi bên ngoài đã thấm mệt, khốn đốn, xin hãy nên
sớm quay về.
Quả Khanh kính bút (và xin sám hối sư Diệu Dung vì đã ghi mà không
xin phép).
Lời tác giả:
Xin giải thích đây là chuyện kể về những giấc
mộng (báo trước nạn tai xảy ra trên thế gian) do một pháp hữu của tôi nằm thấy,
rất có giá trị và đáng để chúng ta tham khảo vì có ý nghĩa rất lớn đối với việc
khuyến hóa thế gian.
Xin hãy đọc và rút ra những tinh hoa để sống tốt cũng như phổ biến những điều
hay này. Nguyện mọi người đều tin sâu nhân quả, siêng năng đoạn ác tu thiện,
tất cả đại nạn phát sinh trên đời đều do ác nghiệp chung của mọi người tạo
trong quá khứ đã chín muồi mà chiêu cảm nên.
Nếu như ngay đây mỗi người tự biết phản tỉnh sám hối, đoạn ác tu thiện, thì có
thể chuyển cộng nghiệp thành biệt nghiệp, khiến ác báo trong quá khứ chẳng thể
trổ và không thọ ác quả.
Chúng ta hãy phát nguyện từ phút, giây này về sau, thệ đổi mới bản thân, làm
lại từ đầu. Chân thành sám hối, bỏ xấu huân tốt: dứt sát, ăn chay, phóng
sinh…rộng hành thiện nghiệp, nghiêm giữ năm giới, tự nhiên đời sống sẽ cát
tường bình an.
Nguyện mọi người nỗ lực tu sửa bản thân trong sáng, để cuộc sống luôn rạng rỡ
hạnh phúc.
(Đây không phải là bài văn của đương sự, tôi chỉ là người viết
thay, sau khi được thuật giả kể ra câu chuyện và ủy thác nhở phổ biến giùm)
Bây giờ, mời bạn đọc chuyện kể của người trong cuộc:
Hiểu rõ chân tướng địa chấn:
Nhiều năm nay nước tôi thường xảy ra tai nạn, đặc biệt là mấy năm
gần đây, Vấn Châu liên tục bị đại chấn. Ngọc Thụ cũng bị địa chấn, lụt lội
giáng toàn quốc, khí hậu lạnh nóng thất thường, tai nạn liên miên. Mấy ngày
trước Nhã An Lô Sơn phát sinh địa chấn, việc này khiến tôi đứng ngồi không yên,
tôi nghĩ mình cần phải đem những điều đã thấy trong mộng phổ biến ra, cũng là
để báo đáp đại ân của Bồ Tát Quan Thế Âm. Chắc chắn sẽ có nhiều người phản cảm
với những điều kể trong mộng, sẽ cho đây là lời hoang đường vô căn cứ. Cho dù
quí vị khinh rẻ, xem thường những gì tôi kể ra, đối với tôi cũng không hề chi,
tôi chỉ hi vọng: chỉ cần trong số độc giả, có được ít người chịu hồi tâm hướng
thiện, như vậy là thỏa nguyện lắm rồi.
Trung tâm của vũ trụ chính là tình thương, là lòng đại bi. Có lòng
yêu thương nhân ái con người và vạn vật mới sống với nhau thuận thảo hài hòa.
Nghĩa là ta không làm gì xâm phạm môi trường thiên nhiên, mà luôn trân trọng
bảo vệ từng cọng cây ngọn cỏ, từng sinh mạng của người và vật. Nếu mọi loài
sống hài hòa như vậy, thiên hạ sẽ thái bình.
Phật pháp giảng: “vạn pháp giai không chỉ có nhân quả bất không”.
Tận hư không khắp pháp giới vốn là đồng thể, đều là anh chị em. Đối với núi
sông đại địa, khoáng sản và động, thực vật…Chúng ta phải có lòng trân quý, ái
tiếc, nếu làm tổn thương, chúng ta sẽ nhận quả báo dội ngược. Đây chính là luật
nhân quả căn bản của vũ trụ, là “thế giới quan” vô hạn lượng.
Bây giờ chúng ta phải động não, chịu khó tư duy để nhận chân vấn
đề cho thấu đáo: Vì sao nhân loại đối với thiên nhiên không ngừng phá
hoại, chiếm đoạt và luôn gặp phải bão lũ cuồng phong (do thiên nhiên báo trả)?
Trong tạng truyện Phật giáo có một cuốn tên “Mộng Du Già”,
trong đây liệt kê có ba loại mộng:
Loại một, là thường nhân hay nói: “Ngày nghĩ làm sao, đêm chiêm
bao như vậy” cho nên các giấc mộng này hoàn toàn không có ý nghĩa, không rõ
ràng và không lô-gích.
Loại hai: do nghiệp lực tạo trong quá khứ hiển thị qua mộng, chẳng
hạn như đương sự thường mộng thấy bị người truy sát…
Loại ba: do công phu tu hành đạt đến cảnh giới cao, tâm định phát
dụng hoặc được thần linh báo mộng. Mộng này cần hội đủ ba điều kiện:
1. Có trí huệ bẩm sinh, tức là trí huệ do nhiều đời tu hành tích
lũy.
2. Có công phu thiền định tương đối cao. Ra khỏi bùn nhơ và bất
nhiễm chính là thiền tối cao.
3. Do phúc báo hành thiện nhiều đời tích lũy thành.
Loại mộng thứ ba luôn thấy rất rõ ràng, giống hệt như đang xảy ra
ban ngày vậy. Phật giáo gọi mộng này là “Thanh minh mộng cảnh”. Đây là
“Linh mộng” thường xuất hiện sau 3-4 giờ sáng. Mộng này liên quan đến chân
tướng vũ trụ nhân sinh.
Các vấn đề này trong cuốn “Đại đức đích tương quan luận thuật”
có giảng giải rất cụ thể tỉ mỉ.
Trước khi tự thuật các giấc mộng dự báo địa chấn, tôi nghĩ mình
nên nói một chút về chuyện động vật hay đến báo mộng, thỉnh cầu phóng sinh. Đây
là cảnh mà vài pháp hữu của tôi cũng thường thấy.
Hằng năm, cứ bắt đầu vào xuân là loài rắn thường đến báo mộng cho
tôi, xin tôi hãy đi phóng sinh chúng. Nhưng năm ngoái chúng báo mộng vào cuối
năm (còn báo mộng cho chồng tôi nữa).
Có lúc chúng báo mộng cho tôi liên tục suốt ba đêm liền, xin tôi
hãy phóng sinh con chúng trước rồi sau đó mới thả chúng. Cuối cùng, chúng còn
nói nếu tôi phóng sinh chúng rồi, chúng sẽ rất tri ân. Còn nếu như không thả,
tâm báo oán của rắn rất mạnh.
Xem ra động vật cũng rất yêu con mình. Dù là độc xà, song những
con rắn này lúc sinh thời có một số đã từng là người tu hành. Chỉ vì tâm
sân quá nặng nên bị đọa làm rắn, chính tâm sân cực mạnh đã sản sinh ra nọc độc.
Rắn cũng có một số là tiểu long
hóa hình. Mà loài rồng nhỏ này vẫn có khả năng khuấy động
địa cầu, gây ra tai nạn. Chúng cũng có thể trở thành (long thần) hộ pháp đắc
lực cho người tu (nếu chúng phát tâm quy y Phật, tình nguyện hộ vệ Tam Bảo).
Các động vật khác cũng thường báo mộng cho tôi, kêu tôi hãy cứu
chúng, thường thì con vật báo mộng ngày thứ nhất, là hôm sau ở ngoài đời thự
tôi sẽ gặp chúng. Trễ lắm thì ngày thứ ba cũng gặp loài động vật này, tình cảnh
giống hệt trong mộng.
Một lần nọ, có hai đội thiện nguyện đi phóng sinh, một đội thả cá
chép và một đội thả ba ba. Tôi không tính đi, nhưng có chuẩn bị chút tiền gởi
cho đội phóng sinh ba ba. Trong tâm chỉ có ý tưởng vậy thôi. Nào ngờ tồi đó ba
ba báo mộng, kêu tôi hãy đi thả chúng, còn dặn tôi ngồi xe xuống trạm nào nữa.
Trong mộng còn thấy rõ cảnh đội trưởng thả cá chép đang nói chuyện với người
khác, bên cạnh còn có hai xe tải lớn. Ba ba còn dặn tôi phải dùng tay che mặt
lại, đừng để cho trưởng đoàn thấy tôi.
Chúng bảo: “Cô thả chúng con, sẽ được phúc các con của cô rất
ngoan ngoãn dễ dạy và tình cảm hai vợ chồng cô rất đầm ấm”.
Các động vật trong mộng còn kể tôi nghe chúng chết làm sao, hồi
làm người đã tạo ác nghiệp gì, luôn nói là chúng sẽ rất mang ân khi được phóng
sinh!
Mà thực vậy, loài vật rất có tâm biết ân, tôi từng phóng sinh hồ
ly. Vậy mà ba lần, trong mộng chúng đã đến thăm tôi, bày tỏ niềm trân quý thân
thiết, thậm chí còn báo trước cho tôi biết rất nhiều việc sắp xảy ra. Chúng có
thể biết trước tương lai sẽ phát sinh tai nạn nào.
Chẳng hạn như cuối tháng 6 năm ngoái, hồ ly đã báo mộng cho tôi,
nói là tháng 7 sẽ có đại tai nạn. Kết quả ngày 21 tháng 7 Bắc Kinh phát sinh
lụt lội khủng khiếp. Còn như trước khi Nhật Bản xảy ra đại địa chấn và sóng
thần, thì loài cua (không phải là loài cua nhỏ như thông thường chúng
ta nhìn thấy, mà loài cua này rất to, ít nhất cũng to bằng cái rỗ) đã
báo trước cho tôi. Trong mộng tôi thấy chúng lộ vẻ kinh hoảng lúng túng, từ đáy
đại dương ngoi lên, bảo tôi:
-“Ngày thế giới diệt vong đến rồi!”
Hôm sau tôi kể cho chồng nghe là sẽ có địa chấn và sóng thần, kết
quả ba ngày sau phát sinh địa chấn tại Nhật Bản.
Những động vật báo mộng này rất có linh tính, chúng biết rất nhiều
về chân tướng sư thật của vũ trụ (không như con người chúng ta vẫn tưởng và cho
là động vật là ngu si không có lý trí). Tôi đã 11 lần mộng thấy ngày thế giới
mạt (bắt đầu từ cơn địa chấn tại Vấn Châu). Hoạn nạn này là do chúng ta sát
sinh quá nhiều mà chiêu cảm nên.
(Có nghĩa là từ cơn địa chấn Vấn Châu đã khởi sự cho thời kỳ thế
giới mạt) Nhưng nói tận thế hay thế giới diệt vong, không phải là địa cầu sẽ
nổ, sẽ bị hủy diệt, hay nhân loại chết sạch hết, mà có nghĩa là tai nạn sẽ xảy
ra rất nhiều, rất khủng khiếp. Tận thế là dứt kiếp của người ác (có nghĩa đây
là thời điểm trả báo, đến lúc diệt vong chung) của kẻ tạo nhiều lỗi (khi quả đã
chín muồi thì báo tới), tai nạn chung chính là cộng nghiệp khiến người ta đồng
thọ báo chung.
Trong mộng còn nói rõ, thế nhân đều biết năm 2012 là bắt đầu thời
thế giới mạt, nhưng con người vẫn có thể sửa đổi, chuyển hóa bằng thiện nghiệp.
Song nếu như chúng ta vẫn sát sinh không ngừng, tùy tiện tạo đủ nghiệp ác thì
sẽ rơi vào ngày mạt trên thế giới này, đây là kết quả của việc sống lầm lỗi mà
nhân loại phải tự gánh.
Những năm gần đây tai nạn xảy ra liên miên bất đoạn, (bao gồm cả
địa chấn đang xảy ra đương thời) đặc biệt là loài thủy tộc biết trước rất rõ.
Cách đây không lâu, cá chạch đã báo mộng cho tôi, nói do nhân loại
ăn thịt thủy tộc và động vật rất nhiều, tất nhiên để rửa hận, chúng sẽ gây nên
một trận ôn dịch báo oán khiến những kẻ sát hại chúng bị mạng vong. Trong mộng
chúng còn cảnh báo rằng: “lãng phí một chén cơm, sẽ bị đói và giảm thọ một
ngày, giết một con gà v.v…sẽ giảm thọ một năm”.
Báo mộng Nhã An Lô Sơn bị địa chấn
Trước khi Lô Sơn bị địa chấn chừng 2-3 tháng, một buổi tối, tôi có
mộng thấy cảnh địa chấn nhưng mơ hồ, nên không nghĩ là nó sẽ xảy ra nghiêm
trọng đến vậy.
Vào đêm Lô Sơn địa chấn, trong mộng cảnh báo rằng nạn này là do
rắn (một loài rồng nhỏ) báo thù, bởi vì chúng ta ăn con cái, thần dân của chúng
quá nhiều. Tâm oán hận của loài “long xà” rất mạnh liệt cho nên chúng sẽ báo
thù rất mạnh.
Ở Tứ Xuyên do con người sát sinh quá dữ, nên tai kiếp khó tránh,
vì vậy mà cả hai lần địa chấn đều xảy ra ở Tứ Xuyên. Trong mộng còn nhắc nhở
mọi người, năm nay phải nên phóng sinh thật nhiều rắn, hơn nữa phải thường đi
chùa, tu thân tạo đức, mới có thể tránh được tai nạn sau này. Nhưng nếu như con
người cứ tiếp tục sát sinh, sau này thiên tai hoạn nạn sẽ dẫy đầy, rất khủng
khiếp và người ác sẽ diệt vong trước nhất.
Báo Mộng địa chấn ở Vấn Châu:
Trước khi Vấn Châu bị địa chấn ước chừng 2-3 tháng, tôi mộng thấy
mình đi qua một dãy nhà cửa, gạch ngói trên mái rơi xuống không ngừng, nhưng
chẳng trúng tôi. Toàn bộ lâu đài phòng ốc đều sụ đổ, chồng tôi ở trong đó cũng
vô sự. Tôi cho rằng đây là nhờ tôi thường phóng sinh, cho nên nhà và người
không bị tai nạn. Ai ngờ sau đó chẳng bao lâu thì Vấn Châu xảy ra địa chấn.
Trước khi bị địa chấn khoảng một tuần, tôi mộng thấy một con chó,
(linh hồn là người, chỉ khoác bộ da chó bên ngoài thôi). Nó kể tôi nghe đời
trước nó làm người ở nhân gian, hiện vẫn còn thân quyến đang sống tại nước Úc
và nó khoe rằng: sau trận địa chấn này nó sẽ chuyển sinh làm người, vì vậy lòng
nó rất hoan hỷ (Đây chính là bằng chứng luân hồi).
Một chị bạn Phật tử kể với tôi, trước khi địa chấn, chị mộng thấy
mình đến Vấn Xuyên, gặp rất nhiều người đang sắp hàng chờ xe. Chị rất ngạc
nhiên. Không hiểu sao mình lại đến Vấn Xuyên? Sau khi địa chấn phát sinh chị
mới rõ, té ra những người tử vong trong trận địa chấn, danh sách họ sớm đã được
báo đến âm phủ, đã có tên họ sẵn tại đó rồi.
Trước khi Vấn Châu địa chấn khoảng nửa tháng, một người cháu gái
tôi mộng thấy mình đến âm phủ, gặp phụ thân (đã tạ thế) của cháu tay cầm một
quyển sổ sinh tử điểm danh, rất đông người trong cảnh (đất núi rung chuyển) ùn
ùn kéo đến, có vài bà con trong nhà cháu cũng đến đây. Một vị âm sai đến bắt
cháu, phụ thân thấy vậy liền đuổi theo vị này, ông kêu lớn và giận dữ bảo cháu:
- Ngươi đến đây làm gì? Mau về đi!
- Rồi ông cho cháu một đạp, cháu liền tỉnh giấc.
Trước Vấn Châu địa chấn một ngày, mẫu thân tôi mộng thấy cả vạn
người bị chôn sống, bên cạnh đó có mấy con chó. Năm 1999 bà đi chùa gặp một
quyển sách tên “Lưu Bá Ôn Bia Văn Ký” trong đây tiên tri, ghi toàn bộ
quá trình, cảnh tưởng Vấn Châu bị địa chấn và liệt kê tên rất nhiều huyện bị
tai nạn. Nhưng trong sách này từ ngữ xưa không gọi là “địa chấn”, mà gọi là
“địa động sơn rung”, còn tiên tri bằng mấy câu thơ như sau:
Vạn lượng hoàng kim hóa
bụi tro
Cô nhi quả phụ khóc gào
to
Ôn bì (hiện tại là huyện
Bì)Trùng Khánh người chẳng thiện
Quán huyện (hiện tại là
Đô Giang Yến) chỉ sợ khó thoát ra
Thập phương Bành huyện
(hiện tại là Bành Châu) nhìn thấy rõ
Nam nữ xúm chạy ra ngoại
đô
Miên Trúc, Miên Dương
còn phân nửa
Nước cuốn thành trì máu
nhuộm mờ
Xem ra trước khi tai nạn phát sinh, trong kinh thư đã ghi rõ hết
rồi.
Những giấc mộng sau khi Vấn Châu địa chấn
Sau khi địa chấn Vấn Châu kết thúc, tôi mộng thấy 2-3 mươi điềm
liên quan đến địa chấn Vấn Châu hết sức rõ ràng và lô-gích. Sau đây tôi xin nêu
mấy điềm mộng tương đối quan trọng cho mọi người phân tích, để hiểu rõ chân
tướng sự thật.
Sau địa chấn hai ngày, tôi đến trước tượng Bồ Tát Quán Thế Âm khấn
nguyện “Thưa Bồ Tát, xin Ngài hãy báo cho con biết, trận địa chấn lần này rốt
cuộc là do nguyên nhân gì mà phát sinh?”
Tối đó Bồ Tát cho tôi thấy hai điềm mộng, giải thích rõ là có hai
nguyên nhân:
Trong điềm mộng thứ nhất, tôi thấy có người không ngừng ăn vật gì
đó, ý nghĩa giấc mộng này là: người Tứ Xuyên tham ăn thịt, hiếu sát, đã giết
rất nhiều động vật để ăn. Quả chín muồi, động vật được phép báo thù con người,
dẫn khởi phát sinh trận địa chấn này.
Vì vậy mà giáo lý Phật luôn ngăn cấm không cho sát sinh!
Phật giáo cũng có những khai thị tương tự, giải thích rằng địa chấn
xảy ra chủ yếu là do con người sát sinh quá nặng. Bởi người ta ăn nhiều thịt
(một người không phải chỉ ăn thịt một con vật mà là rất nhiều con, thiếu nợ
mạng quá nhiều, trả không hết). Khi những con vật này đến đòi nợ, thì tai ương
phát sinh (do lòng báo thù đối với nhân loại tạo thành). Điều này giải thích vì
sao trước khi xảy ra địa chấn, động vật đều biết trước (chỉ duy nhất con người
chúng ta là không biết thôi)
Điềm mộng thứ hai khiến tôi rất kinh ngạc, quá kinh ngạc! Bởi vì
tôi vốn chỉ nghĩ là tại một nguyên nhân sát sinh thôi, nào ngờ còn có nguyên
nhân thứ hai, nguyên nhân khác nữa. Trong mộng tôi thấy nhiều người tà
dâm, bao gồm cả sinh viên, học sinh. Quả báo trực tiếp của tà dâm chính là đời
hậu duệ (con cháu) chết yểu, còn bạn thân phạm nhân sau sẽ tuyệt tử tuyệt tôn.
Thảo nào mà sinh viên, học sinh tử vong nhiều đến thế
Cũng không phải tất cả gia trưởng và học trò đều phạm lỗi này,
nhưng đây chính là cộng nghiệp mà nhân loại đồng chiêu cảm.
Qua một thời gian, điềm mộng còn giải thích cho tôi hiểu thêm, lỗi
chính là ở nơi giáo dục. Gáo dục đã thiếu sót không đúng đắn. Trong giấc mộng
Bồ Tát giải thích cho tôi biết, trẻ con thời thơ ấu rất khả ái, trong sáng,
nhưng khi chúng đến tuổi thanh xuân, do giáo dục không hoàn bị, chẳng hướng dẫn
đúng nên nảy sinh tệ lậu.
GIÁO DỤC RẤT QUAN TRỌNG
Sự giáo huấn phải bắt đầu từ khi chúng ta sinh ra, những gì trẻ
thấy và nghe sau khi ra đời, sẽ ảnh hưởng đến cách sống của chúng.Tục ngữ có
câu: “Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng”. Vì vậy chẳng những giáo dục có ảnh
hưởng đến con người sau khi sinh mà thậm chí từ lúc thai nhi còn trong bụng mẹ.
Thí dụ như, nếu người mẹ thông minh sáng trí thì sẽ ảnh hưởng tốt
đến đứa bé khiến nó trở nên khôn ngoan, hiếu học. Nếu người mẹ thường hay nóng
giận khi có thai, thì đứa bé chắc chắn sau này sẽ nóng tánh. Nếu người mẹ bướng
bỉnh không nghe lời chỉ dạy của bất cứ ai, thì con trẻ cũng trở nên khó dạy.
Cho nên, sự giáo huấn rất quan trọng, phải cẩn thận từ lúc mang thai.
Người mẹ tốt sẽ cống hiến cho xã hội những bậc hiền tài, vì vậy
phụ nữ giữ vị trí rất quan trọng trong việc xây dựng nhân cách con trẻ. Mọi phụ
nữ phải học và biết cách giáo dục con cái, trách nhiệm này bắt đầu ngay từ lúc
mang thai. Trong thời gian mang thai, người mẹ không nên tham lam, ích kỉ hoặc
nói dối. Bởi người mẹ có những hành động tư tưởng xấu thì sẽ khiến đứa con bị
ảnh hưởng theo và sẽ có những tư tưởng hành vi giống vậy. Sau này lớn lên bé sẽ
không thành công dân tốt được.
Các phụ huynh cần chú ý điểm này và cẩn thận giữ tư tưởng lành, dạy
dỗ con mình ngay từ lúc còn trong bụng mẹ.
Là cha mẹ thì phải nêu gương tốt cho con, chẳng nên tranh cãi, ích
kỉ, tham lam dối trá. Vì con cái sẽ quan sát và bắt chước cha mẹ. Con nít rất
dễ bị ảnh hưởng bởi môi trường chung quanh, vì vậy mà cha mẹ không nên lý luận
rằng họ “chỉ sinh con chứ không thể dạy con được!”…Nếu không biết dạy dỗ con
cho tốt, là không tròn trách nhiệm. Nếu đứa bé lớn lên trở thành kẻ xấu, gây ra
nhiều tai họa cho quốc gia và xã hội thì cha mẹ phải gánh trách nhiệm, có lỗi
rất lớn, vì đã không dãy con nên người.
Do vậy mà các bậc cha mẹ nên đặt việc giáo dục con lên hàng đầu
thay vì chỉ chú trọng đến kiếm tiền và theo đuổi danh vọng. Nên xem giáo dục là
nhiệm vụ quan trọng nhất, dạy con sống tốt là rất cần, rất quý và có giá trị
hơn việc kiếm nhiều tiền bạc cho con. Bởi nhờ hấp thụ nền giáo dục ưu mỹ mà con
trẻ lớn lên biết cách sống, trở thành người đoan chính thanh liêm, lưu tâm giữ
gìn thân thể. Trẻ em trong thời gian thơ ấu chưa đi học, cha mẹ chịu trách
nhiệm dạy dỗ con mình.
Sau khi trẻ vào trường, thầy cô phải là tấm gương cho học sinh.
Giúp các em phát triển nhân cách và đức hạnh. Phải dạy các em hiếu thuận cha
mẹ, cung kính người già. Ngay từ đầu, giáo dục phải dạy các em về hiếu hạnh.
Ngay từ thời tiểu học, các em phải được giáo huấn về đạo hiếu, biết vâng lời
cha mẹ và thường xuyên phụ giúp gia đình, làm vui lòng cha mẹ.
Thầy cô phải gánh vác trọng trách huấn luyện và rèn đúc trẻ em.
Phải dạy các học sinh không uống rượu, không hút thuốc, không hút các chất độc
có ma túy, nhứt là không nên có quan hệ bất chánh với người khác phái.
Điềm mộng nhắc rằng nền giáo dục hiện nay rất sai lệch, có thể nói
nền giáo dục toàn cầu đã đi đến giai đoạn suy sụp, người ta không quan tâm,
không chú trọng, không biết giáo dục. Nếu giáo huấn mà dạy về quan hệ tính dục
là sai lầm hết sức lớn! Đành rằng quan hệ tính dục có thể dạy nhưng nên dạy các
em chẳng nên giao du bừa bãi, phóng túng, không nên quan hệ xô bồ, bất chánh.
Phải dạy các em biết tự trọng, giữ gìn bản thân trong sạch, nhắc các em phải
bảo vệ thân thuần khiết như ngọc. Đừng hấp tấp tìm tình yêu và có thể tìm hiểu
về kiến thức tính dục khi các em trưởng thành.
Giáo dục bây giờ tệ lậu vì không chú trọng bồi đức lập hạnh cho
trẻ, dẫn đến nam nữ quan hệ rất hỗn loạn, biến cuộc sống họ thành bất hảo và
trưởng thành trong bất hạnh. Trong mộng tôi thấy Bồ Tát Quan Thế Âm tha thiết
kêu gọi: Hãy cứu các em!
Quả báo tà dâm thực sự rất kinh khủng, hai năm trước lúc tôi đi
Ngũ Đài Sơn triều lễ, đã mộng thấy Bồ Tát Văn Thù bảo tôi: Nhớ kỹ, con về phải
giải thích cho mọi người biết, nói rõ rằng: Hiện nay các vị bị ung bướu phụ
khoa, nam khoa, đa phần là do quả báo phóng túng tình dục quá độ mà thành. Bồ
Tát nhắc nhở rất nhiều về giữ gìn đức hạnh, sống đoan chính.
Còn có một lần điềm mộng báo tôi rằng, hiện nay những người phóng
túng tình dục, quan hệ tà vạy, phá bỏ con bừa bãi, sẽ tự chuốc họa và sau này
dù kết hôn cũng rất khó có con. Trong mộng còn nói: Con người không biết “Âm
luật rất nghiêm”. Điển hình là Thượng quan Ngọc Hoa từng mộng du địa phủ, sau đó
đã viết cuốn “Âm luật vô tình” trong đây phần lớn ghi quả báo tà dâm rất thê
thảm.
Điều này tuyệt đối có thật không dối. Bởi vì trong mộng tôi cũng
thường đến cõi âm và địa ngục, nên biết rõ sách này câu câu đều là lời chân
thật.
Hai ngày sau đó, tôi mộng thấy mình đến Đô Giang Yến, đi đến khu
tai nạn, khắp nơi là cảnh hoang tàn: tường đổ thành nghiêng, rồi tôi nhìn thấy
vầng thái dương đen thẫm. Hàm ý là sau này địa chấn sẽ càng lớn, (sự thật đã
chứng minh, sau đó đất, biển, địa chấn làm chết rất nhiều người.
Qua mấy ngày nữa, tôi mộng thấy nhiều cánh tay và chân trong đống
đổ nát hoang tàn, bên cạnh có một phụ nữ mặc áo hồng váy hoa, nửa thân trên bị
bán thân bất toại, bà bảo tôi:
Sao chẳng để ta chết quách đi!
Tôi còn mộng thấy một bạn học tại Mỹ, cô này qua Mỹ rồi thì chúng
tôi bặt liên lạc, cô ta tâm sự rằng:
Dù ở Mỹ cô luôn có chấn cảm (cảm giác động đất), máy vi tính của
cô thường lắc lư đu đưa…
Điềm mộng này hàm ý là: Lần này địa chấn gây ảnh hưởng rất lớn,
cần phải nhắc nhở toàn thế giới chú ý. Sự thực đã chứng minh, sau này khắp nơi
trên thế giới tai nạn ùn ùn kéo đến, phát sinh liên miên.
Có một pháp hữu bảo tôi: bạn của anh mộng thấy một nam sinh trung
học than thở: “Tôi là người Đô Giang Yến, tôi muốn về nhà nhưng tìm không được
đường về, xung quanh tối đen!”…
Tôi và người bạn này phân tích, có thể là nam sinh chết đã tìm anh
bạn kia báo mộng, nhờ siêu độ
Mấy ngày sau nữa, tôi mộng thấy cái hồ, bên cạnh đó có nhiều nhái
xanh. Chúng bảo tôi:
Địa chấn rồi!Tôi thấy chúng kéo tôi ra từ một ngôi lầu cao, ở
trước tòa nhà lầu này tôi cũng gắng sức gào lên: Địa chấn rồi!…chưa đầy một
phút thì tòa lầu sụp đổ
Thực sự thì động vật đối với địa chấn biết rõ chuẩn xác từng giây
phút, con người không hề biết điều này, họ có dự đoán địa chấn nhưng luôn không
chính xác bởi vì: “Người tính không bằng trời tính” vậy
Khi tôi nhìn thấy toàn bộ cảnh địa chấn liên quan đến Vấn Châu qua
ti vi rồi, tối đó tôi lại mơ thấy bên núi có rất nhiều thỏ rừng, động vật,
v.v…Linh hồn chúng đều là người (toàn là người già và trẻ em), chỉ khoác bộ da
con vật mà thôi. Giấc mộng cảnh báo tôi: “Trận địa chấn này người già và trẻ em
tử vong, do nghiệp chướng họ không nặng nên chết rồi đầu thai làm động vật nơi
sơn khu, còn những người trẻ và hạng trung niên do tạo nghiệp quá nặng, nên sau
khi chết thì họ đi thẳng xuống địa ngục đọa vào cõi quỷ”.
Một hôm tôi lại mộng thấy địa chấn, lâu đài cao ốc chấn động kịch
liệt, trong mộng tôi đã niệm một câu tâm chú của Bồ Tát Quan Thế Âm “Án Ma Ni
Bát Di Hồng” thì thấy lâu đài cao ốc không rung lắc nữa. Hàm ý điềm mộng này là
Tâm Chú của Bồ Tát là chú ngữ, tụng niệm có thể tiêu trừ nạn tai
Lại có lần tôi mộng thấy ngày diệt vong thế giới, không có thái
dương, cả đám người đang sợ hãi hoảng loạn thì bỗng có một vị nữ sĩ dẫn đầu
niệm “Nam Mô A Di Đà Phật”. Thái dương liền xuất hiện. Điềm mộng này giải thích
rằng: chỉ cần chúng ta hồi tâm hướng thiện, ăn chay niệm Phật thì có thể gặp dữ
hóa lành.
Sau khi địa chấn xảy ra, các bạn của tôi cùng tụ lại bàn tán thắc
mắc, không hiểu vì sao Bì huyện cách Đô Giang Yến gần như thế, mà không một
ngôi nhà nào đổ sập, không có một người thương vong?
Tối đó trong mộng giải thích cho tôi biết là: “Hiện có một hành
giả đạt đến đại thành tựu, là vị Phật sống đang ngụ ở Bì huyện, chính phúc đức
của Ngài đã chở che cho mọi người.
Sau địa chấn một thời gian, tôi lên Nga Mi Sơn lễ Phật, trụ tại
Thiện Giác Tự. Tối đó tôi mơ thấy Mã Luật Khang bị địa chấn, tử thương (bốn
ngàn vạn người) khắp nơi đầy lều bạt…Ý điềm mộng này rất rõ ràng, nói rõ kỳ này
Vấn Châu bị địa chấn, ứng tại Mã Luật Khang, mức địa chấn nặng kinh khủng, ảnh
hưởng lan rộng đến nhiều vùng chung quanh, gây thương vong rất lớn, có thể nhờ
ở trên phát lòng từ bi, cho địa chấn dời đến sơn khu Vấn Châu, để kẻ tội nặng
hưởng quả báo nhẹ, nhưng trận địa chấn này chắc chắn không thể tránh.
Sau đó tôi lại đi Nga Mi Sơn lễ Phật, cũng ngụ tại Thiện Giác Tự,
tối đó điềm mộng mách tôi: người tử vong trong trận địa chấn này đầu thai làm
các loài động vật trên núi (đương nhiên người đến địa ngục hoặc quỷ đạo sau khi
nghiệp báo trả xong cũng sẽ đầu thai làm súc sinh), cuối cùng trong mộng còn
nói: “Đây chính là bản chất của luân hồi”
Haiti địa chấn và Ngọc Thụ địa chấn, những địa chấn này tôi cũng
mộng thấy trước, ở đây không giải thích cụ thể nhiều được.
Tôi biết đến Phật giáo năm 29 tuổi, quy y đã 11 năm. Được Bồ Tát
báo mộng khuyên tôi ăn chay, còn nói trong hai chúng tôi, sau này sẽ có một
người bị ung bướu, bịnh này liên quan đến ăn thịt. Tôi cảm thấy Bồ Tát từ bi
nhắc nhở như thế, vội từ bỏ thịt, trường trai luôn.
Bồ Tát còn bảo tôi, những người uống rượu, hiện nay 20 tuổi đã bị
đần độn và lão hóa, đến 40 tuổi càng nghiêm trọng hơn và 60 tuổi thì không thể
nói năng. Tôi mới hiểu ra, già lão thiểu năng có liên quan đến ẩm thực, hèn gì
mà hiện thời tuổi trẻ hóa già, bị lú lẫn nhiều đến thế (nhưng chẳng phải tất cả
người già lú lẫn đều do uống rượu tạo thành).
Hi vọng những điềm mộng của tôi có thể cảnh tỉnh được người “đang
say ngủ”. Cũng hi vọng những địa chấn này sẽ gióng lên hồi chuông cảnh báo,
thức tỉnh những ai còn mê muội say đắm danh lợi ở thế gian.
Tại Thẳm Quyến, có một nhóm cư sĩ trẻ học Phật, họ nghiêm trì giới
luật, chuyên tu Chú Lăng Nghiêm, thường tổ chức phong sinh, chủ yếu là thả rắn
và các loài động vật hoang dã. Phóng sinh thường có nhiều cám ứng hay, xin kể
vài câu chuyên có thật như sau:
Rắn mắt kính
Mùa đông năm ngoái một nhóm thanh niên Phật tử từ sáng sớm đã đến
trang trại mua rắn, thấy trong chuồng vô số rắn, có một con rắn mắt kính khí
thế hung dữ, người nhát gan vừa nhìn là ớn lạnh, sợ đến muốn chạy trốn.
Chủ trại rắn thấy váy bèn vạch miệng nó ra cho mọi người xem
thấy nó không còn răng nào, vì đã bi nhổ sạch rồi. Cả nhóm thấy vậy đồng ý
mua nó cùng các con khác đem thả ở nơi thâm sơn xa người ở.
Hôm đó thời tiết rất lanh trời vốn đang ẩm u, nhưng lúc phóng sinh
thì vầng thái dương bỗng xuất hiện chiếu ánh sáng chói lọi khiến mọi người đều
cảm thấy ấm áp. Một anh trong đoàn nhìn thấy con rắn mắt kính không răng nọ đã
ngạc nhiên kêu lên:
– Chính con rắn này nè, nó giống hệt con độc xà đã báo mộng cho
tôi tối qua.
Té ra là trong mộng con rắn mắt kinh này đã hướng anh van cầu.
– Xin hãy cứu tôi. Xin hãy cứu tôi.
Qua đây có thể thấy chúng sinh đều rất có linh tính, ngàn vạn
lần không nên ăn thịt chúng.
Mẹ con rắn lục
Lần nọ một anh thường tham gia phóng sinh, kể chúng tôi nghe tối nọ
anh nằm mơ, thấy con rắn hóa thành một người già báo anh:
– Xin hãy cưu con tôi, con tôi đang rất nguy hiểm – Nói xong thì
biến mất.
Hôm sau anh hẹn với mấy pháp hữu đi mua rắn, phát hiện trong
bầy rắn lục nhỏ, bèn mua phóng sinh.
Tối đó, anh nằm mơ thấy con rắn lục nhỏ nhỏ nói:
– Rất cảm tạ ân các ngài đã cứu mạng. Giờ xin biếu tôn ông một xâu
chuỗi Phật để bày tỏ lòng cảm kích.
Hoa sen cá
Hôm đó, mọi người phóng sinh rất nhiều cá chạch, khi tụng Chú Lăng
Nghiêm và hồi hướng xong, thì bầy cá chạch lao xao ngẩng đầu nhẩy lên, rồi
chúng tản ra xếp thành hình giống như hoa sen. Cảnh tượng cả bầy cá xếp thành
hình những đóa hoa sen trang nghiêm trong nước khiến ai nhìn tâm tư cũng chấn
động và kinh ngạc. Nhân đây đạo tâm càng thêm kiên đinh, cùng nguyện tinh tấn
tu hành.
Chú rùa xanh
Hôm sinh nhật Vương Tú, gia đình em mua mười mấy con rùa để phóng
sinh, khi phóng sinh phát hiện một con rùa màu xanh bị thương trên lưng nên
quyết định giữ nó lại đem về nhà chữa trị.
Cha Vương Tú săn sóc nó hai tuần, con rùa hồi phục rất nhanh. Tối
đó ông Vương nằm mộng, thấy một người mặc áo xanh, hướng ông bày tỏ lòng cảm tạ
và nói:
Tôi hiện giờ thân thể đã mạnh khỏe xin hãy thả cho tôi về nhà.
Ổng Vương thức dậy lấy làm lạ, tự hỏi:
“Người mặc y phục xanh nay là ai. Sao thuở giờ ta chưa gặp qua?
Lúc này ông đột nhiên nhớ đến con rùa xanh, vội chạy đến giờ thùng
nhìn xem. thấy con rùa đang cố bò ra ngoài, ông Vương mới hiểu minh bạch.
– Té ra chú mày muốn về nhà ư? Được. Hôm nay ta sẽ thả chú.
Thế là ông cùng Vương Tu ra sông cẩn thành thả rùa xuống. Con rùa
ngoái đầu nhìn họ tỏ vẻ bịn rịn lưu luyến rồi chầm chậm bơi đi.
Hai người khách lạ
Hôm đó là ngày vía Bồ-tát Quan Âm thành đạo, sáng sớm tôi đã đến chợ
mua hai con rùa và một số cá để phóng sinh. Tụng kinh xong thì tôi thả chúng
vào con sông gần đấy.
Tối đó tôi mơ thấy có hai người lưng đeo cặp sách, mời tôi đến hàn
xá của họ uống trà.
Tôi theo họ đến một gian nhà, ngồi trước cái bàn tròn, uống trà
xong hai người tiễn tôi ra cổng, còn cảm tạ:
– Hôm nay may được ông cứu mạng, chúng tôi cảm ân vô cùng.
Họ nói xong tôi tỉnh giấc. Ngẫm nghĩ đến lời trong mộng đột
nhiên nhớ đến hai con rùa mình đã thả hồi sáng. Đúng là chúng đã đến cảm
tạ tôi.
Con bất hiếu, cháu vô
tình,
Ác tâm bỏ mẹ cha đói chết…
Thử hỏi thế nhân – tình nghĩa đâu?
Trời xanh chẳng tha thứ tội này!
Láng giềng kể tôi nghe câu chuyện xảy ra tại quê họ, hỏi:
– Đây có phải là nhân quả báo ứng như lời Phật dạy không?
“Tại thôn X huyện Y thuộc tỉnh Cát Lâm, có một gia đình
tám người trong một thời gian ngắn xảy ra bi kịch mà khắp “mười phố
tám quê” ai cũng biết. Tuy đa số không hiểu Phật pháp là chi, nhưng ai cũng
cho đây là báo ứng.
Hai vợ chồng trong gia đình này suốt bao năm dốc sức cấy
cày nuôi dưỡng sáu người con gồm ba trai, ba gái, lo chu toàn trách
nhiệm kẻ làm cha mẹ. Họ cưới dâu, xây nhà cho con trai ra riêng, sắm
đủ của hồi môn để gả con gái. Thực hiện chu toàn những việc này không
phải dễ, rất vất vả khó khăn, là điều hiển nhiên ai cũng thấy.
Người cha do lao lực quá độ mà bị bệnh nặng rồi qua đời.
Trong thôn ai cũng thở dài cảm thán, nói ông mệnh khổ, nhưng bà vợ
của ông mệnh càng khổ hơn. Vì chồng mất chưa đầy một tháng thì bà
vợ bị xuất huyết não, dẫn đến bán thân bất toại phải nằm trên giường.
Tuy bản thân có thể dùng tay trái để ăn cơm, song không thể đi vệ sinh
hay tắm rửa, rất cần có người dìu đỡ chăm sóc.
Sáu đứa con gồm trai lẫn gái và sáu dâu rể, tổng cộng
là 12 người, chưa tính đến cháu, đã đối đãi như thế nào đối với
người mẹ cả đời gian khổ vì con này?
Mới đầu họ sắp xếp hai người một nhóm, luân phiên chăm sóc
mẹ. Nhưng chẳng bao lâu, vợ chồng ba đứa con trai cảm thấy rất chán
ngán, phiền mệt, nên trong nhà bắt đầu xảy ra chuyện. Do giữa các
nàng dâu và mấy cô con gái bất hòa, thường nổ ra gây cãi ầm ĩ. Vì
vậy, họ cấm không cho bên con gái đem cơm chăm sóc cho mẹ nữa.
Mới đầu, ba con trai còn cho mẹ ăn, uống chút đỉnh. Sau đó
họ nghĩ: “Nếu ăn uống thì phải đi nhà xí”…nên ba cô con dâu bắt đầu
giảm khẩu phần ăn cho mẹ chồng. Có khi cả ngày không cho bà dùng món
chi cả. Do con gái và ba cô con dâu không thuận hòa, nên mười ngày nửa
tháng, họ cũng hiếm khi đến thăm.
Có lần ba cô con gái đến thăm mẹ, phát hiện ra bà yếu
đến mức không còn sức, ghé sát tai vào mới nghe giọng bà thều thào:
– “Mẹ đói….mẹ đói”….
Thế là họ vội tìm chút gì đó cho mẹ ăn. Nào ngờ, ba nàng
dâu thấy vậy nổi cơn thịnh nộ, chạy đến chỗ mẹ chồng đang nằm lớn
tiếng quát lên:
– Bà mới dùng xong hai chén cháo, sao còn đòi ăn nữa? Có
phải là muốn chết hay không? Bà nói vậy khiến con gái bà tưởng là
chúng tôi bất hiếu đấy!
Nhờ ba cô con gái kiên trì, cuối cùng bà cũng được dùng
một chút ít. Lúc cho mẹ ăn, ba cô gái thừa dịp chị dâu đi vắng, bèn
luồn tay vào sờ thấy bụng mẹ hóp gầy, chứng tỏ lời ba chị là dối
trá.
Thế là hôm sau, ba cô gái đem đến cho mẹ sáu cái trứng gà,
bà mẹ ăn ngấu nghiến, chốc lát đã hết sạch. Sau đó như được tăng lực,
bà mách nhỏ với ba con gái:
– Các con không đến thì tụi nó một chút cơm nước cũng không
cho mẹ dùng, chúng muốn để mẹ chết đói đó.
Mấy ngày sau ba cô gái lại mang đến cho mẹ thức ăn ngon để
tẩm bổ. Con gái đang cho bà ăn thì bị ba anh trai nhìn thấy. Họ liền
vào giật lại, ném xuống đất, dùng chân chà đạp lên thức ăn, phẫn nộ
mắng em không được cho mẹ dùng, viện cớ là bệnh bà xuất huyết não không
thể ăn được đồ bổ, dễ bị xuất huyết. Họ bảo:
– Các cô mà làm mẹ chết thì ai chịu trách nhiệm đây? Muốn
lo cho mẹ thì hãy rước mẹ về mà lo, đừng có tới đây chăm ăn mà không
chịu cưu mang.
Chuyện trong nhà họ chẳng mấy chốc lan ra cả thôn đều
biết. Không bao lâu, nơi sân họ vọng ra tiếng khóc lóc kêu gọi mẹ thảm
thiết. Sự nhẫn tâm bỏ mẹ đói khát khiến cho bà cụ xấu số, bất
hạnh đã phải sớm lìa đời. Tiếng các con bà khóc than, kêu gào nghe
vang trời động đất. Họ mặc áo tang đưa mẹ đi chôn, giấy tiền vàng mã
được ném đầy lên không trung, bị cơn gió lạnh phẫn nộ thổi bay tứ
tán.
Một tháng sau đó, cậu con trai cả bị nghẽn mạch máu não
phải vào cấp cứu ở bệnh viện tỉnh. Tuy được cứu sống, nhưng trở
thành liệt nửa người, tay chân bị co rút.
Cậu cả xuất viện được một tháng thì cậu hai và nàng dâu
cả tiếp nối vào bệnh viện. Họ cũng bị y chang chứng nghẽn tắc mạch
máu não. Được 12 ngày, hai người này vẫn còn chưa xuất viện thì cô
con gái thứ hai cũng đồng chứng bệnh như trên, phải nhập viện gấp.
Cô gái thứ hai xuất viện được hai ngày thì nàng dâu thứ ba
cũng vào viện. Không phải bị nghẽn mạch máu não, mà bị thủng bao tử.
Cô này vẫn còn đang điều trị thì chàng rể thứ ba bị xe tông văng ra
xa hơn hai mét. Lúc đưa đến bệnh viện tuy còn thở, nhưng toàn thân
xương cốt đa phần đều bị gãy, xương gối trái thì bị nứt, gối phải
dập nát, suốt mấy tháng liền không cử động được.
Tính ra, người mẹ chết chưa đầy một năm thì con trai, con gái,
dâu, rể….đã liên tục nối đuôi nhau vào bệnh viện. Người nào khi ra viện
cũng tốn hơn vạn tiền. Có người đã bình luận trường hợp của họ
thế này: “Bệnh viện tỉnh đã được gia đình các nghịch tử này “nuôi tốt”,
vì thu được bộn tiền”.
Trong thời gian đó, câu chuyện bất hiếu của họ được đồn vang
khắp nơi, ai cũng biết. Chuyện của họ trở thành đầu đề cho mọi
người bàn tán lúc làm việc hay nhàn rỗi.
Mặc dù địa phương đó rất ít người tin Phật, nhưng trong lúc
luận đàm, ai cũng nhất trí nói rằng: “Đây chính là báo ứng cho những
kẻ làm con mà bất hiếu!”.
Chuyện vẫn chưa hết, cậu cả dù bị bán thân bất toại,
nhưng hôm nọ khi di chuyển qua đường, lại bị xe tông thêm một nạn nữa
làm tổn thương não, thành ra người thực vật. Nghe nói đến nay vẫn
còn nằm trong nhà.
Không bao lâu thì cậu hai bị viêm gan, bị cơn bệnh giày vò hành
hạ hơn một năm thì chết. Tiếp theo nàng dâu cả bị nghẽn máu não cũng
lìa đời.
Láng giềng tôi kể: “Cháu trai, cháu gái nội ngoại đa số
đều do một tay bà chăm sóc. Nhưng lúc bà bệnh nằm viện suốt thời gian
dài, không đứa nào ngó tới, nghe mà chạnh lòng”. Chỉ mong các vị
thiện tri thức dạy cho họ Phật pháp, để chuyển biến vận mệnh xấu
về sau này. Nếu không, thiên lý trừng phạt công minh, kết cuộc bi thảm
của hậu bối bà thật khó mà tưởng tượng nổi.
“Nghịch tử cố ý bỏ mẹ đói khát, ngầm hại chết mẹ”. Tuy
dân chưa mách, quan chưa tra. Họ tuy không bị quốc pháp trừng trị, thế nhưng
“lưới trời lồng lộng, tuy thưa mà khó thoát”. Những người con bất
hiếu này, từng người, từng người đều thọ ác báo.
Đây thật là vạn sự vạn vật trên đời đều đang thuyết pháp
cho chúng ta thấy. “Thiện nhân thuyết pháp của thiện nhân, ác nhân thuyết
pháp của ác nhân”. Người thuyết pháp người, súc sinh thuyết pháp súc
sinh”. Bạn phải hiểu cho minh bạch, để mọi hành vi từ ăn, ở, đi đứng…đều
áp dụng pháp Phật đã dạy. Sống phải hành xử như thế nào, là do chính
bạn quyết định.
Tôi đem những câu chuyện “hiện thế báo ứng trong đời sống”
ghi vào đây chính là muốn cảnh báo nhắc nhở những người con bất
hiếu nên cải tà quy chánh. Nếu không, một khi ác báo tới, có hối
hận thì cũng đã quá muộn màng.
Mùa đông năm 2009, cư sĩ Dung (tên thật đã được đổi) gọi
điện cho tôi hỏi thăm chuyện in ấn kinh và sách thiện…Khi cô nghe nói nhà chúng
tôi còn những sách hay khác nữa, bèn đến để xem.
Nữ sĩ này họ Chu, khoảng 40 tuổi. Theo lời cô nói, cô mới theo học
Phật không lâu, chuyện hỗ trợ in sách thiện là tâm nguyện của cô – vì muốn tạo
công đức cho người mẹ vừa qua đời của mình, mong làm giảm bớt tội nghiệp cho
mẹ.
Câu chuyện về mẫu thân cô, kể ra rất hi hữu kỳ lạ. Được nghe rồi,
tôi cảm thấy câu chuyện này nếu ghi lại, có thể giáo hóa, cảnh giới tốt cho
những người con bất hiếu thời nay.
Mẹ Chu nữ sĩ là bà Vân, bị bệnh nặng và qua đời vào mùa thu 2009.
Nói đến nguyên nhân bệnh của bà, thật khiến cho người ta phải đau lòng. Chính
là do cô Nga – em dâu Chu nữ sĩ, cũng là con dâu bà Vân. Lần nọ, trong lúc gây
cãi, cô Nga đã khiến bà gia tức mà chết.
Em dâu Chu nữ sĩ là người cực kỳ bất hiếu với ba mẹ chồng, thường
cùng mẹ chồng gây cãi như cơm bữa. Ngay cả người cha chồng từ lâu bị bán thân
bất toại, cô Nga cũng chẳng thèm quan tâm, chăm sóc. Sau khi mẹ chồng qua đời
rồi, cô Nga càng không có chút gì ăn năn sám hối. Là chị, Chu nữ sĩ rất buồn
trách người em dâu bất hiếu này.
Vào nửa đêm ngày thứ 7 (tính từ lúc bà Vân qua đời), Chu nữ sĩ
đang ngồi một mình buồn nhớ mẫu thân nên cứ nhìn chăm chăm vào di ảnh của mẹ,
hồi tưởng đến lòng thương yêu mẹ dành cho mình. Ngay lúc đó, cô bỗng nghe tiếng
mẹ gọi nhỏ tên mình. Chu nữ sĩ liền tỉnh hẳn và thật bất ngờ khi thấy mẹ hiện
ra ngay trước mắt, nhưng hình dạng mẫu thân có làm cô sợ hãi. Mẹ Chu nữ sĩ mặc
áo đi đường, phía trên thân bị đeo gông xiềng, lộ vẻ hết sức thống khổ. Chu nữ
sĩ làm gan, hỏi:
– Mẹ, phải mẹ đó không?
Mẫu thân cô kêu lên:
– Dung ơi, hôm nay là đêm vong linh được phép về nên mẹ đến thăm
con. Mẹ chết rồi, khi lên “Vọng hương đài” nhìn về quê nhà ở nhân gian, thấy
con rất buồn, hàng ngày rơi lệ, mẹ đau lòng lắm. Hôm nay được ngục quan phê
chuẩn, cho phép tướng quân Ngưu đầu Mã diện dẫn mẹ về đây thăm con.
Chu nữ sĩ vội hỏi:
– Mẹ nói “Vọng hương đài” và tướng quân Ngưu, Mã gì?…Con nghe
không hiểu?
Bà Vân đáp:
– “Vọng hương đài” là nơi địa phủ đặc biệt thiết lập cho người
chết lên đó nhìn về cảnh quê nhà thân thuộc ở thế gian. Tướng quân Ngưu, Mã – là
ngục tốt ở âm cung (cũng giống như cảnh sát ở dương gian vậy). Bọn họ hiện đang
ở ngoài cửa chờ. Chút nữa sẽ dẫn mẹ về địa ngục mà thọ tội.
– Mẹ ơi, vì sao mẹ phải xuống địa ngục thọ tội?
– Ôi Dung ơi, chết rồi mẹ mới biết tội mình quá lớn. Con biết mẹ
vì sao mà chết phải không? Là tại cái đồ…con dâu bất hiếu nó chọc mẹ tức đến
chết đó mà. Nhưng thật ra đây cũng chính là báo ứng của mẹ. Vì hồi còn trẻ mẹ
cũng bất hiếu ác độc với bà nội con. Ông nội con sớm qua đời, bà nội con phải
sống cùng với cha con và mẹ. Hễ bà nội con có làm chút gì trái ý, khiến mẹ
không vừa lòng, là mẹ liền trách mắng…đến nỗi sau này bà nội con hễ vừa thấy mẹ
đều run sợ như chuột gặp mèo. Mẹ thấy vậy rất đắc ý, cảm giác trong nhà này
mình là chủ rất oai phong, nói gì ai cũng phải nghe.
Có một việc con không biết, nguyên nhân bà nội con bị bệnh chính
là do mẹ gây nên. Ngờ đâu lần bệnh ấy bà nhập viện và qua đời luôn. Bà bị mẹ
làm cho tức chết đó! Phần mẹ, lúc sắp lìa đời, khi mẹ nhìn thấy Ngưu đầu Mã
diện đến đóng gông mẹ, mẹ đã kêu to rên rỉ, nhưng các con cứ nói rằng mẹ bị ảo
giác…Kết quả, mẹ bị họ bắt hồn đem đi. Xuống địa ngục mới hay tội lỗi mình nặng
nề. Có ngờ đâu chẳng hiếu kính với cha mẹ ruột lẫn cha mẹ bạn đời đều bị hành
tội khổ như vậy.
– Mẹ ơi, mẹ nói bà nội bị mẹ làm sầu não mà nhập viện, sau đó qua
đời?…Lúc này thình lình chồng Chu nữ sĩ xuất hiện (ông từ trong phòng bước ra)
hỏi:
– Em đang trò chuyện với ai vậy?
– Là mẹ đó anh! Mẹ đang về nè!
– Ở đâu? Sao anh không thấy? Tại em gần đây buồn nhớ mẹ dữ quá nên
sinh ra ảo giác thôi.
– Không phải đâu. Hôm nay là đêm vong linh về, là ngày mẹ được đến
thăm mình. Em đang trò chuyện cùng mẹ, anh không thấy mẹ đứng trong đây sao?
– Chẳng thấy gì ráo!
– Mẹ ơi, vì sao chồng con không nhìn thấy mẹ vậy?
– Dung à, đúng là nó không nhìn thấy ta. Số con cũng khổ, phụ thân
con thật đã làm khổ con, vì gả con cho người chồng như thế. Chồng con là kẻ bất
thiện!
Lúc này ông chồng đã kéo Chu nữ sĩ vào phòng, cô không chịu đi.
Đột nhiên, chồng cô hét to một tiếng: “Ôi mẹ ơi!” lộ vẻ kinh hãi như vừa gặp
phải quỷ và chạy thẳng về phòng mình. Dung ngơ ngác hỏi:
– Mẹ ơi, mẹ sao rồi?
Chợt nghe tiếng bà vang lên ngoài cửa:
– Cảm tạ các tướng quân Ngưu, Mã. Xin hãy cho phép tôi nói với con
gái cho xong chuyện…
Rồi bà bảo Chu nữ sĩ:
– Chồng con bị hai tướng quân Ngưu, Mã dọa chạy rồi. Hiện giờ y
đang hãi hùng, nằm trùm mền run lập cập kia, bảo đảm không còn dám chạy ra quấy
nhiễu cuộc đàm thoại của hai mẹ con ta nữa.
– Mẹ ơi, chẳng phải là mẹ bị họ dùng xiềng xích trói hay sao? Thế
vì sao họ lại giúp mẹ và con chứ?
– Vì đây là trách nhiệm của họ… Hôm nay mẹ đam câu chuyện bất hiếu
của mình kể ra, để sau này con thông báo cho người đời biết, khiến thế nhân
hiểu rõ tội bất hiếu lớn như thế nào. Mẹ hy vọng thông qua chuyện này, những
người con bất hiếu đang sống tại thế gian sẽ biết hối cải sửa đổi. Nếu không,
tương lai họ sẽ bị trừng phạt và thọ hình tàn khốc như mẹ ở địa ngục đây. Tương
lai mẹ còn phải vào chảo dầu thọ tội nữa.
– Mẹ nói sao, chảo dầu ư? Con có nghe nhắc đến, nhưng đó chẳng
phải là truyền thuyết hay sao?
– Con à, chẳng phải truyền thuyết đâu con. Những người làm ác họ
không hề tin Nhân Quả, cho nên họ cứ một bề đả kích địa ngục, bác bỏ Nhân quả
báo ứng… Nhưng không phải làm vậy là họ có thể thoát khỏi hình phạt. Đây chẳng
qua là họ tự dối gạt bản thân để mà trấn an mình thôi. Từ hôm nay trở đi, con
và em trai nên chuẩn bị lo hậu sự cho thân phụ đi, vì ba các con cũng không còn
sống bao lâu nữa.
– Mẹ, vì sao ba không còn sống được lâu nữa?
– Con ơi, tội của ba con cũng không nhẹ đâu. Hồi đó, khi ta chửi
mắng mẹ chồng, ông không những không quở trách hay ngăn cản ta. Ngược lại, còn
để mặc ta cư xử hồ đồ tùy tiện. Lẽ ra, ông phải là người tốt khuyên giải hai
bên. Ông cũng là đại bất hiếu! Vì nếu ban sơ ta chửi mắng mẹ ông thì ông nên
trị cho ta một trận, thậm chí có thể vì ta bất hiếu mà đề xuất ly hôn. Như vậy
thì ta sau đó ắt sẽ biết sợ mà không dám hiếp đáp hung dữ, quỷ thần cũng sẽ
kính phục ông, đều là do ông dung túng cả. Ngục quan ở âm cung rất xem thường
những kẻ để vợ “hành sai quản bậy”. Đối với những người con bất hiếu, hình phạt
trị tội rất nặng. Ba con mấy năm trước bị trúng gió bán thân bất toại, cũng là
bị trừng phạt đó. Hiện giờ, ông sống cũng không được con trai con dâu hiếu
kính, chết rồi còn phải thọ khổ hình nữa.
– Đáng sợ quá, nhưng như vậy thì không đúng rồi. Vì mẹ hồi còn
sống ở dương gian ngoài tội bất hiếu với mẹ chồng ra thì cũng có làm nhiều việc
tốt mà. Thí dụ như năm ngoái Vấn Châu bị động đất, chẳng phải mẹ đã đóng góp
500 đồng sao? Như thế đâu thể tính mẹ là người ác, vì sao vẫn phải chịu hình
phạt?
– Con à, con không biết rồi. Có nhiều người làm phúc thiện thấy
dường như là có công đức, nhưng phúc kia không chống đỡ cho tội đại bất hiếu.
Con nghĩ mà xem, kẻ bất hiếu đối với cha mẹ có thể là người chân thiện được
sao? Còn nữa, năm ngoái, mẹ góp tiền không phải là thật lòng, vì đối với các
nạn nhân bị động đất mẹ không hề có lòng đại từ ái. Mẹ góp tiền là vì không
muốn chị em bạn bè nói mẹ keo kiệt. Nào có dè đâu, lòng mẹ nghĩ chi, ở địa ngục
đều hiểu thấu ráo trọi và có ghi rõ hết…
Ngục quan nói mẹ cả đời tạo công đức rất ít, phần nhiều là thiện
nhỏ, thiện giả dối, cho nên khó chống đỡ, khó phá tan tội bất hiếu được.
– Mẹ ơi, con phải làm sao cho mẹ giảm nhẹ tội đây? Con đi chùa làm
lễ siêu độ cho mẹ nha, nghe nói siêu độ có thể giúp thân quyến đã tử vong được
lên thiên đường.
– Con à, nếu làm lễ siêu độ có thể giúp thân quyến đã chết sinh
lên trời, thì người ác đâu còn bị trói buộc gì? Chết rồi thì con cháu có thể
xuất tiền ra làm siêu độ, cầu cho họ lên thiên đường là xong, như vậy thì trên
trời sẽ có mấy kẻ ác này hay sao?
Con ơi, không dễ dàng như thế đâu. Con cháu vì người quá cố làm lễ
siêu độ là thể hiện hiếu tâm, mượn sức mạnh của pháp hội siêu độ để giảm bớt
tội nghiệp thân nhân quá cố mà thôi. Con vì mẹ làm siêu độ đương nhiên là việc
cực kỳ tốt, mẹ không ngăn cản. Nhưng tốt nhất con phải thường đi chùa, lấy danh
nghĩa mẹ mà ấn tống kinh quý, sách thiện. Còn nữa, con nên phóng sinh cho
nhiều, như thế thống khổ của mẹ tại địa ngục sẽ giảm thiểu rất nhiều. Còn nữa,
phán quan nói con cùng Phật giáo có duyên, trải qua những việc trong hôm nay
rồi, từ đây về sau con nên lui tới chùa thường. Tương lai nếu con tu chí thành
thì bản thân mẹ cũng nhờ vậy mà được giảm khổ. Công đức con tu viên mãn thì mẹ
cũng được sáng lây. Đến lúc đó, mẹ mới thực sự được thăng thiên hưởng phúc…
Dung ơi, giờ đã đến lúc đi rồi, tướng quân Ngưu, Mã đang hối thúc mẹ kìa, mẹ
phải đi đây.
– Mẹ ơi, sao con không nhìn thấy các tướng quân Ngưu, Mã?
– Ôi, ngốc ơi! Ngàn vạn lần con không nên thấy họ. Vì họ là hung
thần ở địa ngục chuyên trừng trị kẻ ác, những kẻ xấu, làm ác chết rồi tự nhiên
sẽ được thấy họ ngay thôi.
– Được rồi mẹ ơi, con nhất định sẽ làm y theo lời mẹ dặn. Mẹ an
tâm mà đi nhé.
Chu nữ sĩ lập tức ghi lại toàn bộ cuộc nói chuyện của hai mẹ con
cô. Hi vọng sáu đó sẽ đem câu chuyện này ra công bố để cảnh giác, răn nhắc
những người con bất hiếu.
Cô nói với tôi, chồng cô từ trải qua kinh nghiệm đêm đó rồi, vừa
nghe tin cô tính làm lễ cầu siêu và hành thiện để hồi hướng phúc cho mẫu thân
thì đã sốt sắng đưa tiền.
(Nếu xem đến đây, bạn đọc có được chút tỉnh giác, ích lợi nào thì
xin hồi hường phước điền này đến mẫu thân của Chu nữ sĩ, cầu cho bà sớm được
lìa khổ, được vui).
Mùa thu năm 2003, một ngày trời trong đẹp, gió thổi hiu hiu, tôi
và bạn già đi đến chùa Bàn Long nổi danh ở huyện Nguyên Thị tỉnh Hà Bắc. Thắp
hương lễ Phật xong, chúng tôi đi dạo nhìn ngắm cảnh trong chùa, lúc nãy có một
sư nữ mặt tươi tắn, mỉm cười đón tiếp chúng tôi, trông cô rất hòa nhã thân
thiện. Bạn già tôi bước lên trước chào hỏi:
– Thư Sư Phụ, chúng tôi là cư sĩ ở xa đến thăm chùa, có
thể trò chuyện cùng sư được không ạ?
Cô vội đáp: – A Di Đà Phật! Được ạ!
Tôi lên tiếng:
– Thưa cô, trong cô còn rất trẻ, vì sao muốn xuất gia?
Thế là vị sư nữ đem câu chuyện có thực đáng sợ (do mình đích
thân chứng kiến), kể cho chúng tôi nghe.
” Tôi sinh trong một gia đình cán bộ quyền thế tại thành phố
X thuộc miền đông bắc, cảnh nhà sinh hoạt rất sung túc, dư dật. Từ nhỏ tôi
chỉ cắp sách đi học mãi cho đến tốt nghiệp Đại Học Tài Chính.
Tốt nghiệp rồi thì làm ở cơ quan hơn mười năm, sau này chuyển qua công tác
tại ngân hàng. Chồng tôi thì làm việc trong cơ quan chính phủ, con trai đang
học Cao trung. Tôi luôn cảm thấy đời sống mình rất hạnh phúc, tôi có cha mẹ
thân thuộc yêu thương, gia đình êm ấm, trong nhà không có gì
phải sầu lo. Mọi việc đều hết sức thuận lợi. Nhưng ba năm trước tôi gặp một đại
biến cố, khiến đời tôi thay đổi lớn, rẽ sang một hướng khác.
Ba năm trước tôi làm việc ở ngân hàng, đồng thời kiêm
luôn chức “Nhân Viên Tài Vụ Công Ty Địa Ốc”.
Ngài Tổng giám đốc Công Ty Địa Ốc 46 tuổi, niên phú
lực cường, quá khứ ông làm ở Công Ty Lương Thực, sau chuyển qua kinh doanh địa ốc. Ông
giàu vô kể, sở hữu ức vạn tài sản, làm ăn bề thế, rất có thực lực.
Năm đó ông chơi cổ phiếu, bi thua đậm. Hôm đó chỉ trong mười lăm
phút mà phải đền hơn 470 vạn, ông bị đá kích quá lớn, nên xuất huyết não
mà chết.
Sau khi ông chết rồi, thần thức cư một bề đeo theo bên tôi.
Lúc sống ông cao 1m84 vây mà giờ nhìn thấy ông xuất hiện chỉ cao khoảng 1m, sắc
da như màu đất. hình mạo giống hệt lúc còn sống. Vừa nhìn thì biết ngay đây là
ông Tổng, lúc đó bất kể tôi đi đâu ông đều theo đến đó. Tôi không thế nhắm mắt.
vì hễ vừa nhắm thì nhức đầu không chịu nổi. mà dù nhắm mắt cũng vẫn thấy ông.
Người nhà cho là tôi bất bình thường, nên cử người theo canh chừng
tôi suốt ngày. Mà tình huống tôi nhìn thấy, bọn họ không ai thấy. Nên dù tôi có
nói, có diễn tả cảnh mình thấy cũng chẳng ai tin. Tôi muốn trốn ông Tổng cũng
trốn không xong, tôi đáp phi cơ đến Bắc Kinh hay đi Thanh Đảo thì cũng có ông
đeo theo. Cảnh tượng này hành hạ tôi suốt 100 ngày.
Đáng sợ hơn nữa là, từ sau khi ông chết đi, cứ 7 ngày là tròn một
tuần, mỗi khi qua một thất, trước mắt tôi lần lượt hiện từng cảnh nơi địa ngục,
chỗ ông thọ khổ, thấy ông bị hành.phạt thê thảm, đáng sợ.
Tuần thất đầu tiên, tôi nhìn thấy mấy ngục tốt đến kéo lôi
hai tay ông nhét vào lò thiêu nướng, chỉ nghe tiếng ông kêu la thảm thiết khi
tay ông được rút ra rồi, nó cong vẹo đỏ bỏng như sắt nung lửa vậy, người cũng
co rúm quắt queo.
Đến tuần thứ hai, hiện trước mắt tôi là địa ngục thiêu chân, tuần
thất thứ ba, tôi thấy ông chân trần leo lên núi đao, máu tuôn dầm dề, tiếp theo
tuần thứ 5,6,1 lại thấy ông bị đao phanh thây, mổ bụng, móc mắt, cưa chân v.v...
thật là thảm và kinh khủng đến không dám nhìn. Tôi cũng nghe ông lớn tiếng kêu
rên, van xin tôi cứu ông (Nhưng tôi lúc đó chưa biết Phật pháp, đâu biết làm
sao để cứu ông).
Trong suốt 100 ngày; cuối cùng thắng cảnh hiện, tôi bỗng thấy
Bồ-tát Quan Thế Âm đứng trên đóa sen màu hồng, mặc y phục trắng, tướng mạo
trang nghiêm thù thắng không gì sành, tôi ngắm nhìn thần thái thanh tịnh của
Bồ-tát Quan Thế Âm, choáng ngợp vì ánh sáng rực rỡ trước mắt, thân tâm lập tức
cảm thấy thanh lương, tinh thần sảng khoái vạn bội.
Chỉ nghe Bồ-tát Quan Âm tha thiết bảo:
– Con phải niệm Phật nhé!
Rồi Ngài phẩy nhẹ tay áo, trong chớp mất đã biến mất.
Tôi vội kêu lên, lay tỉnh người bạn cũng phòng, kể cô nghe cảnh
mình thấy Quan Thế Âm Bồ-tát. Thế là chúng tôi cùng đi mua hương, lư và tượng
Quan Thế Âm.
Lúc tôi đốt cây hương đầu tiên, thì nhìn thấy Bồ-tát Quan Thế Âm
trong chớp mắt hợp thành nhất thể với tượng Bồ-tát Quan Thế Âm, rồi nghe Ngài
dạy:
– Hãy đến Bảo Hoa Tự đi! (Bảo Hoa Tự ở Liêu Ninh tỉnh Đại Liên)
Thế là cô bạn cùng tôi đến Bảo Hoa Tự, sư trong chùa giống như
biết trước tôi sẽ đến, vừa gặp tôi, liền bảo:
– Ta đợi con lâu lắm rồi!
Sư còn nói:
– Con cần phải xuất gia!
Đến ngày 19 tháng 6, sư làm lễ cầu siêu cho ông Tổng. Khi đó tôi
cảm thấy đại địa chấn động, thấy ông Tổng từ trong địa ngục được cứu thoát, còn
thấy từ trong địa ngục đưa ra vô số cánh tay, giống như kêu cứu vậy. Siêu độ
xong, sư bảo tôi:
– Ông Tổng đã được cứu khỏi địa ngục, đầu thai vào cõi súc sinh
rồi.
Một năm sau, cũng nhằm ngày 16 tháng 9, tôi đang đi trẽn đường lân
cận thì tình cờ gặp một con lừa, vừa nhìn thấy tôi nó không chịu đi, kêu thi nó
chảy nước mắt, tôi không hiểu vì sao lại có chuyện này. về đến chùa thỉnh giáo
sư phụ, ngài nói:
– Con lừa này chính là Tổng giám đốc của các con đó!
Thế là thân thích bằng hữu vội đi khắp nơi tìm con lừa, nhưng tìm
không được.
Lại một năm trôi qua, hôm đó là ngày 28 thàng 4, con lừa sút dây
trói chạy đến cổng chùa, mặc người lôi kéo hay đánh đuối, nó kêu không chịu đi.
Lúc đó sư trụ trì đang tọa thiền, nhưng ngài vẫn bảo tôi:
– Bên ngoài có con lừa tìm cô đó!
Tôi vội chạy ra ngoài cổng, con lừa thây tôi vội chạy đến, kêu lên
và chảy nước mắt
Tôi bảo nó:
– Ngươi là Tổng giám đốc X phải không ? Nếu phải thì gật đầu nha.
Nó nghe và hiểu lời tôi nói, liền gật gật đầu.
Sau đó tôi bào:
– Ta quy y cho ngươi, hãy lắng nghe nhé.
Tôi liền làm theo cách thức sư phụ dạy, quy y Tam bảo cho con
lừa. Làm lễ xong tôi nói:
– Bây giờ hãy dẫn ta đến nhà chủ của mi!
Lừa gật đầu. Nó đi trước, tôi theo sau nhìn nó đi trên đường
giống hệt như ông Tổng lúc còn sống vậy.
Về đến nơi, lừa nhìn tôi rồi nhìn ông chủ (ý như muốn bảo tôi đây
là chủ nó). Tôi hỏi ông ta con lừa sinh lúc nào? Khi ông nói ngày, tháng, năm…
tính ra đúng hợp với thời gian siêu độ ông tổng. Ngay đó tôi tin chắc đây là
ông Tổng từ địa ngục thoát ra sinh vào loài súc trong nhân gian.
Sau đó người nhà ông Tổng đến chuộc con lừa, đem nó phóng sinh
trong chùa.
Sự việc này đã làm chấn đông tâm tư rất nhiều người. Nguyên là
công ty thiếu ngân hàng số tiền cực to (khoảng bảy ngàn vạn), nhưng ông Tổng
lúc còn sống đã có ý không muốn trả, cho nên từ khi xảy ra sự việc “kinh thiên
động địa” này và những người ở công ty đều tận mắt chứng kiến cả rồi, thì ông
Phó tổng giám đốc công ty liền tự động hướng ngân hàng đền trả toàn bộ số nợ,
thanh toán xong rồi, công ty này vẫn còn tiền dư.
Thân nhân bằng hữu và các đồng nghiệp của tôi sau sự cố đó đa số
đều quy y Phật môn. Do tôi đích thân trải qua sự kiện này vô cùng tin sâu lục
đạo luân hồi là có thật không dối, thầm hiểu luật nhân quả báo ứng không sai
mảy may. Vì sao ông Tổng đọa địa ngục, nếm đủ hình phạt khổ đau? Tất nhiên là
do những nhân gieo không lành (nhưng đó là chuyện riêng của bản thân ông, tôi
không muốn khơi lên làm gì). Điều quan trọng là chuyện của ông đã khiến nhiều
người thức tỉnh, cảnh giác, biết tự chấn chỉnh và tu sửa thân tâm cẩn mật hơn.
Cho dù hiện tại quý vị giàu sang, sở hữu ức vạn tài sản chăng nữa
thì một khi chết đi rồi thì chẳng mang theo được một xu! Đúng như cổ nhân từng
nói: “Vạn thứ chẳng mang đi được chỉ có nghiệp đeo theo mình!”…
Tôi từ nhỏ sinh trong nhà giàu sang, lại là gia đình có địa vị
quyền thế. Tính ra các loài vật từ bay trên trời, đi dưới đất, bơi trong nước
không gì mà tôi chưa ăn qua. Nghiệp ác đã tạo cố nhiên rất sâu nặng. Tôi thầm
nghĩ: “Tương lai nếu như tôi và cha mẹ, quyến thân… bị đọa địa ngục, thì ai sẽ
cứu chúng tôi ra đây?
Thế là tôi hạ quyết tâm, phải xuất gia tu hành nguyện tu cho đến
khi chúng đạo vô thượng”.
Cô kể xong câu chuyện, vẫn còn rất cảm xúc, bùi ngùi thở dài.
Chúng tôi bị câu chuyện cô làm chấn động, tâm linh bị đả kích mãnh
liệt, vì những kiến thức đã biết về lục đạo luân hồi, về nhân quả báo ứng trước
đây, thảy đều chỉ đọc trong sách, nên cảm thấy cách minh rất xa. Nhưng câu
chuyện thực do vị sư nữ vừa kể ra đây lại xảy ra ngay trong thế kỷ 21 này. Thời
gian địa điểm người thực, việc thực rõ ràng bày ra trước mắt, sao có thể khiến
người ta không kinh hồn bạt vía được chứ?
Xin ghi lại để chia sẻ cùng bạn đọc.
Từ Trí
Lời người dịch:
Đọc “Báo ứng Hiện Đời” chúng ta thấy rằng người đời mắc bịnh đa
phần đều được quy vào các tội sát sinh, hoặc thân khẩu ý tạo ác. Hòa thượng Diệu Pháp luôn bày cách trị bằng việc khuyên họ dứt sát án chay, và hiệu quả
thường rất tốt.
Thế thì tại sao các
tu sĩ vốn đã ăn chay tất nhiên thân khẩu ý
cũng hằng thúc liễm. Vậy mà nhiều người, thậm chí là các bậc cao đức lại bịnh triền miên đôi khi lại nặng nề và khó chữa hơn
người đời rất nhiều?
Xin quý vị đọc
trích đoạn giải đáp sau đây của Đại sư Ấn Quang và Hòa thượng Tuyên Hóa để hiểu
rõ hơn:
Vì sao các tu sĩ có những thành tựu cao tột lại bị nhiều hoạn nạn
hoặc bịnh nặng trước khi ra đi?
Xem trong sử ta thấy chư vị cao tăng đều gặp nhiều tai nạn, bịnh
nặng. Lục Tổ Huệ Năng khi còn tại thế đã có người muốn sát hại ngài; sau khi
ngài viên tịch, còn có người muốn chặt đầu ngài để mang về nhà thờ cúng. Còn Tổ
Bồ Đề Đạt Ma khi đến Trung Hoa, ngài bị đầu độc và ám hại sáu lần. Tổ Ấn Độ
(thứ hai mươi bốn) là Tôn Giả Sư Tử thì bị chém đầu.
Trước khi Đại Sư Huyền Trang mất, ngài bị trượt chân té ngã, sau
đó bị bệnh phải nằm lâu ngày trên giường, ngài nói:
“Tất cả những phiền não và ác nghiệp của tôi từ vô thủy đến nay, đều
nhờ đức của cơn bệnh nhẹ này mà tiêu trừ hết. Vì vậy tôi rất mừng”.
Luận Sư Giới Hiền, một vị Tăng tài đức nổi danh, lúc tuổi già bị
bệnh nặng và bị hành hạ đau đớn đến muốn tự tử. Sau đó ngài mơ thấy ba vị
Bồ-tát Văn Thù, Phổ Hiền, Quán Âm khuyên bảo:
-“Con trước kia từng là một vị quốc vương gây nhiều khốn khổ cho
chúng sanh cho nên nay phải chịu quả báo này. Nhờ phúc tu nên những tội thay vì
phải chịu phạt ờ địa ngục được chuyển thành cơn bịnh đau này. Con ráng chịu
đựng ba năm nữa, sẽ có sư Huyền Trang đi thỉnh kinh đến đây thọ học với con.
Con hãy thành tâm sám hối, kiên nhẫn chịu đựng đau khổ và tinh tấn xiển dương
Kinh Luận, thì nghiệp chướng của con sẽ tự nhiên được tiêu trừ.”
Còn Hòa Thượng Hư Vân, thọ đến 120 tuổi. Cuộc đời ngài trải qua
mười nạn, bốn mươi tám biến cố. Thậm chí khi ngài đã 112 tuổi, còn bị đệ tử
“bán đứng”, bị cướp và bị quân binh Trung Quốc tra tấn rất dã man. Ngài chết đi
sống lại nhiều lần sau khi bị đánh đập bằng chùy sắt đến chảy máu và xương gân
đều gãy đứt.
Đại Sư Hám Sơn Tử Bá, người đã để lại nhục thân bất hoại, đã phải
thọ nhận sự tra tấn tàn bạo và chết vì cục bướu trên lưng.
Hòa Thượng Quảng Khâm, một vị cao tăng, cũng bị bệnh và viên tịch vào
năm 1986. Vị tăng sĩ tại chùa của Ngài đã kể:
-“Hòa Thượng nói rằng Ngài sẽ thị hiện bị bệnh lúc mất. Có người
nêu thắc mắc với Hoà Thượng Quảng Khâm rằng:
“Người đã chứng đắc rất cao trong việc tu hành, nhưng lại chết vì
bệnh tật hoặc tai nạn, vậy có phải là định nghiệp của người đó khó thể chuyển
đổi?”
Hòa Thượng Quảng Khâm trả lời:
-“Quý vị có thể nói định nghiệp của họ khó chuyển đổi, nhưng hãy
hiểu rằng ‘người đó đang trả nghiệp hoặc chuyển trả bảo nặng thành nhẹ”…
Chỉ những người có tu hành mới gặp nhiều khổ nạn, trắc trở. Đúng
ra đây chính là công đức tu hành của bản thân họ đã giúp họ trả nghiệp nhanh,
giải quyết mọi tội báo trong một lần, ngay trong một đời này.”
Vào thời Nhật xâm chiếm Trung Quốc, phi cơ Nhật oanh tạc cả tỉnh
Hồ Bắc làng quê tôi. Năm đó tôi 22 tuổi, cha mẹ dẫn hết cả nhà đến ga Hạ Thắng
Kiều để lên xe lửa đi Trùng Khánh. Nhưng mẹ tôi không kham nổi nhọc mệt đã chết
trên đường. Phụ thân cũng ly trần, tôi và vợ chồng người anh ấn trốn tại thôn
Kim Ngưu. Hàng ngày nhớ mẹ, mỗi tối tôi nhìn trăng nhắm hư không lễ bái, thầm
cầu được biết phụ mẫu giờ đang ở đâu?
Ba ngày sau, một tối nọ, tôi đang buồn nhớ song thân thì thiếp đi.
Bỗng thấy có một vị xuất gia tướng mạo trang nghiêm, tay cầm phất trần bảo tôi:
– Con muốn gặp cha mẹ ư? Ta sẽ dẫn đi!
Ông bảo tôi đi trước, chỉ thấy hai bên đường cây cối rậm rạp sầm
uất nhưng sạch sẽ xanh tươi. Không bao lâu thấy trước mắt xuất hiện một cái
thành, cổng thành rất cao tôi phải ngước đầu lên nhìn, thấy trên cổng có đầy
đinh nhọn. Tôi cùng vị Tăng tiến tới, thấy bên trong cổng có một ngôi nhà to,
cửa kính vị Tăng kêu tôi đứng đó đợi chút, để ông đi đăng ký, tôi hỏi: -Vỉ sao
phải đăng ký? ông bảo: Con còn phải trở về mà!
Trong lúc ông đăng ký tôi thấy một thanh niên mặc áo lam, quần
dài. Đây chẳng phái là biểu huynh con di hay sao? Tôi mừng quá liền gọi: – Biểu
ca! Biểu ca! -Thật lạ, anh giống như không thấy không nghe, chẳng hay biết chi,
cứ lảm như không có việc gỉ. Vị Tăng đăng ký xong, quay lại dẫn tôi đi.
Đi một quãng không xa lắm, tôi nhìn thấy một vùng thảo nguyên rộng
lớn, có trâu bò, ngựa, heo, dê, nai v.v… các loài thú ở đây nhiều không kể xiết
thấy trâu bò ven đường trừng mắt ngó mình, tôi phát sợ không dám đi vị Tăng
phẩy phất trần một cái, chúng liền quay mặt đi. Tôi nghĩ thầm những con vật này
còn sống cả mà. Bèn tiếp tục tiến tới thấy một vùng cây cối rậm rạp, cỏ hoa đủ
màu sắc, phía trên có nhiều loài chim xinh đẹp bên dưới có nhiều gà vịt, ngỗng…
toàn là loài điểu cầm hai chân. Tôi đi tiếp không bao lâu thì thấy người chị họ
(con dâu cô tôi) thân không mặc y phục chỉ khoác cái khăn lông trắng ngang eo,
chị ngồi trên tảng đá, ôm một hài nhi, tóc dài xỏa đến lưng, nét mặt giống như
ngủ vừa mới thức còn chưa kịp tẩy rửa nên khóe mắt vẫn còn đóng ghèn. Tôi kêu
tên chị nhưng chị cũng hệt như anh họ, không nghe hay thấy gì đến sự hiện diện
của tôi, nên chẳng hề quay đầu.
Tôi không chịu nổi nữa bèn bước tới, vị Tăng vẫn theo sau. Tiếp
tục đi một quãng không xa, thì tôi thấy xuất hiện một cột đồng nóng đỏ tỏa
khói, có người đang ôm chặt, giống như bị dán dính trên đó vậy.
Nhìn kỹ tôi giật mình: ‘Đây chẳng phải là thiếu gia X, láng giềng
của tôi sao? Vì sao mà phải thọ tội trên đó? Vị Tăng nói:
– Ông ấy phạm tội hoang dâm (dụ dỗ các bé gái và hại đời họ) cho
nên phải nhận hình phạt này.
Tôi nhớ hồi sống trên thế gian ông X làm nghề mộc, nhà rất giàu,
tài sản lắm, cũng thường hay xuất tiền cứu tế cho người nghèo Vị thiếu gia này
giỏi thi văn, làm việc vui vẻ thoải mái, ai mà dè tâm đầy tà dục (lén tạo lắm
ác hạnh) do sống buông thả hoang dâm mà giờ phải thọ tội, chẳng biết thuở nào
mới thoát khổ? Giờ mới biết nếu phóng túng nhục dục thì “gái nằm giường lửa,
trai ôm cột đồng”, câu này quả là có thật. Người thế gian nếu biết rõ hình phạt
này, há không cẩn thận ư?
Tôi phóng mắt nhìn ra phía trước, ôi chao! Các quỷ mặt xanh cầm chỉa
ba, đâm người vít quăng lên núi đao, thân họ bị cắt chém tơi tả, vỡ bụng lòi
ruột. Lại có quỷ dạ xoa rạch bụng người, moi tim, khoét mắt, móc lưỡi… còn thấy
chảo dầu sôi nấu người, cưa sắt cưa đôi người, có người bị chém, thân chúc
ngược trên tảng đá, máu me chảy tràn. Trong đây vang rền tiếng kêu la rên xiết,
âm thanh đau đớn nghe khủng khiếp cả tai, khiến tôi chẳng dám mở mắt ra nhìn,
mà tai cũng nghe hết nổi, sợ đến run lẩy bẩy.
Tôi không cần hỏi vị Tăng, thừa biết đây là các chúng sinh tạo ác
nên tự thọ quả báo, nhưng tận mắt chứng kiến thực sự quá kinh khủng và xót xa.
Tối không muốn xem những cảnh này nữa, liền quay mặt đi, chợt thấy
có con lộ khác, liền rẽ vào đó, tôi đi mãi thì đến một ngôi nhả, thấy mẹ tôi
đang ngồi trên giường, còn em gái tôi ngồi bên cạnh. Tôi mừng quá vội gọi mẹ và
lao tới ngồi cạnh mẫu thân. Nhưng tất cả giống như hư vô, mẫu thân làm như
không biết có tôi hiện diện. Mới đầu trong lòng tôi khó chịu, cảm thấy rất tủi
thân, cho rằng mẹ cư xử quá lạnh lùng xa lạ, không thèm lý tới mình, chỉ biết
có muội muội, làm như tôi không phải con trai và chẳng nhớ gì đến tôi (trong
khi tôi luôn thương nhớ bà). Lúc này vị Tăng kêu tôi đi tiếp, tôi bất đắc dĩ
phải bước đi. Vị Tăng bảo – Hãy đi gặp bào huynh ngươi nhé! Tôi hỏi: – Anh ấy
chẳng phải ở trong ngục sao? Vị Tăng đáp: -Y không có tội lớn, chỉ là người
chồng thiếu trách nhiệm thôi (vì vợ bất hiếu mà không khuyên bảo).
Chẳng bao lâu chúng tôi đi đến một ngôi biện công sở, đây là một
tòa lầu, tôi biết ca ca ở trên lầu, liền bước lên cầu thang, thấy ca ca đang
ngồi đẩy mấy con số trên bàn tính, tôi mừng rỡ, gọi: – Anh ơi!
Nhưng anh cũng giống như những người thân tôi đã gặp qua nơi đây,
hoàn toàn không thấy không nghe, không hay biết chi đến sự có mặt của tôi, nên
chẳng thể giao tiếp.
Vị Tăng lại thúc tôi đi, đi mãi, hầu như đã qua không biết bao
nhiêu lộ trình. Tới một quang cảnh hết sức thanh u, rộng lớn, hiền hòa. Tâm tôi
thoải mái trở lại. Tôi tiến đến một tòa nhà to lớn chói lọi sắc vàng, xung
quanh có cửa sổ trong suốt, thấy phụ thân đang ngồi thiền ở trong. Gặp tôi, ông
liền hỏi:
– Ngươi đến làm gỉ?
Tôi chưa kịp đáp, vị Tăng đã gật đầu. Cha tôi cũng gật đầu như
lãnh hội ý ngài. Tôi báo phụ thân: – Con không đi tiếp nữa! (và hoan hỉ ngồi
bên phải phụ thân), cha tôi tuy chẳng nói, nhưng có vẻ như đã hiểu hành trình
của tôi. Được một lát vị Tăng bảo tôi đi, tôi không dám cãi đành đi tiếp.
Không bao lâu tôi đi đến một cây cầu, bề rộng khoảng 14-15 cm, vừa
đặt chân lên tôi sợ quá vội rút về, kinh hãi bủn rủn. Vị Tăng liền vung nhẹ
phất trần, nói: – Đừng sợ! Thế là tôi lại bước lên, cảm giác cầu rất kiên cố,
không còn lắc lư, tôi an tâm đi thẳng tới. Nhìn xuống bên dưới tôi thót tim vi
thấy đầy máu đỏ, trong có lúc nhúc người (không rõ nam nữ), chẳng ai mặc y
phục, còn bị mãng xà quấn quanh. Họ giẫy giụa trồi hụp…
Tôi hỏi vị Tăng:
– Đây là thế nào?
Ngài đáp:
– Đó là ao máu dơ dâm dục, sinh sản!
– Vậy phải làm sao mới ổn?
Trưởng lão nói: – Phải tu hành!
Tôi hỏi: -Tu như thế nào?
Trưởng lão đáp:Giữ tâm thanh tịnh, giữ thân như ngọc sống liêm
khiết, không dục nhiễm, không làm các điều ác, chuyên làm các việc lành (chư ác
mạc tác, chúng thiện phụng hành).
Tôi hiểu rõ, “À” lên một tiếng to!
Tôi tiếp tục đi tới một quãng khống xa nhìn xuống thấy mầu xanh
thăm thẳm chẳng biết là nước hay là trời?
Ngẩng đầu nhìn lên, mới hay nước trời một sắc, giống như ngày hạ ở
Vạn Phật Thánh Thành, bầu trời quang đãng, vạn dặm xanh trong.
Đang lúc tôi say sưa chiêm ngưỡng cảnh đẹp thì bị vị Tăng đẩy một
cái, thân tôi lăn tròn, bị cuốn nhanh đến tâm tư phát hoảng. Tôi giật mình mở
mắt, thấy mình đang tựa vào giường, y phục ướt đẫm mò hôi, tim hãy còn đập
mạnh.
Té ra đây là giấc mộng, nhưng hồi tưởng lại, cảm giác vẫn rõ ràng
như thực vậy.
Năm Dân Quốc 34 (1945) Trung Quốc kháng Nhật thắng lợi, thế giới
hòa bình. Tôi quay về cố hương. Bước vào tầng ba nhà khách, thấy các bài vị
trên bàn thờ đề tên ba người (anh họ, chị họ và anh ruột tôi).
Cô và chị dâu kéo tay tôi, khóc kể nỗi niềm ly biệt. Tôi an ủi họ,
đợi họ ngưng khóc, tôi hỏi:
– Lúc biểu huynh chết đã mặc áo lam quần dài như thế… phải không?
Cô tôi khẩn trương nắm tay tôi nói:
– Con không có mặt lúc nó qua đời, vì sao biết rõ như vậy?
Tôi đáp:
– Con đã nhìn thấy bọn họ mà, nhưng sao cô không mặc y phục cho
chị?
Cô nói:
– May là con còn sống, cảm ơn trời Phật gia hộ con bình an vô sự,
nhưng lúc biểu tỷ con lìa đời, con cũng chẳng có mặt, vì sao biết rỗ điều này?
Tôi kể mình mơ xuống âm cung và đã gặp tất cả (nhưng đó là chuyện
cách đây hai năm rồi).
Nghe vậy cô mới an lòng, bèn thuật lại lúc biểu huynh tôi dứt hơi
đã mặc đồ giống y như tôi tả. Còn chị họ tôi mới sinh con được mười mấy ngày,
lúc đó tiết trời rất nóng, chị đòi đi tắm. Vừa gội đầu, tắm rửa xong, thì cảm
thấy không khỏe, ngay đó chị tắt hơi. Cô vội khoác cái khăn lông lên che thân
cho chị, mấy ngày sau hài nhi cũng chết.
Cô phân trần nói tiếp:
-Trước khi liệm, cô có cho nó mặc áo thọ còn bỏ rất nhiều nệm
chăn, y phục vào quan tài. Hai vợ chồng nó trong một tháng mả lần lượt tạ the
hết.
Biểu huynh biểu tỷ nguyên là vợ chồng (là con trai con dâu cô
tôi). Trong nhà tuy giàu có, nhưng chết rồi dù có mặc hay đắp cho nhiều y phục
đến mấy cũng chẳng ích gì.
Lúc sinh tiền họ là phu phụ, nhưng chết rồi do nghiệp báo chẳng
đồng, mỗi người đi một nơi, chẳng còn biết đến nhau nữa.
Mẫu thân và em gái tôi giống như sống trong cõi âm, chỉ có cha tôi
lúc sinh tiền thường tụng “Kinh Kim Cang” và hay ngòi thiền, dạy con theo tinh
thần nho gia: “Lời phi lễ chớ nói, điều
phi lễ chớ nghe, cảnh phi lễ chớ nhìn, việc phi lễ chớ làm...Thà để người phụ ta
chớ ta chẳng phụ người. Phải
đặt ta và cảnh người để thông cảm
họ, muốn trách người trước phải tự trách mình”…
Những điều cha mẹ dạy, tôi thấm nhuần thành thói quen. Hôm nay
được tu học theo Phật, dù công phu chưa thành, song những đạo lý này luôn đem
đến ích lợi khôn cùng. Nhờ phụ thân sinh tiền học Phật nên hay cùng tôi trao
đổi, nhờ vậy mà tôi mới bước vào đường đạo.
Học Phật không lâu, sau khi tụng kinh Địa Tạng rồi, tôi mới biết
rõ vị Tăng đưa tôi đến âm cung gặp cha mẹ, chính là Bồ-tát Địa Tạng.
Chúng ta đến cõi đời này như lữ khách, dù sống trăm năm cũng giống
như giấc mộng. Khi lìa đời thì vạn thứ chẳng thể đem theo, chỉ có tay không đến
chầu diêm chúa. Xin hãy dừng mọi tranh giành hơn thua. Những thăng trầm trong
đời giống như vở kịch. Một khi từ giã cõi đời, ta hoàn toàn mù tịt chỗ mình
đến…
Nhưng A-tỳ địa ngục lại có rất nhiều người, một khi đọa vào bao
giờ mới thoát ra? Chỉ có thọ khổ triền miên, bất tận.
Xin nhớ lời thiện trí thức khuyên răn, đừng phút nào quên nỗi khổ nơi
địa ngục. Hãy dũng mãnh phát tâm tu hành giữ gìn thân, khẩu, ý, thanh tịnh. Nếu
quyết tâm tu một đời không thoái chuyển, sẽ thoát khổ trầm luân.
Dịch xong 24/10/2013
Nguyện đem công đức này,
Trang nghiêm cõi nước
Phật
Trên đền bốn ân nặng,
Dưới cứu khổ muôn loài.
Nguyện những ai đọc,
xem…
Đều phát tâm Bồ-đề,
Mãn một báo thân này,
Đồng sinh cõi hạnh phúc.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét