HÁM SƠN ĐẠI SƯ
Hám Sơn Đại sư-danh Đức Thanh hiệu Trừng Ấn sống trong
thời Triều Đại nhà Minh, ngài là một trong 4 vị thánh tăng đã có công phục hưng
và phát triển Phật giáo trong triều đại nhà Minh ( 3 vị kia Thiền sư Đạt Quán,
Đại sư Liên Trì, và Đại sư Ngẫu Ích ). Cuộc đời hành đạo đầy gian khổ của các
ngài trong hoàn cảnh lúc đó đã hé mở cho chúng ta thấy được phần nào về tình
trạng Trung Hoa thời nhà Minh, cũng như hoàn cảnh suy đồi của Phật giáo lúc đó,
phần lớn các nhà viết sử đã ca tụng triều Minh như một triều đại của Phật giáo,
vì Minh Thái Tổ xuất thân là một chú tiểu ở chùa Viên Giác, sau khi lên ngôi
vua đã cho xây cất, trùng tu hàng trăm cảnh chùa, đào tạo hàng vạn Tăng sĩ. Tuy
nhiên chúng ta cần đặt câu hỏi rằng Phật giáo có hưng thịnh vì có nhiều chùa
hay có đông chư tăng hay không? Người Phật tử không thể xét vào số lượng chùa
chiền hay tăng ni mà kết luận như các nhà viết sử học được. Nếu xem xét kỷ
người ta sẽ thấy Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương đã đưa Phật giáo lên địa vị
quan trọng chỉ để duy trì và củng cố ngôi vị của mình trong hoàn cảnh lúc đầu
mà thôi. Ông gia nhập Minh giáo để chống lại triều đình nhưng khi không tranh
giành được ngôi vị thủ lãnh Minh Giáo với Trần Hữu Lượng, ông đã kêu gọi sự hợp
tác của quần chúng Phật giáo, để chống lại phe nhóm Minh Giáo của Trần Hữu
Lượng. Nhờ thế ông dẹp tan nhóm này và trở thành lãnh tụ phong trào khởi nghĩa,
sau đó ông lật đỗ nhà Nguyên và sáng lập lên Triều Minh. Mặc dù vua nhờ Phật
giáo mà dựng nghiệp nhưng ông sớm rõ tiềm lực hùng hậu của Phật giáo nên chỉ
vài năm sau ông đã chia rẽ Phật giáo ra làm nhiều tông phái riêng và chỉ trọng
đãi các tăng sĩ chuyên cúng tế, cầu nguyện theo các hình thức mê tín dị đoan
của Đạo giáo mà thôi. Tuy vua cho xây cất nhiều chùa nhưng lại biến những nơi
này thành những trung tâm giáo dục đào tạo các học giả quan lại cho triều đình.
Xét như thế Phật giáo chẳng thể hưng thịnh như các nhà viết sử đã kết luận mà trái lại, dưới triều
Minh Phật giáo đã dần dần suy thoái, thành một thứ tôn giáo đầy những mê tín
với các tăng sĩ bại hoại không giữ giới luật, chẳng hiểu ý nghĩa xuất gia mà
chỉ lo “hành nghề tăng sĩ ”
Cuộc đời hoằng
pháp của Đại sư Hám Sơn đã gắn liền với biến cố chính trị cuối đời nhà Minh.
Không những nó đưa ra những chi tiết độc đáo về mặc sử liệu mà còn nói rõ về
thực trạng của Phật giáo lúc đó nữa. Công phu tu hành và hoằng pháp của Đại sư
Hám Sơn đã được thị giả hầu cận ghi lại thành cuốn “Hám Sơn Lão Nhân Tự sự Niên
Phổ” vào năm 1662, khoảng một năm trước khi ngài tịch.
Qua tiểu sử của
Đại sư Hám Sơn đã phản ảnh rõ rệt về cuộc đời tu hành của một tu sĩ Phật giáo
trong hoàn cảnh chính trị nhiễu nhương lúc đó và mỗi biến chuyển trong cuộc đời
tu hành của Ngài là một bài học quan trọng, đáng để cho chư tăng cũng như quần chúng Phật tử đời sau
suy gẫm và học hỏi.
Hám Sơn Đại sư
sanh ngày 12-10-âm lịch (5-11-1546 Tây lịch) tại huyện Toàn tiêu cách Nam Kinh
khoảng 30 dặm về phía Tây. Cha Ngài tên Thái Ngạn Cao, Mẹ ngài họ Hồng, gia
đình thuộc hàng sĩ thứ. Mẹ ngài là một phật tử thuần thành, thường đến chùa
dâng hương lễ bái cầu nguyện đức Bồ Tát Quán Thế Âm. Một đêm nọ, bà nằm mộng
thấy đức Bồ Tát dẫn một đứa bé trai đến nhà. Thấy đứa bé kháu khỉnh dễ thương
bà liền đưa tay ôm nó và lòng, tỉnh dậy bà liền thọ thai. Khi sanh ra, thân
ngài được bao bọc bởi một miếng màng trắng như lụa.
Ngay từ nhỏ mẹ
ngài thường hây ẵm ngài đến chùa lễ bái, bà cũng bỏ tiền ra đắp tô tượng Bồ tát
Quán Thế Âm cùng bố thí rất nhiều tiền bạc cho những kẻ nghèo hèn khốn khổ
trong vùng. Lòng thành tín Phật pháp của bà đã ảnh hưởng rất lớn đối với sự
xuất gia tu học của ngài sau này.
Vào ngày sinh
nhật của Ngài vừa đầy một năm, khách đến nhà chúc mừng tấp nập, nhưng chẳng may
hôm đó tự nhiên Ngài bị cảm nhiệt, thân thể nóng ran, hơi thở thoi thóp. Các
thầy thuốc trong vùng được mời đến cứu chữa nhưng ai cũng đều thúc thủ bó tay.
Thấy sinh
mạng của con đã hết phương cứu chữa, sống chết chỉ còn trong lằn tơ kẻ tóc nên
mẹ Ngài quyết định bồng con đến chùa Trường Thọ cầu xin đức Quán Thế Âm Bồ Tát
cứu giúp cho. Bà khấn nguyện rằng nếu Ngài thoát chết, bà sẽ cho Ngài quy y Tam
Bảo, xuất gia làm tăng sĩ. Lạ lùng thay, sau khi cầu nguyện xong thì bịnh tình
của Ngài từ từ thuyên giảm và rồi khỏi hẳn. Từ đó mẹ Ngài càng tin tưởng vào sự
gia trì của Bồ Tát Quán Thế Âm, ngày nào bà cũng ẵm con đến chùa, chân thành lễ
bái, xưng niệm danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát.
Ngay từ nhỏ,
Ngài đã thích ngồi yên lặng trầm tư một mình, chứ ít khi chơi đùa cùng những
đứa trẻ đồng lứa nên ông nội Ngài thường gọi đùa cháu là “Thằng Cột Gỗ ”. Tuy
nhỏ, nhưng Ngài đã có những ý nghĩ lạ lùng về việc khổ đau, vui buồn, hợp tan
của nhân sinh thế thái và thường đặt ra những câu hỏi mà người trong gia đình
không ai có thể trả lời.
Năm Ngài lên 7
tuổi, một hôm từ trường về nhà, Ngài thấy người chú ruột nằm chết trên giường,
gia đình khóc lóc chung quanh, nên Ngài ngạc nhiên hỏi:
Mẹ ơi chú làm sao vậy?
Mẹ ngài không biết giải thích thế nào cho đứa con nhỏ
nên nói quanh:
Chú con đang ngủ mê đó, chốc nữa sẽ dậy. Ngài cảm thấy
có điều gì lạ lùng nên đến bên cạnh chú cố đánh thức ông ta dậy nhưng vô hiệu.
Lúc đó cô của Ngài đau lòng nên bậc lên khóc nức nở.
Trời ơi! ông nở
lòng nào lại bỏ tôi mà đi như vậy! nghe
thế Ngài hoài nghi hỏi mẹ:
- Thưa mẹ, thân chú nằm đây nhưng chú lại đi đâu?
Bà mẹ đành thở dài đáp:
- Chú con đã chết
rồi.
Ngài lấy làm lạ
nên hỏi tiếp:
- Thưa mẹ, chết
là thế nào và chú chết rồi sẽ đi về đâu?
Mẹ Ngài chẳng biết trả lời như thế nào nên im lặng.
Ngài khởi tâm nghi hoặc, nên cứ suy nghỉ mãi về việc này.
Ít lâu sau,
Ngài theo mẹ đến thăm bà dì thứ 2 vì bà ta vừa sanh một đứa con. Thấy đứa bé đỏ
hỏn nằm trên giường, Ngài hỏi mẹ:
- Thưa mẹ ! Em bé này ở đâu mà đến?
Mẹ Ngài trả lời: Ở trong bụng dì của con chứ ở đâu.
Ngài thắc mắc: Làm sao em bé này lại chui vào bụng của dì
được.?
Mẹ Ngài bèn vỗ
đầu Ngài bảo: Thằng ngốc! Ngày trước con cũng chui ở bụng mẹ mà ra chứ ở đâu?
Nghe thế Ngài
lại khởi tâm nghi hoặc và cứ suy nghĩ mãi về việc con người từ đâu sanh ra và khi chết rồi đi về đâu?
Năm 1553 Ngài
lên 7 tuổi mẹ Ngài gởi đi học cách xa nhà, thỉnh thoảng ngài về thăm nhà, nhưng
quyến luyến không muốn rời nhà để đi học, mẹ Ngài nghiêm khắc đánh đuổi. Do sự
nghiêm khắc của mẹ, nên ngài không dám lơ là, cố gắng học, dần dần trở nên một
học sinh xuất sắc. Thời đó, các trường học thường do vài ông đồ già trông nôm
dạy dỗ học sinh, kiến thức chỉ đọc và viết thôi. Muốn mở mang kiến thức căn bản
học sinh phải đến chùa học hỏi thêm, vì chỉ đó mới có những vị Tăng học
vấn thâm sâu dạy dỗ. Hôm đó Ngài theo
chúng bạn đến chùa học hỏi và nghe được tiếng tụng kinh của chư tăng: “….. Phật
bảo Vô Tận Ý: Này thiện nam tử, nếu có
vô lượng trăm nghìn vạn ức chúng sanh bị bao khổ não, được nghe danh
hiệu của Bồ Tát Quán Thế Âm, mà nhất tâm xưng danh hiệu của Bồ Tát, Bồ Tát Quán Thế Âm tức thời quán sát những âm thanh
đó thì những chúng sanh kia đều được giải thoát khổ não…..” Ngài vừa nghe đọc
như thế mà tâm thần đã rung động như người mê chợt tỉnh, nên hỏi một chú tiểu
về đoạn kinh, xin sư chú cho biết đó là kinh gì vậy? Chú tiểu đáp: Đó là phẩm Phổ Môn trong kinh Diệu Pháp Liên
Hoa, nói về hạnh nguyện cứu độ chúng sanh của Bồ Tát Quán Thế Âm. Ngài hỏi
tiếp,..Hạnh nguyện cứu độ chúng sanh của Bồ Tát Quán Thế Âm như thế nào?
Chú tiểu kia
không thể giải thích rõ ràng, nên đáp: - Tôi không biết rõ lắm nhưng trong kinh
có đoạn: “Nếu có trăm ngàn vạn ức chúng sanh vì tìm vàng bạc, lưu ly, xa cừ, mã
não, san hô, hỗ phách vào nơi biển cả. Giả sử gió thổi thuyền kia đến nước
quỷ La Sát. Trong đó, nếu chỉ có một
người xưng danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm, thì chúng nhơn kia đều được giải thoát
khỏi nạn quỷ La sát. Vì do nhân duyên
đó, nên gọi là Quán Thế Âm. Nếu có người sắp bị hại….. khiến được giải thoát ”.
Khi ấy tuổi
còn nhỏ nhưng trí tuệ của Ngài đã phát triển vượt lên chúng bạn. Nghe phẩm Phổ
Môn tuy không am tường hết ý nghĩa, nhưng ngài cũng hiểu đôi chút. Nên ngài xin một bản đem về nhà tụng. Nếu có
chỗ nào không hiểu ngài đến hỏi thầy trụ
trì dạy thêm. Vị sư trụ trì thấy Ngài tuổi nhỏ nhưng thích đọc tụng kinh điển
nên cũng hết lòng dạy. ông còn kể thêm
cho Ngài nghe về sự tích của các cao tăng như Huyền Trang, Đạt Ma Tổ Sư
v.v...
Từ đó, mỗi khi
học hành xong có thời gian rảnh rỗi, Ngài lại tụng đọc kinh điển… Ngài học
thuộc lòng phẩm Phổ Môn với chủ đích là để về đọc lại cho mẹ nghe. Mẹ Ngài tuy
rất thành tín tụng danh hiệu của Bồ Tát nhưng bà chưa biết đến hạnh nguyện của
Đức Quán Thế Âm Bồ Tát trình bày trong phẩm Phổ Môn như thế nào. Nhằm báo đền
ơn sâu của từ mẫu, Ngài cố học thuộc lòng phẩm Phổ Môn và chờ dịp nói cho mẹ
nghe.
Lần nọ nhân dịp về nhà ngài theo mẹ đến chùa lễ bái,
lễ xong Ngài thưa với mẹ.
- Thưa mẹ ! Mẹ có nghe đến quyển kinh nói về hạnh nguyện
của Bồ Tát Quán Thế Âm không?
Mẹ Ngài ngạc nhiên bảo: Mẹ chưa từng nghe ai nói đến.
Ngài bèn thưa tiếp. Nếu vậy mỗi khi lễ bái Bồ Tát Quán
Thế Âm mẹ niệm như thế nào? mẹ ngài đáp:
Suốt đời mẹ chỉ biết niệm bảy chữ chân ngôn, Nam mô Quán Thế Âm Bồ Tát mà
thôi. Ngài vội thưa. Thưa mẹ! Bảy chữ chân ngôn này tuy hàm ý bao la vi diệu vô
cùng, nhưng thật vẫn chưa bằng phẩm Phổ Môn. Để con tụng cho mẹ nghe. Nói xong
Ngài liền xướng tụng … “Chúng sanh bị khổ ách…..biển phước vô lượng, phải
thường đảnh lễ” Tụng xong Ngài giải
thích ý nghĩa của từng câu trong kinh, y như lời hòa thượng trụ trì. Mẹ ngài
yên lặng lắng nghe nhưng nước mắt chảy ròng. Đợi Ngài giải thích xong, bà mừng
rỡ ôm chầm lấy đứa con trai.
Mẹ Ngài nói.
Lành thay! cho đến hôm nay mẹ mới được nghe lời dạy của chư Phật. Từ nay mẹ
quyết tâm trì tụng và học hỏi lời Phật dạy nầy.
Năm lên 10
tuổi, trí thông minh của Ngài đã vượt hẳn chúng bạn, chỉ đọc sách vài lần đã
nhập tâm. Tuy biết con mình học giỏi nhưng mẹ ngài vẫn thúc giục con chăm học
hành.
Một hôm nhân
lúc bà bảo Ngài lấy sách vở ra để học, Ngài liền hỏi: Thưa mẹ, con có việc muốn
hỏi nhưng xin mẹ chớ trách mắng.
Mẹ Ngài nghĩ
rằng đây là cơ hội để giáo dục cho con thêm nên bảo: Con cứ nói, mẹ không phiền
trách đâu. Nghe thế, ngài an tâm mạnh dạn hỏi. Thưa mẹ: cả ngày từ sáng đến
tối, mẹ bắt con phải học hành, đọc tụng thật nhiều sách như Tứ Thư, Ngũ kinh.
Vậy có lợi ích gì?
Mẹ Ngài bảo: Người xưa bảo rằng trong sách vở có cả kho
châu báu. Nếu con lo học cho giỏi thì mai sau sẽ thi đỗ làm quan lớn và sẽ sang
giàu.
Mẹ Ngài tiếp: học giỏi để thi đỗ làm quan, nếu có khả năng
thì từ quan nhỏ sẽ dần dần tiến lên chức quan lớn rồi biết đâu chẳng làm tể
tướng. Con có biết không, làm tể tướng lớn lao uy quyền lắm, chỉ dưới nhà vua
nhưng lại cao hơn muôn dân.
Bà tưởng rằng
nói đến chức vị tể tướng sẽ hấp dẫn con mình, nào ngờ cậu bé 10 tuổi lại hỏi
thêm:
Thưa mẹ, được
chức tể tướng rồi thì làm gì nữa không? Mẹ ngài ngập ngừng chẳng biết ăn nói ra
làm sao đối với quyền thế oai phong của tể tướng, bà khó giải thích cho con
hiểu được. Sau một lúc do dự bà cố đáp. Sau khi làm tể tướng rồi thì có thể từ
quan về hưu.
Nghe thế, Ngài
bèn than: Cả đời khổ cực học hành rồi lo thi cử để làm quan vậy mà làm quan đến
chức tể tướng rồi lại lo về hưu thì phỏng có lợi ích gì?
Mẹ Ngài không
biết phải nói gì thêm nên hỏi: Nếu không muốn làm quan thì tương lai con muốn
làm gì? Không suy nghĩ ngài đáp ngay:
- Thưa mẹ con
nhất định tìm việc gì làm mãi chẳng về hưu. Mẹ ngài nghe nói thế bậc cười bảo:
Thế thì chỉ có
xuất gia làm tăng sĩ mới không từ chức về hưu mà thôi.
Ngài ngạc nhiên
hỏi: Tại sao Tăng sĩ lại không về hưu?
Mẹ ngài đáp:
Tăng sĩ là đệ tử xuất gia của Phật, phát hạnh nguyện lợi tha, du phương khắp
thiên hạ để hoằng pháp độ sanh, không chấp vào nơi ăn chốn ở. Vì phát nguyện
lợi tha, chỉ lo cho người chứ không lo cho mình, nên đâu bao giờ hết việc đời
cần gì phải tính đến hưu trí.
Nghe vậy,
Ngài vui mừng đáp ngay: Nếu như thế thì con chỉ muốn làm tăng sĩ mà thôi. Thấy
con mình nói thế, mẹ ngài liền nạt:
Thằng ngu! xuất gia đâu phải chuyện dễ phải có duyên
phận và phước đức lắm mới làm được như thế.
Ngài ngạc nhiên
hỏi: Tại sao làm Tăng sĩ lại cần có phước đức?
Mẹ Ngài đáp:
Đương nhiên là phải cần có duyên phận và phước đức mới có thể xuất gia được.
Đường quan lộ tuy trắc trở, hiểm nạn nhưng vẫn còn dễ chứ xuất gia tu hành để
giải thoát thành Phật, thành tổ thật khó khăn gấp trăm ngàn lần. Trên thế gian
này thiếu gì người thi đậu làm quan hay làm tể tướng nhưng đã có mấy ai tu hành
thành Phật thành tổ đâu. Mẹ nghĩ rằng con không nên ăn nói xàm bậy như vậy mà
mắc tội vọng ngữ.
Nghe vậy Ngài
bèn cương quyết thưa: Thưa mẹ, Con tự biết mình cũng có được đôi phần phước
đức, có thể xuất gia tu hành được nhưng con chỉ sợ mẹ không đành lòng để cho
con xuất gia mà thôi.
Vừa nghe vậy,
mẹ ngài đột nhiên toát mồ hôi như linh cảm điều gì. Bà thầm nghĩ: “Không lẽ
thằng con trai của tôi lại muốn đi xuất gia thật sao?”. Là một Phật tử thuần
thành suốt đời chân thành lễ bái, bà nhớ ngay đến lời nguyện sẽ cho Ngài xuất
gia năm xưa nên bà nghiêm nghị bảo:
Này con ! Một
ngày nào đó, nếu duyên phận đã định và con có đủ phước đức để xuất gia làm tăng
sĩ thì chắc chắn mẹ sẽ giúp cho con được như ý nguyện. Tuy nhiên lúc này thời
cơ chưa thuận tiện, con hãy giữ kín chuyện này giữa mẹ và con thôi.
Một ngày nọ vào
lúc Ngài được 11 tuổi, thì có vài vị tăng khất thực đi qua. Vì Ngài không biết
đối đãi như thế nào nên ngài chạy thẳng vào nhà báo cho mẹ biết: Thưa mẹ ! có các hòa thượng từ xa đến trước
nhà mình, không biết họ muốn gì?
Mẹ ngài chạy
ra xem rồi trả lời: Đó là những vị du tăng, đi khuyến hóa chúng sinh. Thấy bà
từ trong bước ra, các vị du tăng liền để nón và hành lý xuống rồi cung kính
chắp tay chào:
Nam mô A Di Đà
Phật ! Xin nữ thí chủ từ bi bố thí cho vài chén cơm.
Mẹ Ngài cung kính chắp tay đáp lễ: Xin thỉnh quý thầy vào nhà dùng cơm.
Nói xong bà liền dẫn họ vào nhà khách, rồi cung kính
pha trà, cúng dường cơm nước. Ngài đứng bên cạnh xem xét từng cử chỉ của chư tăng từ việc họ chấp tay cung
kính niệm trước khi dùng cơm đến những cử chỉ hành động thư thả nhẹ nhàng của
họ trong khi ăn. Họ ăn uống một cách chậm rãi ung dung, ý thức từng hành động
cử chỉ một. Ngài quan sát họ một cách thích thú như vừa tìm được điều gì mới
lạ. Dùng cơm xong, họ cung kính chấp tay cáo từ tiếp tục lên đường. Ra đến cửa
họ cảm ơn, thấy thế mẹ Ngài vội thưa:
Xin quý thầy
chớ cảm ơn. Thấy họ đã đi xa, Ngài hỏi mẹ: Tại sao mẹ không nhận lời cảm ơn của
khách tăng kia?
Mẹ ngài trả lời:
Con nên biết rằng chư tăng đến hóa duyên là tạo phước cho gia đình mình. Nếu mẹ
nhận lời cám ơn của họ thì phước đức sẽ mất hết.
Tuy chẳng hiểu
lý lẽ trên, nhưng Ngài vẫn gật đầu và tự nghĩ:
“Phải chăng vì khuyến hóa chúng sanh làm phước mà các chư tăng phải cực
khổ đi du phương hành khất như vậy ”. Từ đó, hình ảnh chư tăng ung dung tự tại
với nụ cười hoan hỷ đi hóa duyên, tạo phước luôn hiển hiện trong tâm tư Ngài
nên Ngài phát khởi ý chí nhất quyết xuất gia.
Năm Ngài lên
12 tuổi, khác với bạn bè đồng lứa chỉ biết đùa giỡn. Ngài quyết chí xuất gia
nên thường chăm chỉ đi chùa tụng kinh niệm Phật. Thấy con trể học mà chỉ lo
việc đi chùa tụng kinh nên cha Ngài lo lắng vô cùng. Sau nhiều đêm suy nghĩ,
ông nảy sinh ý định tìm con gái nhà khuê các để hỏi vợ cho con, hầu mang ngăn
chận ý tưởng xuất gia của nó. Đối với phong tục tập quán lúc đó, việc tìm vợ
sớm cho con trai không phải là việc bất thường. Vì là gia đình đại phú nên việc
cầu hôn cho Ngài rất dễ dàng, nhiều gia đình quanh vùng đã ngỏ lời ưng chịu
ngay. Tuy nhiên khi vừa hay tin. Ngài đã tỏ thái độ cương quyết khước từ và cho
gia đình biết rõ ý định muốn xuất gia của mình. Theo quan niệm: “Tam cương ngũ
thường” lúc đó thì con cái không có quyền cải lại ý kiến của cha mẹ, nhưng nhờ
sự tán trợ của mẹ ngài nên cha Ngài đành phải miễn cưỡng ngưng việc cầu hôn. Mẹ
Ngài đã nói: “Làm quan hay làm hòa thượng đều do duyên phận chứ không thể cưỡng
ép. Thằng con mình do Bồ Tát Quán Thế Âm trong mộng bồng đến. Biết đâu nó chẳng
có duyên với phật. Tuy nuôi con nhưng chúng ta phải để cho nó tự lập chí, ông
đừng cưỡng ép nó quá rồi có chuyện gì hối hận chẳng kịp”. Cha ngài chẳng đối
đáp được nên đành phải đồng ý.
Một hôm, Ngài
nghe các tăng sĩ trong chùa nói với nhau rằng, tại chùa Báo Ân ở Kim Lăng có
một hòa thượng đạo cao đức trọng tên là Tây Lâm thường thuyết pháp độ sanh, học
trò theo học rất đông. Nghe thế Ngài vui mừng hôn xiết nên xin cha cho phép đến
chùa Báo Ân ở Kim Lăng để học hỏi thêm. Biết rõ ý của con mình là muốn xuất gia
chứ chẳng phải học hành gì thêm nên cha Ngài cố tình bỏ lơ, không cho phép. Khi
ấy, tuy chỉ mới 12 tuổi nhưng Ngài đã cương quyết hướng về cửa Phật. Thấy cha
làm ngơ không đáp ứng, Ngài đóng cửa phòng, nhịn ăn nhịn uống, nhất định không
nói năng gì với ai, cho đến khi đạt được mục đích xuất gia của mình. Người trong
nhà lo lắng không biết cớ sự gì. Lúc đó, thấy cơ duyên đã đến, mẹ Ngài lên
tiếng trợ giúp và nói rõ việc đã phát
nguyện trước Bồ Tát như thế nào nên gia đình chấp nhận cho Ngài được toại ý.
Tháng 10 năm đó, Ngài cùng cha mẹ đi từ Toàn tiêu đến Kim lăng để diện kiến hòa
thượng Tây Lâm xin cho Ngài xuất gia./.
{—]–{
0 nhận xét:
Đăng nhận xét