BÁO ỨNG HIỆN ĐỜI
TẬP IV
Tác giả: Quả Khanh - Quả Hồng
Hạnh Đoan biên dịch
Nội dung chính
Lời giới thiệu
Ba tập Báo ứng hiện đời
rất được độc giả ưa thích, tái bản liên tục. Nhiều, bạn khuyên tôi viết tiếp.
Nhưng tôi nghĩ, có viết nhiều cho lắm thì vẫn là chuyện nhân quả, mà các độc
giả thông minh sáng trí, chỉ cần xem một-hai cuốn là có thể hiểu rõ Phật lý và
biết cách hành trì thế nào để tạo hạnh phúc cho mình và người… Còn đối với
người không có thiện căn, thì dù có đọc nhiều đến mấy họ cũng không hành theo,
hoặc chỉ lo sùng mộ thần thông, ham biết tiền kiếp hậu kiếp, còn điểm chÍnh là
ăn chay, hành thiện dứt ác, tịnh hóa thân khẩu ý… thì họ không lưu tâm. Chưa kể
đến những vị đọc mà khó chấp nhận, hoặc chẳng tin và không thèm tiếp thu…
Hiện nay những người mê
thần thông, ưa hướng ngoại tìm cầu… có rất nhiều, đa số còn chạy khắp nơi tìm
Hòa thượng Diệu Pháp và tôi. Thậm chỉ ở Giang Tô, Thạch Gia Trang, Hà Bắc, Ngũ
Đài Sơn v. v… đều có người giả mạo, xưng là Hòa thượng Diệu Pháp (Vì vậy quý
độc giả chẳng nên đi tìm gặp ngài! )
Nếu như đọc sách mà
không biết hồi quang phản chiếu, phát tâm sám hối, y giáo phụng hành, thì cho
dù quý vị có gặp Bồ-tát Quán Âm hay Bồ-tát Di Lặc… thì cũng chẳng ích chi, vì
chằng biết sửa sai, không chịu hồi đầu hướng thiện…
Nhằm hạn chế bớt tình
trạng (người gạt lường, mạo danh) như đã nêu, tôi cho mời nữ cư sĩ Quả Hồng,
bảo cô đem các câu chuyện tu hành, những điều thấy nghe hữu ích… biên tập thành
sách, giúp người đọc thâm tín nhân quả, từ bỏ điều ác, vui hành thiện, đồng
thời cũng muôn nhắc nhờ rằng: bản chất môi người von có sẵn thần thông trí huệ
(giống như nữ cư sĩ Quả Hồng vậy), chẳng nên tìm cầu ở bên ngoài…
Nếu mọi người chịu y
theo pháp Phật, phát huy giới định huệ, chân chính tu hành… thì sẽ có đủ trí
huệ độ người. Những vị thầy “mắt sáng” này có khắp nơi, rất nhiều. Chỉ cần bạn
kiên định: lấy giới làm thầy, quyết tâm “đoạn tất cả ác, tu tất cả thiện, thiền
tịnh song tu”, thì cuối cùng sẽ khai mở trí tuệ của mình, khi “thấy năm uẩn là
không, liền vượt qua tất cả khổ ách ”…
Quả Khanh hổ thẹn kính
ghi
20/7/2008
Tự thuật của Quả Hồng
Thời ấu thơ bé tí, tôi
thường đứng trước gương suy nghĩ: “Người trong gương này là ai? Là tôi ư?”…
nhưng, y từ sinh đến tử thay đổi theo biến hóa vô thường, vậy tôi thực sự ở
đâu? Vấn đề này từng ám ảnh khiến tôi lao tâm khổ trí suy nghĩ nhiều năm, mãi
tới khi tôi biết đến Phật giáo thì mới hiểu rõ minh bạch: “Tôi trong gương chỉ
là một thể xác, một lớp vỏ ngoài (giống như căn nhà vậy) mà chủ nhà mới thực sự
là tôi, xưa nay vốn đầy đủ Phật tính”.
Bắt đầu từ đó, tận đáy
lòng sâu thẳm, tôi khao khát tìm ra chân lý bất biến vĩnh hằng của vũ trụ nhân
sinh trong Phật pháp.
Năm tôi 18 tuổi, trong
nước dấy lên phong trào tập luyện khí công cực thịnh, cho đây là cách “rèn thân
luyện thể” lý tưởng. Tôi cũng bắt đầu hùa theo học khí công, trong đây tôi thấy
môn “Tỉnh công” hay và thích hợp nhất, vì có cho niệm: “Nam mô Quan Thế Âm
Bồ-tát”. Có lẽ đây cũng là nhân duyên kiếp trước, bời tôi vừa nghe đến danh
hiệu này thì thân tâm khoan khoái, tinh thần phấn khởi.
Thế là hằng ngày sớm tối
tôi đều niệm danh hiệu Ngài, siêng năng luyện tập tĩnh tọa. Lực gia trì của
Bồ-tát Quan Thế Âm thật bất khả tư nghị, “ngàn xứ cầu ngàn xứ ứng”, Ngài đã mấy
lần giúp tôi vượt qua cửa ải khó khăn trong đời sống, điều này càng khiến tôi
tăng thêm niềm tin kiên định đối với việc trì danh Ngài.
Từ đó bất kể tôi đi đâu
làm gì, hễ vừa ra khỏi cửa là tôi luôn niệm Phật Quan Thế Âm (niệm thầm hoặc
niệm ra tiếng), đồng thời cũng âm thầm hạ quyết tâm, nguyện học theo, noi theo
tinh thần đại từ đại bi của Bồ-tát Quan Thế Âm (tinh tấn tu hành làm lợi chúng
sinh).
Người hướng dẫn tôi tập
khí công và đặt chân vào con đường học Phật chân chính, đó là Ân sư cư sĩ Quả
Khanh.
Lần đầu tụng Kinh Kim
Cang, khi đọc đến câu:
Tất cả pháp hữu vi
Như mộng huyễn bọt sóng,
Như sương như điện chớp,
Cần phải quán như thế…
Thì trong tâm tôi chấn
động không kềm được, trăm mối cảm xúc đan xen khiến tôi bật khóc to. Tôi khóc
vì nhiều năm nay mình trầm mê trong lục đạo luân hồi, quên mất diện mục bản
lai, giống như đứa trẻ bị lạc đường không ai trợ giúp, bất kể gắng sức thế nào
cũng tìm không ra lối về. Bây giờ nhờ duyên lành mà được tiếp xúc với Phật
pháp, khiến tâm trí tôi phát sáng, như vừa dẹp xong rừng cỏ mịt mù, tìm ra được
hướng đi chân chính cho kiếp nhân sinh…
Tôi tự nhủ mình phải nắm
ngay thời cơ, quay bước về nhà, dốc sức tu hành để sớm đạt giác ngộ…
Dưới sự hướng dẫn của ân
sư Quả Khanh, tôi bắt đầu tụng “Bốn Điều Răn Dạy Minh Bạch về Tánh Thanh
Tịnh” trong Kinh Lăng Nghiêm, tụng chú Lăng Nghiêm và quỳ lễ Đại sư Tuyên
Hóa. Tuy ngài đã viên tịch, nhưng ngài từng tuyên bố: “Những ai dù chưa thấy
mặt nhưng có khát vọng muốn làm đệ tử ngài, thì thành tâm lễ bái ngài một vạn
lễ, liền có thể thành đệ tử ngài”. Vì thế mà tôi chí thành lễ bái… tròn nguyện
rồi, thì thành đệ tử ngài Tuyên Hóa.
Ngài Tuyên Hóa là vị cao
tăng mà tôi hết mực sùng kính – một vị thầy luôn xả thân vì người, đem thân làm
gương, nghiêm trì giới luật – Sáu tôn chỉ tu hành ngài đặt ra: “không tranh, không
tham, không cầu, không ích kỷ, không tư lợi, không vọng ngữ”… đã trở thành quy
luật tu hành chuẩn mực cho tôi, giúp tôi giám sát từng khởi tâm động niệm của
chính mình.
Kinh Hoa Nghiêm, kinh
Phật thuyết Bát Nhã Tam Muội, các kinh điển Đại thừa v.v… luôn nhắc
nhở chúng ta phải đối với thầy như với Phật. Trong quá trình đảnh lễ ngài
Tuyên Hóa, tôi nhiều lần nằm mơ, thấy được Bồ-tát Quan Thế Âm gia trì, giống
như những gì mô tả về Bồ- tát Quan Thế Âm trong Phẩm Phổ Môn, tôi cảm thấy nội
tâm hết sức thanh tịnh, cho nên tôi một mực xem ngài Tuyên Hóa là hóa thân của
Bồ-tát Quan Thế Âm.
Đọc “Bốn Điều Răn Dạy
Minh Bạch về Tánh Thanh Tịnh” của ngài Tuyên Hóa giảng, giúp tôi hiểu rõ bốn
điều tu căn bản là phải đoạn dâm, đoạn sát, đoạn trộm, đoạn dối… Bốn điều này
tương quan với nhau rất chặt chẽ. Nếu phạm giới dâm thì dễ dàng phạm giới sát
và cũng dễ dàng phạm giới trộm cắp và vọng ngữ (nói láo)… Muốn ra khỏi tam
giới, thì phải tu trong từng khởi tâm động niệm, phải nghiêm trì giới luật…
Tính trọng yếu của giới
luật, trong kinh Phật ghi rất nhiều. Hơn 2500 năm trước, trước khi Phật Thích
Ca nhập niết bàn, ngài A-nan từng hỏi:
– Lúc Phật tại thế mọi
người nương Phật là thầy, vậy sau khi Ngài nhập niết bàn rồi, chúng con sẽ
nương ai làm thầy?
Phật dịu dàng đáp: -Ta nhập
niết bàn rồi thì các con nương giới làm thầy!…
Đủ thấy giới luật rất
quan trọng. Vì vậy chúng ta phải kiểm soát mình chặt chẽ, phải có đủ chánh tri
chánh kiến, phá trừ mê chướng trùng trùng, hồi phục bản lai diện mục thanh
tịnh, chứng đắc Phật quả vô thượng.
Nhà Phật nói: “Muốn biết
nhân đời trước, xem thọ báo đời này. Muốn biết quả đời sau, xem nhân gieo hiện
tại”.
Hiện nay, thói đời ngày
một suy, lòng người chẳng được như xưa, bây giờ là thời kỳ vật dục kim tiền,
người ta vì danh vọng tư lợi, tạo lắm ác nghiệp chất chồng như: sát sinh, tà
dâm, trộm cắp, nói dối gạt lường v.v… nên quả báo hiện đời cũng phát sinh theo.
Do con người sống sai trái bừa bãi, nên gặp đủ nạn tai như: đụng xe, rớt máy
bay, động đất, sóng thần, cháy, lụt, gió bão v.v… khiến những ai chứng kiến
phải kinh tâm, run rẩy…
Trước những tai nạn
khủng khiếp như thế, chúng ta cần suy nghĩ: “Là do ai hủy hoại cân bằng sinh
thái, hủy hoại môi trường tự nhiên, vì sao vào thời khoa học kỹ nghệ ngày một
phát triển như thế mà chúng ta lại bất lực trước sự trừng phạt của thiên
nhiên?”…
Chúng ta cần phải tỉnh
táo, đây là cảnh cáo thiên nhiên dành cho chúng ta, nếu như nhân loại cứ mặc
tình sống cuồng thì cuối cùng cũng là… tự vùi chôn mình.
Làm thế nào để xây dựng
gia viên hài hòa, giúp nhân loại sống hạnh phúc, làm sao để tránh thiên tai
nhân họa, để chúng ta an cư lạc nghiệp? Những đáp án này đều có thể tìm được
trong Phật pháp.
Phật luôn nhắc chúng
ta:”Nên đoạn ác tu thiện, không sát, trộm, dâm, vọng, đoạn trừ ý niệm tư lợi
ích kỷ, sửa đổi hành vi tập khí thói quen tạo lỗi của mình”… như thế mới có thể
hạnh phúc an lạc, giữa người với người tự nhiên sẽ sống chung hài hòa, toàn xã
hội có thể phát triển tốt.
Do những năm gần đây đạt
được lợi ích trong quá trình học Phật, bản thân tôi và các cư sĩ bạn bè đều
thâm cảm Phật pháp thật là mầu nhiệm bất khả tư nghị, nhân quả báo ứng không
sai mảy may. Vì vậy chúng tôi đem những điều thấy nghe đơn giản, biên lại thành
tập, hi vọng thông qua đây mọi người thâm tín nhân quả, bỏ ác theo thiện.
Sách này viết ra với mục
đích hi vọng chư vị bạn đạo đọc xong sẽ kiên định niềm tin học
Phật, hằng tự tỉnh kiểm soát bản thân, phụng hành theo Phật pháp. Dùng sự
“chân tu thật chứng của mình” để cải tạo vận mệnh, lìa khổ được vui,
thành tựu Phật đạo, và không còn “cầu pháp ngoài tâm” , khỏi phải bôn
ba đi khắp nơi truy tìm người hiểu nhân quả hay kẻ có thần thông chi nữa.
Chúng ta cần nhớ kỷ,
phải khắc cốt ghi tâm lờ dạy trong Kinh Kim cang “Phàm những gì có hình
tướng đều là hư vọng”, tất cả các Pháp của Phật đều vì trị bịnh
của chúng sinh, vì những mê muội của chúng sinh mà thiết lập, vì vậy mới có câu
“Pháp còn phải xả, huống chi là phi pháp”.
Những tên người liên
quan đến nhân vật, địa danh trong bài viết… chúng tôi đều dùng bí danh, hóa
danh hoặc ẩn danh. Ngoài ra do năng lực bản thân hạn hẹp, ngôn ngữ và văn tự
trong sách ắt còn nhiều thiếu sót. Tha thiết xin chư thiện tri thức đồng
tu tha lỗi và chỉ giáo cho.
Hậu học Quả Hồng kính ghi
Lời người dịch
Như Quả Khanh luôn nhắc nhở: độc giả không nên
hướng ngoại tìm cầu, bôn ba đi tìm gặp ngài Diệu Pháp và ông cho bằng được (mà
hãy nên thực hành những điều Hòa thượng Diệu Pháp dạy, sẽ hữu ích hơn). Nhưng
thực buồn cười là, vẫn có độc giả nhầm lẫn đến độ cho rằng tôi có thể giúp họ
gặp ngài Diệu Pháp? Tôi chỉ là người dịch tác phẩm, chuyển tài chuyện nhân quả
cho quý vị xem mà thôi.
Đọc “Báo Ứng Hiện Đời 1-2”, chúng ta thấy ngài
Diệu Pháp thật là siêu thoát tuyệt vời (qua ngòi bút miêu tả của Quả Khanh).
Lúc đó tác giả Quả Khanh chỉ là một người sơ cơ mới đến với đạo, chưa có kinh
nghiệm gì nhiều.
Đến thời điểm này (thông qua các tác phẩm đã
đọc) tôi biết rằng cư sĩ Quả Khanh sau khi thọ giáo với Hòa thượng Diệu Pháp
rồi, dù tu tại gia nhưng ông hành trì Phật pháp rất cẩn mật, đã có được những
kinh nghiệm tâm linh rất sâu và lực cảm hóa người cực mạnh… đến nỗi nhiều người
chỉ một lần gặp ông thôi, đã quyết tâm dứt ác hành thiện, nghiêm trì giới Phật,
nguyện ăn chay vĩnh viễn… Ông được mọi người ca ngợi là một hiền giả rất nhân
hậu, khiêm cung, lực tu sâu…
Còn nữ cư sĩ Quả Hồng, mới đầu theo thọ giáo cư
sĩ Quả Khanh, được Quả Khanh hướng dẫn, dìu đắt… cô chỉ thành hành trì pháp
Phật và trở thành đệ tử ngài Tuyên Hỏa. Tuy là cư sĩ tu tại gia, còn trẻ, nhưng
nhờ cô nghiêm trì giới luật, tu hành cực kỳ miên mật, nên đã khai mở tuệ nhãn,
được túc mệnh minh, có khả năng nhìn thấu ba thời. Tuy có thần thông, nhưng cô
không dùng đó để khoe khoang, mà tùy duyên gỡ rối, giúp người đoạn trừ tập khí
xấu, tu tiến hơn.
Trong lời tâm sự, tự thuật, Quả Hồng không nói
nhiều về khả năng mình. Nhung theo tôi biết thì mỗi khi ai đến với cô và
nếu thắc mắc… thì những gì họ đã làm trong quá khứ hoặc nhiều kiếp trước, sẽ
hiện ra trước mắt cô như một cuộn phim… Và cô thấy rõ những hành vi lỗi lầm
trong quá khứ hay hiện tại của họ sẽ khiến tương lai họ chịu bảo ứng như thế
nào… Thậm chí có những lúc cần khắc phục ngay để hoàn thiện viên mãn hơn nhưng
đương sự không biết, không nhận ra… thì cô sẽ chỉ cho họ sửa… Do vậy mà những
lời chỉ bảo của cô thường trang nghiêm, thẳng thắn, dứt khoát. Cô không hề nói
lấy lòng mà nhằm chỉ ra điều sai để đương sự tự sửa… trong khi Quả Khanh
cũng cỏ khả năng nhìn thấu quả khứ, nhưng cung cách xây dựng của ông dịu dàng
hơn.
Khả năng Quả Hồng tuy mạnh và vượt hơn Quả Khanh
nhưng cô cực kỳ kính trọng Quả Khanh và luôn làm theo sự chỉ đạo của ông. Đôi
khi phải do chính Quả Khanh cổ vũ, khuyến khích cô mới chịu nói ra sự thực. Nếu
bạn đọc thắc mắc tại sao Quả Hồng là nữ cư sĩ mà sớm có khả năng thần thông,
thì có thể nói: Điều này tùy thuộc lực tu sâu cạn, tùy thuộc giới định huệ của
mỗi cá nhân. Ngài Tuyên Hóa từng nói: “Thần thông ai cũng có, tâm tịnh thì diệu
dụng tự hiện ”… Nhưng thần thông sẽ trở nên nguy hiểm cho người sở hữu nó (nếu
lòng họ còn ngã chấp, tham sân si, vì họ sẽ sử dụng nó vào việc hưởng lợi cho
cái ngã, vì vậy rất dễ lạc tà). Thần thông cao nhất mà Phật ca ngợi chính là
“lậu tận thông” – sạch hết phiền não – Cho nên thay vì mong cầu thần thông,
chúng ta nên tu sửa cho tâm thanh tịnh. Hồ tâm trong thì muôn pháp tự hiện,
diệu dụng phát huy…
Trong “Kinh Địa Tạng” Phẩm thứ nhất, Thánh nữ
được đức “Giác Hoa Định Tự Tại Vương Như Lai ” khuyên chí thành
niệm danh Ngài sẽ biết được chỗ của mẹ thác sinh… Cô làm y vậy
suốt một ngày đêm thì bỗng thấy thân mình xuống cõi địa ngục… Đây là cô đến địa
ngục thông qua định lực – Còn nàng Quang Mục (ở cuối phẩm thứ nhất của Kinh Địa
Tạng), nửa đêm nhìn thấy Phật, là thông qua mộng chứ không phải do định lực –
như vậy khả năng nhìn thấu ba thời của Quả Hồng thuộc về định lực – Đức Phật
từng nói, Ngài và chư Bồ-tát thường hóa hiện trăm ngàn ức thân, dưới mọi hình
thức: Trời, Người, Rồng, Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Cư sĩ nam, Cư sĩ nữ… thậm chí còn
biến làm cây cỏ núi sông v.v… để tùy duyên dẫn dắt chúng sinh vào đạo…
Dù Quả Khanh, Quả Hồng chỉ là những cư sĩ, song
tầm độ sinh của họ rất đáng cho chúng ta kính phục, vì họ có thể giúp người
chuyển hóa mạnh mẽ, tu sửa cực kỳ tốt. Sức cảm hóa này không phải ai cũng làm
được, và điều quý là họ không hề cổ súy tán dương thần thông hay khoe
khoang mình.
Những câu chuyện được kể trong cuốn sách này, có
thể bạn đọc sẽ thấy hoang đường, khó tin, thậm chí không tin. Tôi cũng từng khó
mà tin nổi…
Phật từng nhắc chúng ta: Đừng vội tin bất kỳ
điều gì, dù đó là lời chư thánh, lời trong kinh điển hay do ngàn xưa truyền
lại, nếu như ta chưa dùng trí tuệ để phán xét và thể nghiệm ”…
Phật không khuyên chúng ta tin mê, (mê tín), mà
phải nhìn sự việc bằng trí và dựa theo nguyên tắc: Điều gì có lợi cho người,
cho mình; không gây tổn hại ai thì nên làm. Điều gì có lợi cho mình, cho người;
mà gây tổn hại kẻ khác thì không nên làm.
Tất cả câu chuyện trong
đây vì hạnh phúc độc giả mà được viết- dịch ra, tin hay không, tiếp thu
thế nào – là quyền của quý vị.
Khi đi đường, nếu không
rành luật giao thông, không tuân hành đúng luật, thì chúng ta dễ bị tai nạn xe.
Trong quốc gia, nếu
không biết luật pháp và làm sai quốc pháp, chúng ta dễ bị phạt hay lắm cảnh tù
tội…
Trong kiếp người, nếu
không hiểu, không am tường luật nhân quả, chúng ta sẽ vô tình phạm lỗi, sống
sai lầm và rơi vào ba nẻo ác…
Điều đáng lưu tâm là…
những ai là đệ tử Phật, nếu chân chính hành trì pháp Phật thì sẽ không bao
giờ nói dối, cho nên những câu chuyện kể trong đây mức độ chân thực luôn đáng
tôn trọng, đáng tin (vì uy lực bất vọng ngữ của người Phật tử) hơn nữa nội dung
trong đây có nhiều bài học quý, rất đáng cho chúng ta suy gẫm…
Vì tu sĩ đã biết Phật
pháp, hiểu luật nhân quả, biết ăn chay tu hành, dù không có sách này, chư Sư
vẫn có thể hưởng pháp hỷ an lạc… Còn những người có tóc, chưa biết đạo,
không rành luật nhân quả, chưa hiểu gì nhiều… (sẽ rất dễ dàng làm những việc tự
hại mình mà không hay)… Do những câu chuyện cảnh báo, gỡ rối trong đây, đa phần
xảy ra từ giới có tóc (cư sĩ)… Để nhắc nhở họ, Quả Hồng thường hay trích
dẫn Phật pháp (điều này cần với người chưa biết, nhưng với người biết pháp quá
nhiều, nếu đọc sẽ dễ sinh nhàm chán)… Do vậy mà tôi thường nói vui là, tôi dịch
cho hàng cư sĩ có tóc xem, còn giới tu sĩ chỉ “đọc ké” thôi Ị
Lưu ý: Từ ngữ “học Phật
” các tác giả hay dùng trong sách, không đơn thuần là học giáo lý, nghiên cứu
pháp; mà bao gồm sự thực hành, tập tu, ăn chay, trì kinh, noi theo gương Phật,
tập hành hạnh Phật, phát tâm rộng lớn, làm lợi ích chúng sinh…
Dịch phẩm này được chia
làm hai phần:
Phần 1 là những câu
chuyện do Quả Hồng viết, riêng mục “Giải thích thêm” ở cuối mỗi bài là của
Quả Khanh.
Phần 2 là các kinh
nghiệm do các tu sĩ hoặc cư sĩ tự thuật chia sẻ với bạn đọc.
Xin được gởi lời tri ân
đến em Hồng Minh Châu, cô Nguyên Tâm, Diệu ân, Dương Bích Thủy, Liễu Thông… và
biết bao người đã âm thầm hỗ trợ tôi. Cảm tạ Út Chiến, Chánh Đạo, đã nhiệt
tình giúp chỉnh sửa máy để tôi có thể hoàn thành tốt công việc.
Xin hồi hướng phước điền
này đến chư vị ân nhân, hương linh cháu Carol Chi Phan… và tất cả những người
có mặt trên thế gian này.
Tôi cũng xin cảm ơn
những lời chia sẻ chân tình của quý độc giả. Nếu “Báo Ứng Hiện Đời 1-2” giúp
quý vị hiểu về nhân quả thì cuốn “Báo Ứng Hiện Đời 3 ” đã giúp độc giả tăng
thêm niềm tin, tỉnh giác và phát tâm ăn chay mạnh mẽ hơn. Đây quả là khích lệ
vô biên cho dịch giả.
Cầu chúc quý vị luôn an
lạc hạnh phúc, trí tuệ và lòng từ luôn tỏa sáng để cùng xây dựng nên một cõi
nhân gian ưu mỹ.
Cuối cùng, xin hãy tha
thứ cho những sai sót của người dịch.
Hạnh Đoan – 29/3/2013
1. BÀN VỀ QUỶ THẦN
Trong Kinh Trường-A-Hàm,
Phật khai thị:
“Trên thế gian này rất
nhiều người không biết có luật nhân quả và sáu cõi luân hồi tồn tại. Họ không
tin trên đời có quỷ thần, cũng chẳng tin có Phật Bồ-tát, càng không tin là có
quả báo.
Bởi những phàm phu này
không có trí huệ và thần thông như Phật. Tuy có mắt thịt nhưng họ hoàn toàn mù
tịt chẳng thấy thấu đáo chân tướng vũ trụ sự vật”…
Dù vậy, chúng ta vẫn có
thể nương vào trí tuệ chứng đắc viên mãn rốt ráo của Phật lưu lại trong các
kinh điển, mà tạm biết sơ vài điều. Xin giới thiệu với quý vị một đoạn khai thị
của Phật trong Kinh Trường-A-Hàm liên quan đến quỷ thần, bạn xem xong thì sẽ
hiểu rõ cảnh giới, trạng thái, tình huống của các loài quỷ thần, cũng sẽ hiểu
được vì sao cảnh của người ác và người thiện khác biệt hẳn nhau.
“Phật bảo Tỳ-kheo:
-Tất cả nhà cửa nhân dân
cư trú, đều có quỷ thần, nơi nào cũng có, tất cả đường hẻm, đại lộ, lò mổ, tiệm
buôn, chợ búa, gò nổng… đều có quỷ thần, không chỗ nào trống… Chư quỷ thần
thường lấy tên tùy theo chỗ họ gá nương, nương người tên người, nương thôn tên
thôn, nương thành tên thành, nương nước tên nước, nương đất tên đất, nương núi
tên núi, nương sông tên sông…
Phật bảo Tỳ-kheo:
– Tất cả cây cối dù nhỏ
như trục xe, đều có quỷ thần tựa vào, chẳng đâu mà không có. Tất cả nam nữ lúc
mới sinh, đều có quỷ thần theo hộ. Nếu tới hồi chết thì quỷ thủ hộ kia sẽ nhiếp
tinh khí họ, nên họ ắt phải chết.
Phật bảo Tỳ-kheo: –
Giả sử có ngoại đạo Phạm chí hỏi: – “Hiền giả, nếu tất cả nam nữ lúc mới
sinh đều có quỷ thần theo hộ, đến khi họ phải chết thì quỷ thủ hộ sẽ nhiếp tinh
khí, nên họ liền chết. Thế thì, đời nay vì cớ nào mà có người bị quỷ thần quấy nhiễu? Và ai
không bị quỷ thần quấy
nhiễu? ”… Thì Tỳ-kheo ơi, con hãy
đáp như thế này:
– Người đời do thường
phạm luật, làm nhiều điều trái đạo, sai pháp, tạo mười nghiệp ác, tà kiến điên
đảo… Ví như người thế gian đây, dù có trăm, ngàn người… thì chỉ có một vị thần
trông coi thôi (giống như bầy dê, dù có trăm ngàn, chỉ cần một người chăn là
đủ).
Nhưng đối với người tu,
luôn hành trì thiện pháp, thấy biết chân chánh, họ tin và thực hành đủ mười
điều thiện… thì những người này dù chỉ cô một người, nhưng lại được tới trăm
ngàn thần theo hộ (đây cũng giống như quốc vương, đại thần được trăm ngàn người
theo hộ vệ vậy… người hành thiện kia cũng được hưởng giống như thế). Do duyên
cớ này, mà người đời có kẻ bị quỷ thần quấy nhiễu, có người lại không hề bị… là
nhờ có thiện thần hộ!
Xem qua đoạn kinh Phật
giải thích này rồi thì ta có thể thấu triệt “mối quan hệ giữa quỷ thần, nhân
loại, sơn hà đại địa và cây cối hoa cỏ… trong thiên nhiên”. Cũng giải thích rõ
vì sao người ác hay bị quỷ thần quấy rối, người thiện thường được quỷ thần hộ
vệ, không để bị hại…
Quyển “Báo ứng hiện đời”
này ghi chép và liệt kê hàng loạt những kinh nghiệm nhân quả thực tế mà chúng
tôi và bao người từng trải qua, cũng chứng minh những điều Phật giảng là chân
ngữ. Các chuyện như “Lòng tốt cây Tượng Ba”, “Công tử áo xanh”…(xem Báo
ứng Hiện Đời tập 3), đều là những chuyện thực chứng minh: “có thần thức nương
tựa cây cối cỏ hoa, thị hiện đủ loại hình tướng”… Đúng như trong kinh Phật từng
nói: “quỷ thần nương cây cỏ, lấy tên dựa theo đó”…
Chúng ta đã hiểu rõ lý
này rồi, thì phải biết tất cả những hành vi tạo tác của ta – quỷ thần đều thấy
biết hết! (huống chi là những bậc có trí huệ đạo cao thâm như chư Phật
Bồ-tát?)… Vậy thì vì sao thế nhân không dè dặt cẩn thận, vâng theo lời Phật dạy
mà y giáo phụng hành?
2. QUAN ÂM CỨU NẠN
Một ngày khoảng 8 giờ
tối năm 1997, tôi vừa tan sở xong thi vội lên chuyến xe tối về nội thành. Lúc
này người trên xe rất ít, đi được nửa đường thì bỗng có 4 thanh niên say bí tỉ
bước lên xe. Trong tay mỗi người cầm một chai rượu, y phục xốc xếch, rỗ ràng là
“say quắc cần câu”. Một thanh niên trong đây thấy tôi ngồi một mình, liền bước
xiêu vẹo tới ngồi cạnh tôi, còn tùy tiện gác một tay lên lưng ghế tôi, ba ông
ma men kia thấy vậy đều nhào tới, ngồi xuống bao vây tôi.
Lúc đó tôi cảm thấy cực
kỳ bất an, trong lòng hơi ớn nhưng ráng giữ bình tĩnh, nghiêm nghị bảo anh
thanh niên ngồi sát tôi hãy bỏ tay xuống…
Kết quả, chẳng những anh
ta không nghe mà còn phản ứng suồng sã táo tợn hơn (bằng cách choàng tay lên
vai tôi, còn cười ha hả thật lớn). Chắc chắn đây là một tên lưu manh! Tôi muốn
đổi chỗ nhưng gã chẳng cho tôi đi ra.
Tôi liền hướng anh bán
vé cầu cứu, tôi kêu thật to: – Anh bán vé ơi!…
Anh bán vé từ từ đi tới,
tên lưu manh này thấy vậy liền sa sầm mặt, vội xỉa tiền ra mua năm vé, còn chỉ
chỉ vào tôi, trâng tráo bảo:
– Em gái này thuộc nhóm
bọn tôi, người của nhau cả đấy!
Nghe vậy, tôi thật… có
miệng mà nói khó khăn, nhưng vẫn ráng giải thích:
- Tôi không quen họ… anh
đừng lấy tiền họ, vé của tôi… hãy để tôi mua!
Nói xong, tôi đưa mắt
nhìn anh bán vé ngầm cầu giúp đỡ… nhưng anh ta chừng như quá sợ đám du côn này,
khẽ liếc tôi một cái rồi lùi về chỗ mình ngay, anh ta cứ giả lơ, làm như không
nghe thấy gì!
Còn lại mình tôi với đám
lưu manh… không ai bảo vệ, trong lúc cực kỳ nguy cấp đó, tôi chỉ còn biết cầu
Bồ-tát cứu mình thôi. Tôi rất tin Bồ- tát Quan Âm “hữu cầu tất ứng”, trong lúc
nguy nan sẽ chở che gia hộ bất tư nghi!
Giữa đêm tối bơ vơ không
ai giúp đỡ, tôi đành chắp tay niệm thầm: “Nam mô Quan Thế Âm Bồ-tát”… Tôi nhất
tâm khẩn cầu Ngài che chở, cứu tôi thoát khỏi cảnh nguy hiểm. Dần dần nội tâm
tôi trở nên bình tĩnh, Không còn căng thẳng, mà cũng chẳng còn sợ hãi nữa, vì
ngay lúc đó tâm và Phật hiệu đã hợp nhất.
Khoảng chừng 15 phút
sau, trong lúc tôi đang chuyên tâm nhất ý niệm danh Bồ-tát Quan Thế Âm, thi đột
nhiên mấy gã say đang hùng hổ bao vây áp đảo tôi… bỗng thét lên thật to:
– TÀI XẾ! MAU DỪNG LẠI!…
– Chuyện gì vậy? Phiền
phức quá đi! Hiện xe đang chạy lên đường cao tốc, không thể dừng! -Tài xế bực mình
đáp.
– Quả thực chúng tôi
không nhịn được, không nhịn được nữa rồi!… Mau dừng xe lại! DỪNG LẠI NGAY ĐI!
Gã ngồi cạnh tôi vừa nói
vừa tỏ vẻ rất thống khổ…
Lúc này mấy gã say còn
lại cũng quýnh quáng đứng dậy hết, đồng hoảng loạn la to:
– Mắc tiểu quá, hết nhịn
nổi rồi, mau dừng xe! CHÚNG TỒI MUỐN XUỒNG XE!
Tải xế vừa dừng thì bốn
gã say vội nhào lăn xuống đường rối biến mất hút trong đêm…
Ông Tài xế chửi đổng một
câu:
– Đồ thần kinh!
Rồi cho xe chạy tiếp.
Tôi thở phào nhẹ nhõm.
Trên xe bầu không khí giờ đã yên tĩnh trở lại. Tôi hết sức cảm tạ Bồ- tát Quan
Thế Âm đã ngầm gia trì, chính là nguyện lực từ bi của Ngài đã giúp tôi “hóa
hiểm thành an”. Đúng như trong Kinh Phổ Môn nói: “Chúng sinh bị khổn ách, vô
lượng khổ bức thân, Quan Âm diệu trí lực, năng cứu khổ thế gian”…
Lúc ách nạn tôi được thọ
ân như thế, xin mạo muội kể ra chia sẻ cùng người hữu duyên: tôi muốn nói rằng
nếu bạn gặp nguy hiểm, lâm vào cảnh bơ vơ cô độc một mình không có ai chở che…
thì hãy chí thành niệm danh Bồ-tát Quan Thế Âm, chỉ cần bạn thành tâm hết lòng,
nhất định sẽ nhận được lực gia trì không thể nghĩ lường của Ngài.
3. CHƠI CỔ PHIẾU CHƯỚNG NGẠI TU HÀNH
Trương cư sĩ học Phật
rất tinh tiến, mười mấy năm như một ngày, nghiêm trì giới luật, tụng kinh bái
sám, tổ chức phóng sinh, in kinh định kỳ… Chỉ cần là việc lợi ích chúng sinh,
ông đều phát tâm dốc sức làm, là một cư sĩ tu tại gia chân chính.
Mấy năm nay nhờ một bề
dốc lòng bố thí, rộng trồng phúc điền, cho nên sự nghiệp kinh doanh “Đồ điện
gia dụng” của cư sĩ phát hết sức thuận lợi, tích lũy được nhiều của cải, sống
sung túc giàu sang.
Đầu năm nay, một người
bạn đề nghị ông chơi cổ phiếu để tài sản tăng thêm. Trương cư sĩ nghe nói rất
thích, nếu thông qua thị trường cổ phiếu mà kiếm được nhiều tiền, rồi dùng vào
việc lợi ích chúng sinh, thế chẳng phải là nhất cử lưỡng tiện hay sao? Ông vừa
khởi tâm động niệm như vậy, thì tối đó trong mộng, thần hộ pháp lập tức nhắc
nhở ông: “Người tu hành không nên chơi cổ phiếu”…
Sau khi tỉnh dậy, câu
nói thần hộ pháp cứ văng vẳng bên tai khiến Trương cư sĩ suy ngẫm mãi, sau đó
ông hoát nhiên hiểu ra: “Muốn tu cho thoát ly tam giới, đã thật tu thì không
nên chơi cổ phiếu! Vì cổ phiếu thường trồi lên trụt xuống, mà trong thị trường
cổ phiếu có rất nhiều rủi ro (cá nhân hay thiểu số đều có tâm lý đầu cơ, khát
vọng kiếm nhiều tiền trong đây)… vô tình giúp dục vọng và lòng tham không đáy
của mình tăng trưởng, loại tâm tham này có thề gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến
sự khang kiện tâm linh, nên đổi với người tu có hại hơn là lợi… Chơi cổ phiếu
tất phải quan niệm lo lắng rất nhiều, do vậy phiền não cũng phát sinh theo, lệ
thuộc thị trường cổ phiếu chấn động hoặc tuột dốc, khiến tâm sinh bất an, chìm
vào tính toán tiền bạc và bị vướng kẹt trong đó. Một khi tâm thường lo sợ rối
rắm thì khó bảo trì định lực, khó giữ được an lạc.
Thử hỏi, người tu mà lúc
nào tâm cũng chộn rộn, phải lo tính toán về tiền (ưu tư vì triều lưu cổ phiếu),
bị lệ thuộc vào chuyện được-mất như thế, thi làm sao có thể “viễn ly điên đảo
mộng tường, đạt đến cứu cánh niết bàn?” Tất nhiên nếu bạn đã phá hết chấp trước
thì chẳng có gi để nói.
Thế nên tại đây xin chân
thành cảnh tỉnh các pháp hữu: đã là người chân chánh tu hành thì không nên chơi
cổ phiếu.
Giải thích thêm: Duyên khởi duyên diệt,
thân ta có vạn mối khổ, vì cơm áo, ăn, ở mà hằng giờ hằng khắc đều khởi niệm
tham chất chồng. Đệ tử Phật chỉ cần tịnh tài, tịnh khoản… để nuôi dưỡng sắc
thân. Tiền tài không thanh tịnh chớ nên dùng hay tích trữ… Phải tin sâu nhân quả
mới là con đường mưu sinh của người tại gia. Nếu muốn tu hành chân thật, xin
khuyên bạn những nghề nghiệp đầu cơ giống như chơi cổ phiếu cần phải cẩn trọng,
lánh xa…
Lời người dịch:
Có thể sẽ có nhiều bạn
cho rằng thực khắt khe khi nói: “Chơi cổ phiếu chướng ngại việc tu hành”…? ở vị
một tu sĩ, tôi cũng tán đồng bài này. Vì nếu đầu tư vào cổ phiếu mà lòng tối
ngày thấp thỏm không yên thì chính là vì vật chất mà ta đánh mất sự thanh tịnh,
an bình của bản tâm.
Trong (Báo ứng Hiện Đời
tập 3, trang 231) kể ông Tổng giám đốc Công Ty Địa ốc, giàu có tiền tỷ, tỷ… Ông
chơi cổ phiếu, có lần trong 15 phút mà bị mất tới 470 vạn, thế là ông chấn
động, xuất huyết não và đột tử.
Cho nên chơi cổ phiếu
gây chướng ngại là ở điểm này. Còn nếu bạn chơi, mà dù cổ phiếu lên, xuống…
trúng đậm hay thua to gì, lòng bạn vẫn thanh thản bình an… thì chẳng có gì đáng
nói, bạn có toàn quyền quyết định theo ý thích của mình.
4. SỨC MẠNH CỦA SÁM HỐI
Mỗi người chúng ta trong
quá khứ vì thiếu hiểu biết mà tạo vô số ác nghiệp, khiến tự tánh quý giá bị ô
nhiễm, vấy bẩn bụi trần. Do tâm bị vô minh che lấp khiến chúng ta chẳng thể
nhìn thấy ánh sáng quang minh. Vì vậy cần phải quét sạch trần cấu. Theo nhà
Phật, phương pháp tẩy sạch trần cấu tốt nhất chính là sám hối (một trong các
thiện hạnh như tụng kinh, lễ Phật, niệm Phật, trì chú v.v…)
Tổng giám đốc Trần là nữ
doanh nhân, chủ một đại xí nghiệp thành đạt. Bà học Phật đã hơn hai năm, dưới
ảnh hưởng của bà, nhiều nhân viên trong xí nghiệp cũng bắt chước ăn chay tập tu
theo. Nhờ đó mà đời họ thay đổi, tinh thần phấn chấn, xí nghiệp càng phát mạnh,
chất lượng sản phẩm thêm ổn định. So với các xí nghiệp khác thì bà Trần là
một nữ lãnh đạo nổi tiếng, được mọi người nhiệt liệt khâm phục, ngợi khen.
Ngày nọ bà Trần đến nhà
tôi, kể về tình trạng sức khỏe mình. Bà than thời gian gần đây mình hay bị nhức
đầu dữ dội mà không rõ nguyên nhân, chứng bịnh này gây ảnh hưởng nghiêm trọng
đến công tác, sinh hoạt và việc tu tập của bà.
Lúc bà Trần đương kể lể
về chứng nhức đầu, thì tôi bỗng nhìn thấy từ vai trái đến gáy của bà xuất hiện
một con cá sấu thiệt to không ngừng cắn xé nơi cổ bà, khiến cho phần bên trái
đầu, máu chẳng cung ứng đủ cho não, tôi không kìm được, vội hỏi:
– Bà có từng ăn thịt cá
sấu hay loài vật hoang dã nào không?
– Ôi chao! Tôi đã ăn qua
rất nhiều thịt động vật – Bà Trần rầu rĩ nói – Trước đây, khi còn ăn mặn, do
phải thường xuyên chiêu đãi xã giao với khách, nên tôi đã ăn hầu hết mọi loài
hoang dã như: đà điểu, rùa, thỏ rừng, gà tuyết, độc xà, thậm chí cả cá sấu
nữa!… Nhưng mà thịt cá sấu tôi chỉ ăn qua có một lần, hơn nữa lại là dạng thịt
đông lạnh, người ta đã giết sẵn trước đó rồi…
Tôi giải thích:
– Mặc dù bà chỉ ăn một
miếng thịt, nhưng chính bà là người đứng ra mời khách, tự xuất tiền cho vụ tạo
ác nghiệp này! Phải biết những loài động vật hoang dã (tương tự cá sấu)… có
tính linh rất lớn, chẳng nên tùy tiện giết nó. Không nên vì ham ngon miệng no
bụng mà ăn thịt chúng… Ngài Tuyên Hóa từng giảng vì sao không nên sát sinh. Lý
do như sau: “Chúng ta ăn thịt chúng sinh, sẽ thu nạp khí và máu huyết súc sinh
vào thân chúng ta, thần thức nó cũng đeo theo quấy phá”… Chính con cá sấu đã ra
tay báo thù, khiển thân thể bà luôn bịnh hoạn, cực suy! Hiện giờ thần thức nó
đang ở phía bên trái (từ vai đến gáy) của bà, nó không ngừng cắn xé cổ bà, làm
cho não bên trái máu không cung ứng đủ, đó là nguyên nhân vì sao bà bị nhức
đầu…
Bà Trần tỉnh ra:
– Nói như thế thì tội
tôi quá lớn, vì tôi từng ăn qua rất nhiều động vật hoang dã, nhất định tôi phải
sám hối, tụng kinh, phát nguyện… trước tiên phải hồi hướng cho con cá sấu này…
Tối đó, tắm rửa xong, bà
Trần quỳ trước Phật tụng Kinh Địa Tạng hồi hướng cho con cá sấu đã bị giết hại.
Trong quá trình tụng kinh, bà ráng chịu đựng, kiên trì tụng hai bộ Kinh Địa
Tạng và khắc phục được các chứng chóng mặt, nhức đầu…
Qua hôm sau, lúc gặp
lại, tôi thấy tinh thần và tướng mạo bà đã có thay đổi tốt… Mặt bắt đầu tươi
tắn hồng hào, những vết ám đen cũng tan hơn phân nửa…
Chiều đó mấy đạo hữu đến
thăm bà Trần, trước mặt mọi người, bà Tổng giám đốc oai vệ này đã buông bỏ hết
vẻ cao ngạo quan liêu của mình, thành khẩn kể lể phát lộ những lỗi lầm mình
từng phạm trong quá khứ, chân thành sám hối tội minh đã từng ăn và giết hại
nhiều sinh vật, bà sám hối ngày xưa khỉ làm lãnh đạo đã có tâm cống cao ngã
mạn, nóng nảy hẹp hòi, sám hối mình lúc chưa học Phật đã tạo nhiều ác nghiệp
chất chồng…
Ngay lúc bà đang sám
hối, những vết ám đen còn lưu trên mặt dần dần tan biến hết, thay vào đó là nét
sáng rỡ, hồng hào tươi tắn…
Lúc này tôi nhìn thấy:
những chúng sinh từng bị bà làm hại đang thấp thoáng ẩn hiện, dưới uy lực chân
thành sám hối của bà, chúng sinh tâm tha thứ hỉ xả, rồi từng tốp, từng tốp cùng
bay lên, trong chốc lát đã vãng sinh vào thiện đạo.
Sức mạnh sám hối thù
thắng và cực kỳ lớn như thế, đã khiến mọi người xúc động sâu sắc, cả hội trường
nhốn nháo, cùng nhau thú tội, thế là: “anh một câu tôi một câu”… ai cũng thành
tâm phát lộ nhận lỗi, lao xao tự kiểm điềm ác nghiệp và những lầm lỡ, sai quấy
mình đã tạo trong quá khứ…
Sức mạnh của sám hối
đúng như Phật từng thuyết trong “Kinh nghiệp báo sal biệt” như sau: “Nếu người
tạo tội nặng mà biết ăn năn tự trách, sám hối lỗi xưa, nguyện không tái phạm,
ắt có thể nhổ sạch tận gốc mọi ác nghiệp”…
5. LIỄU NGHIỆP
“ẰM” một tiếng, chiếc xe
Tiền Khôn lái bỗng tông vào dãy phân cách trên đường, lúc đó tuy là ban đêm,
nhưng đèn đường sáng choang, hơn nữa tốc độ xe không nhanh. Nhưng chẳng biết vì
sao tầm nhìn của Tiền Khôn trở nên hồ đồ, ông cảm thấy tấm kính chắn gió trước
mắt đầy bụi, căn bản là không nhìn ra dãy phân cách ở phía trước. Tùy theo tốc
độ của xe mà dãy phân cách bị tông với mực độ tương đương. Nghe chiếc xe phát
ra âm thanh “kèn kẹt, kèn kẹt” bất thường, Tiền Khôn vội đạp thắng, mới phát
hiện thắng xe đã hỏng. Lúc này con gái ông ngồi phía sau căng thẳng la to:
– Ba ơi mau dừng lại,
nếu không sẽ tông vào xe ở phía trước đó!
Nhưng chiếc xe không còn
nghe theo điều khiển, nó tông thẳng vào dãy phân cách (ngay lúc này, tại khúc
quanh bỗng có một chiếc xe vận tải xuất hiện), xe Tiền Khôn tông tiếp vào chiếc
xe hàng này rồi mới dừng lại. Màn đụng xe nguy hiểm xảy ra trước mắt đã nhanh
chóng thu hút người quanh đó bu lại xem.
Lúc này đã 9 giờ đêm.
Mọi người đều cho rằng chắc người lái xe say rượu nên mới xảy ra tai nạn như
thế. Sau trận “tông-đụng” quá cỡ, xe Tiền Khôn toàn bộ đều biến dạng, miếng sắt
của dãy phân cách bị xiên xẹo, rách méo, de ra và chĩa vào… cách đùi phải Tiền
Khôn 10cm, nhờ vậy mà chân ông không bị thương. Ngoại trừ chóp mũi bị trầy
xước, chảy máu… và đùi bị sưng đỏ ra, bản thân Tiền Khôn không có gì đáng lo,
đứa con gái chỉ bị xây xát nhẹ…
Chập sau, có một phụ nữ
trung niên gương mặt xinh đẹp lộ vẻ thất thần, chạy đến chỗ xảy ra tai nạn.
Thấy vậy đứa con gái tên
Linh Linh vội đưa tay ngoắc và kêu lớn:
– Má ơi!…
Nhìn thấy hai cha con
bình an, bả mới bình tĩnh trở lại.
Người phụ nữ trung niên
này vốn là một Phật tử thuần thành. Bà ăn chay, niệm Phật, nghiêm trì giới
luật, là một Phật tử tu hành tại gia gương mẫu, được nhiều bạn đạo cảm phục noi
theo, ai nấy đều gọi bà là “Vương giáo sư”.
Từ sau khi bà học Phật
rồi, trong gia đình có thay đổi lớn. Đứa con gái vốn tính phóng túng ương bướng
đã bắt đầu hiếu kính cha mẹ, cũng bắt chước ăn chay, niệm Phật theo. “Cả nhà
đồng tu, chắc chắn trí huệ xuất hiện”… Chồng bà càng dốc sức ăn chay phóng
sinh. Họ học Phật chưa đầy bốn năm, đã trở thành một gia đình Phật hóa, sống
gương mẫu và hạnh phúc đến nỗi nhiều người nhìn vào phải thèm muốn ước ao…
Vì sao gia đình Phật hóa
này lại gặp tai nạn bất ngờ như thế? Sự tình phát sinh bắt nguồn từ một tháng
trước.
Sáng hôm đó, bà Vương đi
chợ, người bán rau có ý tốt tặng cho bà mớ đậu ăn thử.
Đậu này nếu ăn sống thì
không ổn. Bà Vương do không rảnh nên đã ăn sống, kết quả bà bị thổ tả, sức khỏe
suy yếu khó kham. Do máu huyết không đủ, chứng đau lưng của bà tái phát.
Hay tin này rồi, tôi vốn
là thầy thuốc, việc nghĩa chẳng từ nan, liền vội đến nhà bà chẩn trị. Kết quả,
chứng đau lưng đã thuyên giảm. Lúc này trời đã khuya, khi tôi giã từ ra về, bà
Vương liền nhờ chồng và con gái hộ tống tôi về nhà. Họ đưa tôi về xong, trên
đường quay về thì xảy ra hiểm nạn như thế. Đêm đó, khi tôi nghe tin họ bị đụng
xe rồi thì suốt đêm cứ trằn trọc lo lắng, không thể nào chợp mắt được. Hôm sau,
tôi mang tâm tư áy náy qua thăm, còn chuẩn bị cơm tối đem tới nhà họ.
Điều khiến tôi kinh ngạc
là: trải qua một trận nạn tai kinh hoàng như thế, vậy mà cả nhà họ Vương tâm
thái rất tốt. Ai nấy đều xúm nhau sám hối sát nghiệp đã tạo trong dĩ vãng, đồng
cảm ân Phật lực gia tri, khiến họ tội nặng được trả báo nhẹ nên mới bình an. Cả
nhà họ Vương hiểu sâu sắc rằng, quả báo thống khổ này nhất định là do các nhân
xấu kiếp xưa họ từng tạo, khó thể dung thứ.
Kinh Đại Bảo Tích nói:
“Già sử trải qua trăm ngàn kiếp, nghiệp đã tạo không mất, nhân duyên hội đủ thì
quả báo đến liền thọ”…
Phật vì chúng ta tuyên
thuyết chân lý thường hằng bất biến của vũ trụ. Nguyên nhân xảy ra tai nạn xe
bất ngờ này bắt nguồn từ một lỗi lầm thê thảm, giờ tôi xin kể ra câu chuyện
nhân quả này để mọi người thêm kiên định đạo tâm, cùng dứt ác hành thiện.
Truy về nguồn cội té ra
hạt giống không lành này được gieo vào đời Thanh:
“Thuở xa xưa đó, bà
Vương, Tiền Khôn và đứa con gái Linh Linh – đều là nam nhân, đồng kết bái huynh
đệ, đối với nhau thân thiết như ruột thịt – Lúc đó cả ba đồng làm quan cho
triều đình, họ cư xử chính trực với người, không dung túng giả ngụy… do vậy mà
đắc tội với những kẻ có tâm địa tiểu nhân…
Nhóm quan bụng dạ xấu xa
này âm thầm cấu kết, lợi dụng trong tay đang có quyền lực, đã nhiều phen ám hại
hòng loại trừ ba người này, (xem họ như cái gai trong mắt)… Nhưng bao lần lập
mưu gian đều không đạt thành.
Cuối cùng, trong một vụ
xử trọng án “đoạt quyền soán vị”, đám quan ác này đã rắp tâm giá họa vu oan cho
ba người là “đồng đảng phản tặc”, và đã ngụy tạo vật chứng, nhân chứng đầy đủ…
Kết quả, triều đình lập
tức truyền lịnh truy nã… Ba người này được mật báo trước nên kịp thời đào nạn,
trốn vào thâm sơn.
Nhưng đám quan tiểu nhân
không nản lòng, chúng liên kết hợp tấu với triều đỉnh, cho bắt những bạn bè
thân thích từng quan hệ mật thiết với họ, đem trừng phạt nặng, làm lớp chết,
lớp bị thương, gieo hoảng loạn trong lòng người, khiến không ai dám giúp ba
người này nữa…
Trốn tại thâm sơn hoang
vu vắng bặt bóng người, cả ba kẻ hàm oan không hề hay biết chuyện này. về sau,
khi nhận được hung tin: các thân hữu của mình bị liên lụy, đã lãnh thảm nạn cả
rồi, thi họ đồng hiểu lầm, cho là do Trương đại nhân (người xét xử án) đã cố ý
hãm hại họ…
Thực ra Trương đại nhân
tuyệt không phải là người xấu, ông bị ép phải xử án này, nhưng ngay khi vừa
tiếp nhận án, thì chính ông đã phái người ngầm báo tin cho ba người hay trước
đề họ kịp đào nạn). Do không biết rõ mình được ông âm thầm cứu nguy, nên cả ba
người đồng phát thệ: sẽ báo thù cho những bạn bè thân thích của họ!
Sau khi bàn bạc xong, vị
đại ca (là Linh Linh) bèn phác thảo mưu kế, đánh lừa Trương đại nhân. Họ bắn
tin, hẹn ông ra ngoại thành vào rừng gặp nhau, và cho nhị ca (tức Tiền Khôn)
phục sẵn, rồi từ phía sau bất ngờ tấn công đánh úp, dùng thủ đoạn tàn nhẫn sát
hại ông Trương, phần tam đệ (là bà Vương đời nay) có bổn phận canh chừng…
Thời đó tôi lả một trong
những thân thích của họ. Khi tôi vào rừng, chứng kiến hành động của ba anh em
kết bái này, chẳng những tôi không can ngăn, mà còn mang theo thức ăn tiếp tế
hỗ trợ… Tôi lấy bánh bao đưa cho họ ăn, ba người ăn no rồi thì vội đem xác ông
Trương thiêu hủy và chạy trốn… Phần tôi thì giả vờ như không hay biết chuyện
gì, lo di tản đi xa (bỏ về quê). Từ đó Trương đại nhân bặt tin ở chốn nhân
gian.
Vì vậy mà đời này tôi
cũng phải thọ báo. Ngay tối đó khi mang thức ăn vào trong nhà bếp cho Vương cư
sĩ, tôi mới cầm cốc lên chuẩn bị rót trà, thì bỗng trợt chân, té nhào trên đất,
và cái cốc vuột tay văng tưng, rồi rơi xuống nền gạch nghe “keng” một tiếng
nhưng không vở. Điều này khiến mọi người âm thầm thấm thía nhân duyên quả báo…
Chúng tôi đều hiểu rõ,
nếu không nhờ chúng tôi đồng phát tâm tu theo Phật pháp thì quả báo khủng khiếp
có thể tưởng tượng được, vì nhân như thế, ắt quả phải như thế!…
Sau khi về nhà mình rồi,
tôi ôm mãi niềm ăn năn day dứt, thầm sám hối trong lòng, vì đời quá khứ đã từng
hợp lực, làm hại Trương đại nhân tốt bụng.
Trước bệ Phật tôi quỳ
tụng bảy biến Kinh Địa Tạng, thiết tha hồi hướng cầu siêu cho ông Trương. Ngày
thứ ba, khi tôi tụng hồi hướng xong, đột nhiên nghe bên tai vang lên tiếng nói
thật nhẹ: – Tôi đi đây!
Tôi liền bảo ông ta:
– Mong anh qui y Tam
bảo, niệm Phật thật nhiều, dứt ác hành thiện, khéo phát đại Bồ-đề tâm, làm lợi
ích chúng sinh, cầu anh ngay đây được vãng sinh thiện đạo, thính pháp nghe
kinh, tu hành thật tốt, sớm đến bờ giác…
Qua việc này có thể
biết, tất cả những gì ta gặp trong đời, đều không phải là hiện tượng ngẫu
nhiên, mà do quả báo chiêu cảm thuộc nhân gieo thuở trước. Chỉ vì chúng sinh mê
muội nghiệp nặng, nhìn không thấu… Vậy mới có câu: “Bồ-tát sợ nhân, chúng sinh
sợ quả”…
Thế nên, khi đối diện
với hoàn cảnh chông gai không thuận lợi, phải bình thản tiếp nhận báo ứng, nỗ
lực tạo nghiệp tốt, lo sửa lỗi, hành thiện, dốc sức tu trì để cứu chuộc lỗi
xưa.
Lời người dịch:
Có lẽ bạn đọc sẽ thắc
mắc, vì sao gia đình Tiền Khôn biết được nguồn cội ân oán đời quá khứ? Tất
nhiên Quả Hồng thì dư biết điều này rồi. Nhưng nhà Tiền Khôn là gia đinh Phật
hóa, tu hành nghiêm cẩn theo pháp Phật, nếu không biết quá khứ thông qua định
lực thì vẫn có thể mộng thấy, hoặc do người báo oán nhắc. Xin dẫn chứng bằng
hai câu chuyện:
1. Phật tử Diệu Ân kể
tôi nghe chị có người bạn là X, cứ than thở sao mình vướng phải nợ nần khốn
khổ, vì vậy X đã trì kinh và chí thành nguyện trước Phật xin cho mình hiểu rõ
nguyên nhân từ đâu?
Sau đó X nằm mộng thấy
kiếp trước mình vào nhà người gặp món tiền rất lớn (người ta để hớ hênh). X
khởi tâm tham trộm lấy, chưa kịp cất thì bỗng có nhiều người bước vào nhà.
Hoảng sợ nên X vội lao vào nhà vệ sinh, bỏ tiền vào bồn cầu bấm nước dội phi
tang, để không bị lộ tẩy là minh ăn cắp… dù tiền đó chưa xài được, nhưng tội đã
tạo thành, do vậy mà đời này X phải trả nợ liên miên…
Thức dậy, X tỉnh ra và
nguyện từ đây tu sửa đàng hoàng, không còn than thở vì “nợ vô lý ập đẩu nữa”.
Kể xong câu chuyện này X
nói:
– Mình làm mình chịu chứ
biết trách ai? Gieo nhân xấu thì phải gặt quả không lành thôi!
2. Một người bạn khác
của Diệu Ân, kể rằng đêm đó cô đang ngồi trì chú Đại Bi, thì bỗng dưng nhìn
thấu xuống địa ngục, thấy mẹ mình bị hành hình thê thảm… đang khủng khiếp vì
cảnh tượng địa ngục thì cô nghe tiếng xe chồng cô chạy về… và bừng tỉnh. Sau
việc đó cô phát nguyện từ đây vĩnh viễn tu hành để thoát ly cõi khổ…
Đây là việc thường xảy
ra. Cho nên, những cảnh giới kiếp trước hay cõi khác… người bình thường cũng có
thể thấy đến, chứ không phải có thần thông mới biết.
6. THAI GIÁO TUYỆT VỜI
Lời người dịch:
Thoạt đầu, khi đọc đến
tựa của câu chuyện này, tôi đã rất thờ ơ, không muốn dịch. Nhưng sau đó, tôi
ráng đọc thử xem tác giả muốn nói gì và câu chuyện đã khiến tôi cảm động. Xin
được chia sẻ cùng bạn đọc, nhất là chư Phật tử tại gia, những người trẻ tuổi
sắp làm cha mẹ.
Tiết Đình là một nhạc
công. Khi mang thai cô bắt đầu có niềm tin chân chánh đối với Phật giáo nên
phát tâm nghiêm trì ngũ giới, tập tu theo pháp Phật và quyết định giáo dục thai
nhi theo Phật giáo.
Chúng ta hãy nghe Tiết
Đình thuật lại câu chuyện giao cảm tâm linh thần kỳ giữa hai mẹ con họ:
“Sau khi kết hôn, vì
muốn đứa con sinh ra được khỏe mạnh thông minh nên tôi rất chú trọng ẩm thực,
lo tập luyện, chuẩn bị chu đáo đủ cách.
Thấy trong “Kinh Địa
Tạng” ghi rằng: “Chúng sinh ở cõi Ta Bà, đời vị lai, những người sắp sinh
con, nếu trong 7 ngày mà tụng kinh Địa Tạng bất khả tư nghì này và niệm danh
hiệu Bồ-tát Địa Tạng đủ vạn biến thì đứa con sinh ra dù nam hay nữ, đời trước
có ương báo…cũng liền được thoát khỏi, an lạc dễ nuôi, thọ mệnh tăng”…
Đoạn kinh này đã ban cho
tôi sự chỉ đạo quý báu. Tôi tin tưởng và cảm thấy được khích lệ rất lớn. Vì vậy
tôi quyết tâm nuôi dưỡng, đào tạo ra một đứa bé “băng thanh ngọc khiết” có tư
chất thanh cao, nhất quyết hun đúc trí tuệ và phúc đức cho nó theo Phật pháp.
Trong thời kỳ mới hoài
thai, tôi bắt đầu vì con mà tụng “Kinh Địa Tạng”. Do thân thể chưa quen, không
thoải mái, nên tôi chỉ thành kính tụng vào mười ngày trai (mùng 1, 8, 14, 15,
18, 23, 24, 28, 29, 30).
Thoạt đầu, tôi chỉ nghĩ
đơn giản là làm vậy có thể giúp cho sinh mệnh bé bỏng vừa tượng hình trong bụng
có thể được nghe bộ kinh bất hủ của Phật thuyết. Tôi quyết tâm vì bé mà tiến
hành việc thai giáo tốt đẹp nhất nên lòng cảm thấy rất hạnh phúc tự hào, niềm
vui này thật khó mà diễn tả hết được. Tôi luôn cầu Chư Phật, Bồ-tát đại từ đại
bi, ban cho tôi một đứa con như nguyện.
Mang thai được bốn
tháng, nhờ thiện tri thức khai thị, được người nhà dốc toàn lực ủng hộ và chăm
sóc, tôi triệt để tin lời Phật nên hoàn toàn ăn chay. Ăn chay không những giúp
tôi có dinh dưỡng tốt, thanh sạch, mà cũng chẳng bị mệt mỏi khó chịu; ngược lại
còn khiến tôi mặt mày luôn hồng hào tươi tắn, thân tâm an vui, tinh thần thể
lực sung mãn.
Sau đó, tôi tiến bộ hơn,
có thể vì con mỗi ngày tụng một bộ “Kinh Địa Tạng”, siêng năng không lười. Tôi
đối với những điều Phật dạy trong kinh vững tin không nghi. Tôi tụng kinh âm
thanh rõ ràng, ngày ngày bầu bạn cùng thai nhi đang dần lớn lên, trong lòng
sung mãn niềm an lạc hân hoan chưa từng có vì kinh nghiệm đang thực hành. Lòng
tôi luôn mong mỏi khát khao sớm được nhìn thấy mặt con.
Thời gian thấm thoát
trôi qua, mùa hạ đến tỏa khí nóng oi bức khó chịu. Nhưng tôi không chút lười
biếng, vẫn nỗ lực dụng công, ra sức thanh tâm quả dục, nghĩa là: “Tai chẳng
nghe tiếng ác, mắt chẳng nhìn việc ác, tinh tấn không lười, luôn dùng chánh
niệm hộ tâm”, mỗi ngày vì thai nhi tụng kinh, tận lực làm một người mẹ đúng
nghĩa.
Hôm nọ, khi tôi tụng
xong bộ “Kinh Địa Tạng” thì cảm thấy cổ họng khô đau, liền tiến đến tủ lạnh
định lấy kem ăn giải lao, thưởng công cho mình đã “cực khổ” tụng niệm nãy giờ.
Nhưng ngay giây phút tôi mở tủ lạnh ra, đột nhiên trong đầu tôi vang lên tiếng
nói:
– Mẹ ơi, xin đừng ăn
kem, con sẽ rất lạnh!
Việc này quả thật bất
ngờ, khiến tôi tưởng chừng mình nghe lầm, lòng cảm thấy rất kỳ quái nên mới
thầm nghĩ: “Đây có lẽ do mình tự nghĩ lẩn thẩn, hoặc là một dạng tự kỷ ám
thị mà thôi!”. Vì vậy, tôi không chú ý và quyết định: “Nghỉ một
chút, lát nữa sẽ ăn vậy”.
Nghỉ ngơi xong, tôi lại
đến mở tủ lạnh lần nữa. Thật không ngờ, cảm thọ lúc nãy lại xuất hiện:
– Mẹ ơi, đừng ăn kem,
con sẽ rất lạnh đó!
Câu nói này một lần nữa
vang lên mãnh liệt trong óc tôi, lần này đã khơi gợi được sự chú ý của tôi. Rõ
ràng là thai nhi trong bụng đang dùng “tâm nói chuyện” với tôi và “mách” cho
tôi biết những cảm thọ khổ vui của nó….Giao cảm kỳ diệu này đã khiến tôi hiểu
sâu sắc thai nhi và tôi đang “tâm tâm tương thông, tâm tâm tương tri”. “Kinh
Địa Tạng” đã giúp tôi và con liên lạc mật thiết mầu nhiệm cùng nhau. Mẹ con
chúng tôi đồng hiểu nhau qua “ngôn ngữ nội tâm”, cùng cảm thọ, kết thành thiện
duyên mẫu tử cực kỳ thâm sâu huyền diệu trong đời này!.
Tôi đã từng dùng tâm
chân thành, tâm cung kính tụng “Phật Thuyết Trường Thọ Diệt Tội Hộ Chư Đồng Tử
Kinh”. Trong kinh diễn tả: “Khi con ở trong thai, nếu mẹ ăn nóng, con khổ như
nóng địa ngục. Nếu mẹ ăn lạnh, con khổ như lạnh địa ngục, cả ngày thống khổ…Dựa
theo đoạn văn kinh kia, giây phút tôi và con “tâm linh cảm ứng” đã chứng thực
giải rõ. Điều này khiến tôi vô cùng xúc động, mãi mãi không thể quên. Lời Phật
đúng là chân ngữ, thật ngữ mà! Đây cũng ứng hợp với những điều trong sách thuốc
“Thiên kim phương” nói: “Trong lúc mang thai mà ăn cực nóng hay cực lạnh là cấm
kỵ”.
Từ đó vì thai nhi, bất
kể tiết trời nóng bức ra sao, tôi cũng không dùng qua thức ăn lạnh nào nữa.
Cục cưng sinh ra được
hai tuần, theo thói quen tôi cho bé ăn Hoàng Liên – một loại thuốc bắc, khiến
bé đi tả không ngừng. Ngắm nhìn bé ốm gầy không còn sức lực, lòng tôi nóng như
lửa đốt, cực kỳ bất an…Tôi áp mặt vào vầng trán tái nhợt của con, ưu tư trăm
mối, tâm rối như tơ… thì ngay lúc đó trong đầu tôi chợt xuất hiện câu nói:
– Mẹ ơi, đừng dùng trứng
gà nữa! Ăn trứng gà đối với con rất là không tốt!
Tôi bừng tỉnh ra, chính
là bé cưng đang nói với tôi. Tôi hoàn toàn ăn chay đúng theo trong Kinh Địa
Tạng đã dạy, nhưng do để thúc sữa, chị dâu tôi đã ngày ngày làm rượu trứng gà
cho tôi uống.
Lần này, tôi bắt đầu
thưởng thức cuộc đối thoại tâm linh thú vị cùng con. Tôi khởi ý nghĩ trong tâm:
– Con cưng à, mẹ phải
làm sao thì con mới an ổn đây?
Bé lập tức hồi đáp:
– Mẹ hãy mau tụng 7 bộ
kinh Địa Tạng hồi hướng cho oan gia trái chủ của con…
Không chút chậm trễ, tôi
lo tụng cho xong 7 bộ kinh. Sau đó, tôi “hỏi” bé:
– Mẹ đã tụng xong 7 bộ
rồi, còn muốn mẹ làm gì cho con nữa không?
Bé “đáp”:
– Bắt đầu từ nay, mỗi
ngày mẹ hãy tụng cho con một bộ kinh Địa Tạng nhé.
Tôi lại hỏi:
– Tụng đến bao giờ mới
ngừng?
Bé “trả lời”:
– Tụng đến khi con có
thể tụng kinh được thì ngừng.
– Thế bao giờ con mới có
thể tụng kinh được?
– Bảy tuổi!
Tôi hoát nhiên tỉnh ra.
Từ đó, hàng ngày tôi tụng kinh không ngừng. Tôi tụng đến hôm thứ hai thì chứng
đi tả của bé liền dứt hẳn.
Khi tôi viết đến dòng
chữ này thì bé nhà tôi đã được hơn hai tháng tuổi rồi, thân thể mạnh khỏe, an
ổn dễ nuôi. Đồng thời, để hoàn thành lời hứa với con, tôi hàng ngày vì bé mà
tụng kinh Địa Tạng, bảy năm sẽ là 2.555 bộ kinh. Tôi và chồng tin sâu, bé có
thể dùng nhân duyên này để hóa độ chúng tôi tinh tấn tu hành.
Tôi hiểu sâu đây là cả
nhà chúng tôi cùng chung sức hoàn thành đạo nghiệp. Tùy theo con ngày càng
trưởng thành mà đạo nghiệp chúng tôi ngày càng tinh tấn…đồng thời thiện hạnh,
thiện đức của chúng tôi cũng tăng trưởng theo. Điều này đối với cả gia đình
chúng tôi mà nói, quả là an vui hạnh phúc biết dường nào.
(Cư sĩ Tiết Đình kính
thuật.)
Giải thích của Cư sĩ Quả
Khanh: Con
và mẹ là do nhân duyên cực sâu mà chiêu cảm tình thâm. Trong thời kỳ hoài thai,
mẹ cùng con thực sự nương nhau, liên quan từ máu huyết, xương thịt, tinh
thần….cho đến thể chất.
Vì thai nhi mà đọc tụng
kinh điển Đại thừa chính là thai giáo tốt nhất. Tôi đã gặp nhiều vị khi mang
thai mà đọc tụng các kinh Địa Tạng hay Lương Hoàng Sám hay các kinh Đại thừa
khác….đứa con sinh ra thật xinh đẹp, thông minh mạnh khỏe, an lạc dễ nuôi.
Đây là bài viết tự thuật
chân thành của một người mẹ ở Thượng Hải. Lúc con bà sinh ra 45 ngày thì tôi có
gặp được cả ba người nhà họ và đích thân kiểm nghiệm. Nội dung câu chuyện này
hoàn toàn có thật và rất đáng tin cậy.
7. PHÁ THAI LÀ TỘI NẶNG
Hiện nay trong xã hội
vấn đế phá thai ngày càng nghiêm trọng, quả báo phá thai rất đáng sợ, không
những ảnh hưởng đến tình cảm vợ chồng mà còn tạo nên thống cực lớn cho tâm tư
lẫn sức khỏe của nữ giới. Hơn nữa tương lại còn phải chịu khổ báo nơi địa
ngục.
Chúng ta phải tận
lực đề xướng yêu quý thân mạng, ngăn cản cấm việc phá thai. Đệ tử tại
gia của Phật nên sống chung thủy, tiết dục, giữ gìn và quý trọng sức khỏe mình.
Riêng đối với người đã phá thai, không phải chỉ sám hối thôi, mà còn phải
phóng sinh, tụng kinh hồi hướng cho vong thai, mới mong giải oán kết…
Ngày nọ có một nữ sĩ họ
Kim đến phòng mạch chúng tôi khám bịnh. Cô trông rất thanh tú, búi tóc trái
đào, dung nhan buồn thảm, mặt tối sầm… trông rất tiều tụy. Vừa vào cửa, cô Kim
thống khổ nói thật nhỏ:
– Bác sĩ, xin hãy giúp
tôi, cứu tôi với. Cả người tôi đau đớn…
Tôi bắt mạch cho cô ta,
thấy mạch mệt mỏi vô lực, như vừa trải qua cơn bịnh nặng. Tôi liền hỏi:
– Cô dạo gần đây có phá
thai không?
Cô Kim bật khóc, sụt sùi
kể:
Tôi năm nay 35 tuổi, khó
khăn lắm mới có được em bé. Mang thai được bảy tháng, đến bịnh viện kiểm tra
thì bác sĩ nói tim em bé phát triển không ổn, tốt nhất nên đỉnh chỉ việc mang
thai. Thế nhưng trong lúc tôi đang do dự chưa quyết thì bắt buộc phải vâng theo
ý người nhà, triệt phá cái thai bảy tháng đó đi… Kể từ hôm phá thai xong, tâm
lực tôi suy sụp cùng cực, mãi cho đến nay, lúc nào tôi cũng có ý muốn tự sát và
rất thống khổ. Bác sĩ hãy cứu tôi với…
Kim nữ sĩ vốn là người
có sự nghiệp thành đạt, cô kết hôn đã ba năm, rất khao khát có con, năm nay
nguyện ước cuối cùng cũng đạt được. Nhưng do thời kỳ đầu mang thai, cô thường
phải ra ngoài công tác lại thêm chuyện xã giao thù tạc với khách, dẫn đến việc
tạo nghiệp sát sinh liên miên. Cô đã không biết bảo vệ sức khỏe minh trong lúc
mang thai, lại chẳng có cơ may được nghe giảng hay biết đến Phật pháp, suốt 7
tháng mang thai cô cũng không gặp được người bạn Phật tử nào, do chẳng biết bảo
vệ thai tốt, mới tạo thành bi kịch như vậy. Nhìn Kim nữ sĩ đau khổ, tôi khuyên:
– Cô không nên kích
động, phá thai đối với phụ nữ rất nguy hiểm. Cô phá đứa con đã bảy tháng lại
càng nguy hiểm hơn. Sát nghiệp phá thai hết sức nghiêm trọng. Không những gây
tổn hại sức khỏe bản thân, mà còn làm giảm thiểu hạnh phúc, ảnh hưởng đến sự
phát triển sự nghiệp gia đỉnh về sau.
Bây giờ ngoài việc chữa
trị bằng thuốc men, cô còn phải thành tâm thành ý sám hối các sát nghiệp đã
tạo. Hãy vì vong thai tụng kinh “Phật Thuyết Trường Thọ Diệt Tội Hộ Chư Đồng Tử
Đà-la-ni Kinh” ít nhất bảy bộ, hằng ngày nên tụng đều đặn một-hai bộ (có
thề quỳ tụng rồi hồi hướng cho vong thai bị phá), giúp nó nghe Phật pháp sớm
vãng sinh thiện đạo.
Cô Kim nghe xong gật
đầu. Được một tháng rưỡi, cô đến. Tôi thấy mặt mày cô đã đổi khác, nhan
diện tươi hồng, tinh thần phấn chấn, cô hớn hở mách tôi:
Hiện giờ sức khỏe em đã
hồi phục chín phần, tâm lý cũng thoải mái… không còn tư tưởng muốn tự sát nữa.
Thật là cảm tạ bác sĩ quá. Nhìn cô “sống lại”, tìm được niềm tin, tôi bảo:
Cô không cần cảm ơn tôi.
Hãy cảm tạ Phật pháp. Tất cả chúng sinh đều có Phật tính, vì vậy ta phải dùng
lòng từ bi đối với mọi chúng sinh, không nên làm thương hại…
Từ vô thỉ kiếp đến nay,
do không được nghe hay biết đến Phật pháp, mà chúng ta tạo ra vô lượng tội, làm
thương hại vô số chúng sinh.
Cho nên ta phải thành
thật nhận ra lỗi lầm của mình, không oán trời trách người, chí thành sám Ị hối,
rộng làm công đức hồi hướng cho những kẻ bị mình làm tổn hại… Có như vậy mới
mong được chúng sinh tha thứ…
Khi cô về nhà, nên
thường xuyên đọc, nghiên cứu kinh Phật cho nhiều, ráng xem Kinh Kim Cang sư
Tuyên Hóa giảng để hiểu ý nghĩa quan trọng của cuộc sống… Xem xong kinh cô sẽ
biết mình phải làm sao, chính trong bước đường học Phật tu hành thực tiễn, sẽ
tìm ra con đường ly khổ được vui, nếm mùi vị đại giải thoát, sống một đời có
trí tuệ và thai nhi bị phá cũng nhờ nghe kinh, nương theo đó mà giải oán…
8. MÃ THANH
Mã Thanh là một nam
doanh nghiệp trẻ, rất thành đạt, gia đình anh vốn hạnh phúc mỹ mãn, thế nhưng
do công việc phải giao tế nhiều, đã phát sính những việc khiến họ… bó tay.
Mã Thanh từ nhỏ rất ưa
tĩnh tọa tu hành, sau khi kết hôn do bề bộn việc nhà lẫn công ty, nên dần dần
anh tu hành giãi đãi và huân nhiễm những thói xấu thế tục. Trong thời gian nảy
anh tạo vô số sát nghiệp: sát, đạo, dâm, vọng… gì đều phạm hết… Do vậy mà quan
hệ phu thê đã dần chuyển xấu. Mới đầu thì phát sinh gây gỗ, sau đó dẫn tới ẩu
đả, hôn nhân đang ở bên bờ vực tan vỡ.
Mã Thanh cũng muốn cứu
vãn hôn nhân, hi vọng thoát khỏi phiền não, vì vậy anh đến tìm tôi. Lần dầu
diện kiến, Mã Thanh gây cho tôi ấn tượng không tốt, nhìn mặt anh khí sắc u ám
tối tăm, tôi nói:
– Anh gần đây tâm tư rất
thống khổ, nơi tim đau đớn khó chịu lắm phải không?
– Đúng vậy! – Mã Thanh
gật đầu thừa nhận.
- Vợ anh từng phá thai
bốn lần, trong số đó có một bé trai hết sức ưu tú, phải không?
Mặt Mã Thanh đang bình
thường bỗng chuyển sang tái nhợt. Anh căng thẳng nói:
– Quả tình vợ tôi đã phá
thai bốn lần, nhưng hoàn toàn không biết lả trai hay gái, riêng vợ tôi trước
khi phá thai có lần đã nằm mộng thấy một bé trai, ngài làm sao mà biết được?
Những việc của mỗl cá
nhân làm, không gi mà không lưu lại (di lậu), hiển lộ rõ. Tất cả việc mình làm
thảy đều bị trời đất trong vô hình âm thầm “ghi lại” hết, nhưng bản thân mọi
người không hay, còn đinh ninh cho rằng sẽ không ai biết chuyện minh làm, thực
tế thi tất cả đều được “ghi lại” đủ, không sót mảy may!
Những việc không hay
phát sinh trong gia đỉnh anh thảy đều do sát nghiệp tạo thành, mà trong đó tội
phá thai là nặng nhất! Anh nhất định phải chí thành sám hối, tụng kinh ăn chay,
phải
Vì mỗi vong thai đã
bị giết đó tụng ít nhất bảy bộ “Phật Thuyết Trường Thọ Diệt Tội Hộ Chư Đồng Tử
Đà-la-ni Kinh”, nhất định phải thành tâm thành ý sám hối sửa đổi… Từ rày về sau
không nên đánh đập vợ nữa, anh có lảm được như vậy chăng?
Làm được, tôi nhất định
làm được – Mã Thanh chấn động, cương quyết nói.
Một tháng sau Mã Thanh
dẫn vợ là chị Trương đến gặp tôi, lúc này khí ám đen trên mặt anh đã biến mất,
hơn nữa dung nhan còn rất tươi tắn hớn hờ, đầy vẻ tự tin. Vừa gặp tôi, Mã Thanh
xúc động nói:
– Thật không thể nghĩ
lường, tôi cảm nhận rõ ràng từng chữ từng câu trong Kinh “Phật Thuyết Trường
Thọ Diệt Tội Hộ Chư Đồng Tử Đà-la-ni”, tôi vừa mới đọc một biến thì ngay đó cảm
thấy muộn phiền đau đớn nơi tim tiêu mất, thế là tôi vội đến y viện khám, nhìn
vào thấy bảng “điện tâm đồ” hiển thị bịnh tim đã hồi phục bình thường, bác sĩ
cũng rất ngạc nhiên.
Tôi nguyện từ nay nhất
định kiên trì học Phật, tụng kinh sám hối, làm một Phật tử Chơn chánh, sống lợi
ích cho chúng sinh. Hiện giờ quan hệ vợ chồng chúng tôi đã chuyển tốt rất
nhiều. Vợ và con gái cũng khởi sự bước vào đường học Phật…
Nhờ Mã Thanh thực tâm
sám hối, chân hành tụng “Phật Thuyết Trường Thọ Diệt Tội Hộ Chư Đồng Tử
Đà-la-ni Kinh”, nên đã hóa giải oán hận nơi vong thai, giúp bé sớm được đầu
thai, đồng thời bịnh anh cũng hồi phục mạnh lành, cả nhà đồng tu học theo Phật
pháp, thu được nhiều lợi ích.
Giải thích thêm: Phá thai được xếp vào
tội sát sinh rất nặng. Những phụ nữ từng phá thai, cần chân thành sám hối và
phải thực tâm quỳ trước Phật tụng kinh “Phật Thuyết Trường Thọ Diệt Tội Hộ Chư
Đồng Tử Đà-la-ni”, hoặc “Kinh Địa Tạng”… để hồi hướng cho các vong thai bị
giết, như thế mới có thể diệt tội.
Tốt nhất là hai vợ chồng
đồng sám tụng, thì hiệu quả càng tốt. Bởi khiến nữ nhân từ hoài thai cho đến
phá thai, là trách nhiệm mà nam nhân không thể trốn tránh.
9. PHẬT PHÁP THAY ĐỔI TÔI
Đây là kinh nghiệm Lý cư
sĩ đích thân trải qua. Chúng ta hãy nghe bà kể:
Tôi tên Lý Mẩn Huệ, mặc
dù chỉ 30 tuổi nhưng cuộc sống đầy ắp tai nạn thống thiết khiến tôi cảm thấy bơ
vơ không được ai cứu giúp, nên càng chán chường tuyệt vọng vạn bội. Cho đến khi
gặp Phật pháp, cuộc đời tôi mới có được những thay đổi hi hữu (xưa nay chưa
từng có).
Mẹ tôi có mười người con
nên cuộc sống rất chật vật. Tôi là đứa thứ ba, còn thằng em thứ tám sinh ra rồi
thì đem cho người ta nuôi. Cha tôi sớm đã qua đời, tôi học đến lớp ba thì bị ép
thôi học. Sau đó tôi đi làm vú em, làm công…
Được “lò đời” mài dũa
khiến bản tính vốn kiên cường bất khuất không chịu thua của tôi càng tăng thêm
nghị lực.
Tôi kinh doanh một công
ty, thu nhập khả quan, 19 tuổi thì gặp ông chồng hiện giờ. Bởi vì hoàn cảnh gia
đình đôi bên chênh lệch khác xa nhau, hơn nữa tôi còn nhiệm vụ phải chăm sóc
các em (trai lẫn gái). Do nhiều nguyên nhân mà chồng tôi phải đồng cư với chúng
tám năm, bởi cha mẹ đôi bên phản đối nên chúng tôi không thể chính thức đăng ký
kết hôn (trong thời gian này tôi đã làm một việc khiến lòng vô cùng ăn năn, đó
là tôi từng đi nạo thai một lần. Chính lần phá thai ấy đã để lại di chứng xấu,
khiến nhiều năm sau tôi khó thể mang thai. Đến 2002 chúng tôi mới chính thức
cưới nhau.
Sau khi kết hôn xong,
chúng tôi một bề muốn có con, đã khám rất nhiều bác sĩ, nghĩ hết cách, nhưng
không thể như nguyện. Sau đó vợ chồng tôi xin hai bé gái (là chị em ruột) về
làm con nuôi.
Trước khi biết Phật pháp,
tôi thường hay phiền não, bản thân luôn có cảm giác mịt mờ; không rõ phương
hướng. Hằng ngày sau khi tan sở về nhà, tôi chẳng biết đi đâu (nên về hay không
về mới tốt?), vì vậy cứ lái xe loanh quanh trên đường, tay nắm vô lăng mà
không biết mình nên đi đâu, về đâu? Vì không lấp được khoảng trống (cảm giác
hụt hẫng) trong tâm tư, nên chỉ trong 5 năm tôi đã thay tới 5 cái xe mới… Tôi
tiêu xài phung phí, trong khi tâm không ngừng loạn động rối bời. Tôi nghĩ minh
cũng là một người tốt, vì sao không được hảo báo? Trái lại còn phải đối mặt với
quá nhiều phiền lụy, đau buồn…
Gia đình tôi đang nằm
bên bờ vực tan vỡ, tôi khổ tâm vắt sức kinh doanh, nhưng lại bị người lập mưu
chiếm của, còn các cô em thì không biết điều, cứ liên tục kiếm chuyện gây họa…
Tóm lại, đời tôi là một
cuộc sống hỏng bét rối bời, hằng ngày tâm tư luôn bị thống khổ nung nấu.
Một lần ngồi trên xe
người bạn, tôi tình cờ đọc cuốn “Báo ứng hiện đời” và được những câu chuyện
nhân quả trong đó khai thị, khiến tôi như bừng tỉnh cơn mơ. Cuộc sống tôi từ
đây bắt đầu có phương hướng…
Thế là tôi lập tức từ bỏ
ăn mặn, thậm chí hễ nhìn đến thịt cá là phát nôn mửa… Ngày trước tôi đi khắp
nơi khám bịnh, bốc thuốc… sau khi dứt ăn mặn rồi thì chẳng cần dùng thuốc nữa…
Ngược lại toàn thân cảm thấy rất nhẹ nhõm khinh an. Tôi cũng không còn tiêu xài
phung phí bừa bãi, mà đã biết tiết kiệm và dùng tiền đó để cứu giúp cho người…
Tháng 10 năm 2007 tôi
may mắn được hội kiến cư sĩ Quả Khanh, ông là người bình dị rất dễ gần. Vừa gặp
tôi đã có cảm giác cực kỳ thân quen, giống như tương ngộ thâm tình vậy. Tôi kể
lể mọi khổ đau mình đã từng trải qua cho ông nghe, đến lúc ông thuyết giảng cho
mọi người thì tôi lặng lẽ ngồi vào dự thính. Không ngờ việc lạ lại phát sinh…
Trong lúc tôi đang ngồi
xếp bằng trên ghế sô-pha, thì bỗng có cảm giác giống như “mình đang… rơi vào ổ
gà! Trong đó có rất nhiều gà, vừa dơ vừa thúi! Dường như tôi cũng là… một con
gà trong đó? Lúc ấy toàn thân tôi phát run, tiếp đến tôi không ngừng nôn mửa,
mà bản thân hoàn toàn không hay biết”…
Lúc này, mấy người bạn
tại hiện trường phát hoảng, vội chạy đến hỗ trợ, họ nhanh nhẹn đỡ dìu tôi và
giúp dọn sạch những ô uế. Khi tỉnh lại, tôi hoàn toàn chẳng biết là có việc gì
vừa xảy ra.
Tôi vừa mới tiếp xúc với
Phật giáo đã nảy sinh cảm giác rất kỳ diệu, đồng thời cũng khiến bạn bè tại đó
tăng thêm tín tâm.
Tôi bỗng nhớ lại, chính
trong lúc mang thai, vì muốn tẩm bổ thân thể, nên suốt thời gian dài mỗi ngày
tôi ăn một con gà, nhưng rồi tôi cũng không giữ được thai. “Đúng là nhân quả
báo ứng, như bóng theo hình” vậy.
Từ hồi xảy ra sự tình
không thể tưởng này rồi, tôi bắt đầu tụng Kinh Địa Tạng, lễ Phật và tĩnh tọa…
có lần ngồi suốt 8 tiếng… Cuộc sống tôi dần dần xuất hiện sự thay đổi. Công
việc dần dần thuận lợi, người em gái bỏ nhà ra đi nay đã quay về. Tôi là cột trụ
cho các anh chị em trong nhà. Không chỉ có công ty, tôi còn có một tiệm thời
trang nữa, nhưng trước đây chỉ kinh doanh qua loa.
Sau khi gặp Phật pháp rồi,
tôi tiến hành quy hoạch đổi mới tiệm thời trang, việc làm dần phát đạt… nhưng
tôi nhận ra thu hoạch lớn nhất chính là niềm an tĩnh tâm linh, vì lòng tôi
chẳng còn chấp trước nữa. Ngày xưa những vật không thuộc của mình tôi cứ nắm
chặt không buông, khiến tâm lực mệt mỏi… Từ lúc hiểu đạo rồi thì tôi buông dễ
dàng, đối với những gì đã mất đi, lòng cũng chẳng còn canh cánh nhớ hoài nữa.
Nhờ vậy mà tâm tư ung dung thoải mái rất nhiều, quan hệ cùng chồng cũng trở nên
tốt đẹp hơn. Tôi còn dự tính cuối tháng 12 năm 2007 sẽ đến bệnh viện tính thực
hiện phương pháp thụ thai trong ống nghiệm. Nhờ đã hiểu nhân quả, nên hễ cỏ
phiền não là tôi tự hóa giải.
Sau đó xảy ra một chuyện
lạ. Đầu xuân năm 2008, tôi mơ một điềm mộng: thấy trong nhà có một vị mặc hoàng
bào, đầu trọc, toàn thân phóng quang chói lòa…
Tôi thấy mình là một
trong hai thường nhân đang quỳ trước ông, người kia chẳng biết nói gì mà bị ông
đuổi ra ngoài? Còn lại một minh tôi thì vị tỏa hào quang đó bảo:
– Ngươi muốn cầu ta điều
gỉ?
Tôi thưa: – Muốn cầu
con…
Ngài nói:
– Được, ta cho ngươi như
nguyện…
Rồi tôi thức giấc. Sau
đó cảm thấy thân thể có biến chuyển khác lạ (tôi đã ngưng uống thuốc nửa năm
nay, ăn chay cũng đã hơn nửa năm), và chuyện kỳ diệu xuất hiện: cuối cùng tôi đã
mang thai! Điều này lạ lùng đến tôi khó mà tin nổi. Vì vậy tôi liên tục đến
bịnh viện khám, để bảo đảm chắc chắn là mình có thai…
Sau khi tôi mang thai,
dù thân thể phản ứng rất lớn, nhưng tâm vui mừng khôn tả…Cảm tạ Phật pháp, cảm
tạ chư Phật Bồ-tát gia hộ, dẫn dắt tôi vào con đường chánh tín, tu theo Phật
pháp. Phật pháp đã đem đến cho tôi lợi lạc khôn cùng.
10. LÃO ĐIỀN
Nhà Tiểu Điền là gia
đình Phật hóa, gia cảnh tuy không giàu, nhưng cuộc sống rất hạnh phúc tự tại.
Nguyên nhân Tiểu Điền phát tâm học Phật bắt nguồn từ câu chuyện ly kỳ của phụ
thân cô:
Phụ thân Tiểu Điền (từ
đây xin gọi lão Điền) là một nông phu miền nam điển hình, có đủ phẩm hạnh siêng
năng cần lao cố hữu của một nông gia. Hằng ngày hễ mặt trời mọc thì làm, mặt
trời lặn thì nghỉ. Cứ thế mà sống qua năm tháng…
Hôm nọ, nhà nông tất bật
với vụ mùa nên lão Điền phải làm miệt mài đến 11 giờ khuya. Xong việc, ông lê bước
mệt mỏi, vừa quẹt mồ hôi vừa đi trên con lộ nhỏ quen thuộc để về nhà. Đang đi
mải miết, tới khúc quanh, bỗng ông thấy xuất hiện mấy bóng đen xông thẳng vào
mình, chúng còn quát lên âm thanh khàn khản:
– Đứng lại! không được
đi!…
Thoạt nhìn, lão Điền cho
rằng mình đã gặp bọn cướp, liền vung cuốc lên, hung hăng đánh nhầu và… “bửa”
trúng một người trong bọn họ… chỉ nghe vang lên một tiếng “CHẢNG!” rồi không
thấy mấy bóng đen kia đâu nữa…
Lúc này lão Điền sẵn
trớn, còn vung cuốc đập bừa vào chung quanh thêm mấy cái nữa… nhưng loáng một
cái, bỗng hóa ra đánh vào… đỉnh đầu mình! Thế là sau đó xảy ra việc chi ông
cũng không nhớ được…
Thực ra mấy bóng đen đó
là những chúng sinh thuộc cõi quỷ, chính là oan gia trái chủ (đời trước ở trên
chiến trường từng bị lão Điền sát hại, họ ôm oán hận không nguôi, nên lúc nào
cũng chờ dịp để báo thù).
Theo lời vợ lão Điền nhớ
lại kể, thì diễn tiến sau đó như thế này:
-“Tối hôm ấy gần 12 giờ,
tôi đang ngủ, đột nhiên nghe trong nhà bếp có âm thanh vang lên: -Ta sẽ giết
ngươi! Ta sẽ giết ngươi!…
Khi tôi chạy vào bếp,
thì cảnh tượng trước mắt khiến tôi bủn rủn cả người; té ra là ông xã tuấn tú
nhà tôi đang nổi điên, ổng vừa hướng không trung chém loạn xạ vừa hò hét inh
ỏi…
Lúc ấy tôi sợ đến phát
run cầm cập, sau đó thì hô hoán nhờ láng giềng sang hỗ trợ, phụ đưa ông xã tới
bịnh viện”.
Sau chuyện này, bà con
chòm xóm bàn tán xôn xao, họ nói:
– Lão Điền gặp phải lũ
quỷ rồi phát điên!…
(Ngay đây tôi xin nhắc
nhở mọi người: lúc đi đường trong đêm tối mà nhìn thấy bóng đen hoặc khi đi qua
nghĩa trang hay nhà bỏ hoang nào, nếu trong lòng cảm thấy sợ… thì tốt nhất nên
niệm Phật hoặc tụng chú, Làm vậy không những giúp tiêu trừ mọi hoảng sợ trong
tâm mà còn giúp ích nhiều cho những chúng sinh mà mắt thịt không nhìn thấy
được)…
Lão Điền điên một trận
tới 30 năm, mãi đến mấy năm gần đây, ông bắt đầu nghe giảng Phật pháp… Sau khi
thọ tam quy rồi, bịnh tình mới dần chuyển tốt.
Tiểu Điền vì lo cho phụ
thân mà phát nguyện ăn chay, thường cùng mọi người tổ chức phóng sinh, in kinh
Phật, kiên trì tụng Kinh Địa Tạng hồi hướng cho phụ thân. Hi vọng ông có thể
sớm hồi phục.
Nhờ con gái cố gắng như
vậy, bịnh tình lão Điền ngày càng ổn định, tư duy dần hồi phục bình thường.
Hiện nay lão Điền giờ
giờ phút phút đều kiên trì niệm Phật, tâm vô vọng niệm… mặc dù sinh hoạt chưa
hoàn toàn tự lo, nhưng sống rất hạnh phúc, an lạc.
Nếu khéo tu kiên tri
không lười mỏi, thì cuối cùng cũng có ngày thoát khỏi biển khổ sinh tử.
Phật pháp giống như thái
dương, không những phá tan si ám, mà còn sưởi ấm nhân gian. Quan trọng là bạn
có chịu mở lòng ra để đón nhận hay không?
Nguyện tất cả chúng sinh
đều có thể tin theo, thọ trì theo lời Phật dạy để khai mở trí tuệ, sớm được ánh
dương chiếu soi, tiêu tan si ám.
11. CHUYẾN ĐỒI SỐ MỆNH
Số mệnh con người có thể
cải đổi, người ta có thể dùng phương cách đúng đắn để cải số và định đoạt tương
lai cho mình! Tiến sĩ Liễu Phàm triều Minh đã đem kinh nghiệm cải số thực tế
của bản thân ông, viết ra cuốn “Liễu Phàm Tứ Huấn”, khích lệ vô số người sau
dùng phương pháp của Phật giáo để cải đổi số mệnh mình! Thông qua đó cũng đủ
chứng minh: “Mệnh tự ta lập, nhân quả báo ứng là không dối”.
Sau đây xin kể câu
chuyện có thực, chứng minh số mệnh có thể sửa đổi:
Phùng Lập Khiêm là một
nam nhân tài ba có tiếng tăm… đã tốt nghiệp đại học. Hồi còn đi học rất anh ưa
nghiên cứu kinh Dịch, bói toán… và thường dùng những kiến thức này tự xem số
mệnh cho mình. Mỗi lần áp dụng thấy hết sức linh nghiệm. Vì vậy anh tin: số
mệnh con người đã được định sẵn!
Có lần anh đến bái kiến
một vị thầy kinh Dịch nổi danh, ông ta tiên đoán nhiều điều về tương lai anh,
quả quyết rằng sau này cuộc hôn nhân của anh chỉ kéo dài tới 15 năm, rồi sẽ ly
tan (lý do phát xuất từ cô vợ). Nghe vậy Phùng rất bất an, hi vọng tim ra cách
hóa giải…
Quả nhiên, tất cả mọi
việc đều đúng như vị thầy kia tiên đoán. Phùng thi vào Viện Nghiên Cứu dễ dàng,
rồi tốt nghiệp, làm việc… sau đỏ liên tục được cất nhắc, cuối cùng thì treo
bảng lập công ty, đạt được thành công vẻ vang…
Ba năm sau, anh kết hôn
với một cô gái hiền thục xinh đẹp… cuộc sống gia đình hạnh phúc, sự nghiệp
thuận lợi… khiến Phùng dần dần quên hẳn lời tiên tri năm nào từng khiến anh lo
lắng bất an…
Vợ chồng chung sống đầm
ấm chớp mắt đã đến đoạn cuối của… 14 năm. Ngày nọ ái thê Phùng đột nhiên phát
hiện dưới nhũ hoa phải của nàng có một khối u nhỏ, cứng (to cỡ trứng gà), sưng
đau khó chịu… nàng liền đến bịnh viện kiểm tra, mới hay mình bị “ung bướu tuyến
sữa” thời kỳ cuối. Bác sĩ phán: – Vợ phùng “Tối đa chỉ có thể sống một năm nữa
thôi!”.
Đối diện với chứng bịnh
quái ác này, cả nhà rơi vào sầu thảm khôn nguôi. Lúc này Phùng mới sực nhớ đến
lời tiên tri ngày xưa, thầm than: “Đúng là định số đã an bài”…
Trong lúc đang ở bên bờ
tuyệt vọng, Phùng tình cờ đọc cuốn “Báo ứng hiện đời” của Quả Khanh, trong đó
mỗi câu chuyện đều sinh động chân thật, khiến anh cảm thấy được giáo dục sâu
sắc và dần dần hiểu rõ: “chỉ có tin sâu nhân quả, dứt ác hành thiện,
tu theo Phật pháp”, mới có thể chuyển đổi số mệnh!
Vợ chồng Phùng từ đó bắt
đầu nhen nhúm hi vọng về cuộc sống mới. Nhờ bạn bè trợ giúp, anh gặp cư sĩ Quả
Khanh. Thoạt nhìn sắc diện xanh nhợt của vợ Phùng, Quả Khanh dịu dàng chỉ ra
những nhân ác, các tội nghiệp chất chồng trước đây nàng đã tạo… ông khuyên nàng
ăn chay, thành tâm sám hối các ác nghiệp, đúng pháp tụng Kinh Địa Tạng, hồi
hướng cho tất cả chúng sinh từng bị nàng làm tổn hại…
Vợ Phùng nghe xong, về
nhà liền bắt đầu thực hành… do ước muốn được sống bừng lên mãnh liệt, khiến
nàng chẳng dám có chút ý cao ngạo, hằng ngày kiên trì quỳ tụng Kinh Địa Tạng,
lễ sám, phóng sinh, in kinh, sách thiện…
Nửa năm sau, kỳ tích xảy
ra, ác bịnh kia đã lành hẳn.
Hiện giờ, Phùng và vợ đã
nắm tay nhau bước vào năm thứ 16 của cuộc hôn nhân (vốn là gia đinh sắp ly tan,
nhờ tu học theo Phật pháp mà chuyển đổi, biến thành gia đinh Phật hóa, sống
hạnh phúc)… Kinh nghiệm thực tiễn này đích thân hai vợ chồng cùng nếm trải,
khiến họ càng tin chắc “số mệnh nằm trong tay mình!”…
Nếu mỗi người có thể
thâm tín nhân quả, dứt ác hành thiện, y theo lời Phật dạy: nghiêm trì giới
luật, ăn chay, đúng lý đúng pháp mà tu… thì đời này không những có thể cải đổi
số mệnh, mà còn có thể liễu thoát sinh tử, lìa khổ được vui, khai mở trí huệ,
sống thong dong tự tại…
Giải thích thêm: Phật
pháp như ánh dương, những tội sát, đạo, dâm, vọng… con người hằng ngày tạo cao
như núi băng, mỗi ngày một tăng, sâu dày kiên cố, giống như địa ngục băng, mãi
mãi lạnh lẽo khốc liệt… Chỉ người hữu duyên mới có thể nghe và tin thọ Phật
pháp, biết lỗi nền sửa,hiểu rồi liền thực hành… Đây giống như vầng dương hiện
lên giữa băng giá kiên cố, không bao lâu sẽ khiến băng tan thành nước, và nước
này có thể làm lợi khắp vạn vật. Không tranh cùng người, chẳng những giúp chúng
sinh duy trì mạng sống, mà còn vì chúng sinh rửa sạch cấu uế trở nên thanh
sạch. Đây chính là căn bàn người tu đạo.
12. THUỐC TRỊ HIẾM MUỘN
Rất nhiều Phật tử tu học
theo Phật nhiều năm đã đoạn trừ ăn mặn, dứt thịt cá, nhưng vẫn còn ăn trứng gà,
trứng vịt. Thế thì đệ tử Phật rốt cuộc có nên ăn các loại trứng hay không?
Trước tiên xin kể một
câu chuyện có thật:
Một lần trong pháp hội,
Trần cư sĩ dẫn theo nữ đồng nghiệp tên Nhã Lâm, 35 tuổi. Cô này gầy gò, sắc mặt
xám vàng, ngó bộ rất tiều tụy. Do đây là lần đầu gặp giáo sư Quả Khanh, ánh mắt
cô hiện đầy nét hân hoan, khát vọng.
Trong quá trình nghe
giảng, cô rất chăm chú chí thành. Lúc giáo sư Quả Khanh hỏi cô Lâm có vấn đề
gì? Mặt cô hơi đỏ lên, lộ vẻ căng thẳng, ấp úng mãi chẳng thành câu, cuối cùng
nhờ Trần cư sĩ giải thích giùm, mọi người mới hiểu rõ.
Thì ra cô kết hôn đã
mười năm, rất khao khát có con, nhưng bất kể cầu thầy bổ thuốc đến đâu, vẫn
chẳng có thai. Hôm nay, may mắn gặp giáo sư Quả Khanh, cô thỉnh cầu ông chỉ
giúp chỗ mê muội….
Giáo sư Quả Khanh rất
thông cảm cho cô, vì nỗi khổ “cầu bất đắc” này (ước con mà không có được)…Ông
thở dài, quay sang bảo tôi:
– Quả Hồng, cô hãy quán
sát xem nguyên nhân vì sao Nhã Lâm không có con?
Tôi xoay đầu nhìn Nhã
Lâm, chạm ngay ánh mắt nhìn đầy khát vọng của cô, tôi cũng không kềm được, bật
ra âm thanh cảm thán:
– Có phải cô rất ưa ăn
trứng? Đặc biệt là trứng chim cút?
– Đúng, đúng, tôi rất
ưa. Tôi đã ăn rất nhiều trứng chim cút….thế chẳng lẽ….
Nửa câu sau âm điệu cô
ta có vẻ nghi hoặc. Trần cư sĩ ở bên cạnh, thông minh hiểu nhanh, liền hỏi giúp
cho một câu:
– Mọi người đều cho rằng
trứng có dinh dưỡng tốt, hơn nữa trước khi chưa biết Phật pháp, chúng tôi ai
cũng ăn trứng. Nhưng vì sao chỉ riêng Nhã Lâm lại chẳng thể có thai?
Tôi nhìn giáo sư Quả
Khanh đang đứng cạnh mình, (thấy mắt ông đầy hối thúc và khuyến khích), tôi
liền giải rõ:
– Phật từng nói ăn trứng
các loài điểu cầm, thủy tộc v.v…..là không có lòng từ mẫn. Hòa thượng Tuyên Hóa
cũng từng giảng những điều liên quan đến ăn trứng, Ngài từng hóm hỉnh nói: “Nếu
bạn không sợ đời sau làm trứng cho người ăn thì bạn có thể ăn bất kỳ trứng
gì”….Bởi nhân quả đan xen chồng chéo phức tạp, do mỗi người lại có phước đức
nhân duyên bất đồng nhau, nên mặc dù có nhiều người ăn trứng, nhưng việc thọ
báo lại không giống nhau….Bạn muốn có con tất phải đoạn trừ ăn mặn (đương nhiên
trong đây bao gồm cả trứng). Ngoài ra, bạn còn phải phóng sinh cho nhiều và
tụng “Kinh Địa Tạng”, hồi hướng cho các chúng sinh bạn đã từng ăn qua….
Tôi nói xong, khẽ nhìn
Nhã Lâm, thấy cô có vẻ không tin và khó chấp nhận. Rõ ràng là cô chờ nghe….một
câu chuyện nhân quả chứa tình tiết hấp dẫn liên quan đến việc hiếm muộn (khó
mang thai) của cô…nhưng lại bị những câu nói thẳng phũ phàng và quá thực tế của
tôi làm cho “vỡ mộng”. Có lẽ, cô cảm thấy những điều tôi nói là quá “xoàng”,
không quan trọng và chẳng có gì đáng lưu tâm, nên mặt cô lộ đầy vẻ thất vọng.
Tôi cảm thấy thật tiếc
cho cô, bởi cô hoàn toàn không tin gì, bất đắc dĩ tôi phải nói thẳng ra:
– Cô hiện tại chỉ muốn
bản thân mình có con, nhưng sao không nghĩ cho những cái trứng bị cô ăn
mất?….Chúng cũng có mẹ…và thân mẫu chúng phải gian nan khổ cực lắm mới sinh
được con ra.
Lúc này, giáo sư Quả
Khanh ôn tồn bảo Nhã Lâm:
– Quả Hồng giảng lý nhân
quả cho cô nghe rất đúng và chính xác. Cô hãy trân trọng tiếp thu và chịu khó
làm theo cách cô ấy bày, thì sẽ chiêu cảm được hài nhi ngoan. Tốt nhất là cả
hai vợ chồng đồng phải tu sửa luôn.
Tiện thể, cư sĩ Quả
Khanh mới kể ra một câu chuyện thật để chứng minh:
“Có một nữ Trưởng khoa
nghiên cứu Sinh vật học, thấy con gái mình kết hôn đã 4 năm mà không có thai.
Thế là bà dùng kiến thức chuyên môn của mình để hướng dẫn con rể bào chế thuốc
Nhưng dẫu có chế chi,
làm gì…thì kết quả càng khiến bà thêm hoài nghi về khả năng chuyên môn của
mình. Do vậy mà nữ Trưởng khoa này mặt mày cứ dàu dàu rầu rĩ, khiến ai cũng
phải cảm thán: “Thật là tội cho tấm lòng của bậc làm cha mẹ!”.
Khi đó tôi bảo bà:
– Vợ chồng con gái bà
đều mê ăn trứng, lại thích nhất là trứng cút (đây là cộng nghiệp chung khiến
cho họ không có con). Muốn có con thì cả hai cần phải ăn chay, phóng sanh, tụng
kinh, niệm Phật, làm nhiều việc thiện….
Vợ chồng con gái vị nữ
Trưởng khoa này y theo lời khuyên mà thực hành. Kết quả, chỉ nửa năm sau thì
con gái bà đã có thai…
Khi nghe Quả Khanh vừa
kể xong thì Lý cư sĩ (nữ bác sĩ thực tập) liền hỏi tôi:
– Vì sao hiện nay những
bệnh nhân (từng mang thai nhưng nạo thai), giờ muốn có con mà không được…lại
nhiều đến như thế?
Tôi bảo mọi người:
– Mỗi đứa con đến đầu
thai đều có nhân duyên rất sâu nặng với cha mẹ…Mà trong vòng luân hồi dày đặc,
cơ hội có được một lần đầu thai làm người lại rất hiếm hoi! Thế nhưng các bậc
cha mẹ do nhiều nguyên nhân, đã phá thai bừa bãi, hủy đi cơ duyên làm người của
vong nhi. Khi làm vậy họ nào biết rằng mình đã tạo ra tội nặng tương đương giết
A-la-hán (Đây là ám chỉ nếu người con đó sinh ra tu hành và chứng quả
mà bị giết chận trước như thế thì tương đương tội giết A La Hán). Đã vậy mà
lại còn không biết sám hối, mặc tình sát sinh ăn thịt, tạo nghiệp sát sâu nặng
chất chồng, tất nhiên sẽ chiêu cảm ác báo: “triệt con dứt cháu”…
Tôi thấy Nhã Lâm và
những người khác gật gật đầu tán đồng, thật là mừng cho cô có thể tỉnh ngộ. Hi
vọng cô sẽ được Phật lực gia trì, chịu sửa đổi lỗi lầm hướng thiện, trì giới tu
hành, sớm sinh quý tử….
Thời gian trôi qua được
nửa năm, Trần cư sĩ là người ban sơ dẫn Nhã Lâm đến, đã gọi điện thoại báo tin
cho tôi hay: “Nhã Lâm từ lúc trở về nhà đã làm y theo lời chúng tôi hướng dẫn,
và hiện giờ cô đã mang thai, rất là tri ân mọi người”.
Giải thích thêm: Xin khuyên mọi
người không nên vì tham ăn ngon, ham khoái khẩu mà ăn các loại trứng. Tôi suốt
20 năm trên đường học Phật đã từng gặp nhiều vị ăn trứng (bao gồm cả trứng
chim, rắn, cá….v.v….cho đến ăn trứng chưa thành hình trong thân gà mái)…mà biến
thành phụ nữ không thể mang thai hoặc thường sinh non, hư thai….Bọn họ bí lối
cùng đường, đành phải làm theo cách tôi hướng dẫn là: Sám hối trước Phật
(nguyện từ bỏ ăn mặn lẫn các loại trứng). Hàng ngày tụng từ 1-2 bộ “Kinh Địa
Tạng” hồi hướng cho các trứng và những thân mẫu đẻ ra các trứng mà họ đã ăn
qua….Kết quả, đại đa số khoảng chừng ba tháng là được hoài thai, thân thể họ
cũng thay đổi, trở nên khỏe mạnh…
Nguyện cầu cho những vị
hiếm muộn khao khát con, có sự nghiệp gia đình không thuận lợi và thân thể kém
khỏe mạnh, sẽ y theo phương pháp này mà thực hành, trong vòng vài tháng sẽ có
việc bất khả tư nghì xuất hiện trên thân các bạn. Bạn không phải tốn xu nào cho
việc có con, còn tiết kiệm được rất nhiều tiền, tốt như thế vì sao bạn không
làm? (Nhưng… liệu bạn có đủ can đảm để trường chay hành thiện, phóng sanh, niệm
Phật….. hay không? Có làm được mọi điều như chúng tôi đã hướng dẫn hay không mà
thôi, tất cả đều tùy thuộc vào bạn?)…
13. KHÔNG NÊN ĂN THỊT CHÚNG SINH
Nói đến vấn đề ăn thịt,
trong nhiều kinh Đại thừa Phật từng giảng rất rõ. Như trong “Kinh Phạm Võng”
ghi: “Tất cả thịt đều không nên ăn. Nếu Phật tử cố ăn thịt, tà đoạn dứt chủng
tử đại từ bi, khiến tất cả chúng sinh, vừa thấy tiền tánh xa. Bồ-tát không nên
ăn thịt chúng sinh, vì ăn thịt có vô tượng tội!”… Còn trong “Kinh Lăng Già”
Phật giảng: “Ta xem tất cả chúng sinh như con, nếu nghe lấy thịt làm thức ăn,
cũng chẳng tùy hỉ, huống nữa tà tự ăn. Đại Huệ, tất cả các toại ngũ tân: hành,
hẹ, tỏi, nén… thường xông hơi xú uế bất tịnh, làm chướng thánh đạo, chướng cả
chỗ cư trú thanh tịnh của trời, người, thế gian… huống chi là cõi tịnh của chư
Phật? Rượu cũng thế, hay làm chướng thánh đạo, gây tổn thiện nghiệp, thường
khiến sinh nhiều lỗi… Đại Huệ! Thế nên người hành thánh đạo thì các thứ đồ mặn,
rượu, thịt, hành, tỏi… tanh hôi đều chẳng nên dùng”…
Những kinh điển có nội
dung liên quan đến từ việc bỏ ăn mặn, trong Đại Tạng ghi rất nhiều. Bản thân
tôi cũng từng trải qua kinh nghiệm đối với việc ăn thịt.
Ngày nọ, tôi tụng xong
khóa tối thì bắt đầu tĩnh tọa. Những gì trải qua trong đêm đó là một kỉnh
nghiệm không thể nào quên!
Lúc ấy lưng tôi phát đau
lâm râm, song tôi vẫn cắn răng ngồi thiền, nhưng trong đầu tôi bỗng khởi lên ý
nghĩ: “Năm nay tôi 26 tuổi, ăn chay đã hai năm, nhưng từ 26 tuổi về trước, tôi
đã làm thương hại biết bao chúng sinh?”…
Trong phút chốc, trước
mắt tôi bỗng hiện ra màn ảnh:
Có con sông rất to rộng,
trong chứa đầy tôm, cá, rùa, rắn… phía trên bờ có đủ loài như: trâu, bò, dê,
heo, chó, gà, vịt v.v… hợp lại thành bầy, thành đoàn… Còn có những động vật mà
tôi chưa từng thấy qua… Thật kỳ quái, những con vật lạ này tôi chưa bao giờ
gặp, thế thì lảm sao tôi có thể gây thương hại cho chúng chứ?
Đang lúc tôi thắc mắc
thầm như thế, thì giống như phím điện ảnh đang chiếu, tôi thay hiện rõ ràng
cảnh tôi đang chiêu đãi thực khách và một âm thanh vang lên: -“Trong quá khứ,
mỗi lần ngươi tổ chức sinh nhật đều thết tiệc to, mời người đến dự, dù bản thân
ngươi ăn rất ít, nhưng tại vì ngươi chiêu đãi khách, hoặc khi ngươi kết hôn… thì
các yến tiệc này đã sát hại vô số mạng loài vật! Mặc dù ngươi ăn không nhiều
nhưng đã có biết bao chúng sinh bị giết vì ngươi… Chưa hết, ngươi còn giới
thiệu các nhà hàng ngon, khuyến khích người đi ăn, nhậu hải sản, tôm cua đủ
loại… Những người này ăn rồi lại giới thiệu kẻ khác đến ăn, nên nghiệp sát
ngươi phạm tất nhiên càng chất chổng, gia tăng vạn bội”…
Một hoạt cảnh yến tiệc
cưới hỏi, sát sinh, ăn thịt, uống rượu… hiện trước mắt tôi rõ ràng mồn một,
sinh động từng nét… Giống hệt như máy chiếu phim, quay lại những hình ảnh ban
sơ và trinh chiếu lại thật mới mẻ sống động.
Nhận ra mình đã tạo vô
số ác nghiệp, tôi khẩn trương sám hối, niệm Phật… cầu siêu cho những chúng sinh
minh từng sát hại.
Lúc này tôi nhìn thấy
rất nhiều cá, tôm… (đủ loại thủy tộc) nhờ uy lực niệm Phật, đồng nương không
trung mà đi mất. Nhưng còn một số lớn động vật (bò, dê heo, chó v.v...) vẫn
không chịu đi. Trên lưng tôi còn xuất hiện mấy con ba ba và rắn, chúng quyết
trì lại không đi. Tôi ngay đây bỗng hiểu rõ nguyên nhân đau nhức nơi lưng mình:
thế là tôi hạ quyết tâm, nhất định chí thành sám hối, tụng kinh niệm chú cầu
cho những chúng sinh tôi từng làm hại, sớm được ly khổ, an vui…
Ngay đêm đó tôi bắt đầu
tụng Kinh Kim Cang, chú Lăng Nghiêm, thành tâm sám hối các ác nghiệp xa xưa.
Hồi hướng cho những chúng sinh từng bị tôi giết hại…
Hai tháng sau, một ngày
nọ, lúc tôi tụng đến văn phát nguyện, hồi hướng, thì đột nhiên nơi bắp đùi phải
cảm thấy tê nhức sưng to, cơn đau lan xuống cổ chân, ban chân.. rồi biến mất.
Liên tục ba ngày, tình trạng này cứ tái diễn như thế… sau đó thì lưng tôi lành
hẳn. Do vậy tôi tin rằng, những chúng sinh nương vào uy lực tụng kinh hồi
hướng, đã được vãng sinh thiện cảnh.
Việc này khiến tôi thể
ngộ sâu sắc rằng: người tu theo pháp Phật chẳng những không nên ăn thịt chúng
sình, mà cũng chẳng nên mời, hay xúi, giới thiệu chỗ bán đồ mặn cho người ăn,
lại càng không nên khuyên người ăn thịt. Hơn nữa, mỗi khởi tâm động niệm phải
hoàn toàn không được có chút ý niệm sát sinh.
Hiện nay trên thế giới
có rất nhiều người không tin nhân quả, chỉ biết ăn uống cho khoái khẩu, mặc
tình hưởng thụ những thứ được cho là sơn hào hải vị, thậm chí còn xuất hiện
quái cảnh ăn thịt người (ăn thai vừa sinh hoặc bị xẩy), kiểu sát sinh tạo
nghiệp không sợ hãi, không kiêng dè chi như thế này, sẽ chiêu cảm đủ loại tật
dịch quái lạ bộc phát và lây nhiễm tràn lan…
Vì vậy tôi kính cẩn
khuyên mọi người: hãy mau sớm hồi đầu, làm một Phật tử chân chánh, nghiêm trì
giới luật và nhất là không nên ăn thịt chúng sinh.
Giải thích thêm:
Người xưa thấy có gì
không đúng, không hợp… liền đóng cửa gẫm suy, tự kiểm điểm bản thân, cho nên
bịnh tật thường không thuốc mà tự khỏi. Còn ngày nay con người hiện đại luôn
thấy mình không có lỗi, thường nói mình “không có làm gì ác”, đâu biết rằng:
sát sinh ăn thịt chính là đại tội!
Hiện nay thiên tai nhân
họa như (động đất, sóng thần, lụt lội, lửa cháy, đụng xe, rớt máy bay…) xảy ra
liên miên, đủ thứ bịnh lạ phát sinh, đa số đều do nguyên nhân ăn thịt mà sinh
khởi. Nếu có thể làm như cư sĩ Quả Hồng: sám hối sửa lỗi, tụng kinh tu thiện,
nhất định sẽ an khang cát tường.
Hơn nữa trong các kinh
Đại thừa luôn khuyên người từ bỏ ăn thịt, như trong “Kinh Đại Bát Niết Bàn”,
Bồ-tát Ca Diếp thưa: – Bạch Thế Tôn, con thấy không nên bố thí thịt cho người ăn
mặn. Vì sao? Bởi không ăn thịt, công đức rất lớn.
Phật khen: – Lành thay! ông
hiểu rõ ý ta, Bồ-tát hộ pháp cần phải như thế. Bắt đầu từ nay trở đi, không cho
phép các đệ tử Thinh văn ăn thịt, vì ăn thịt là đoạn hạt giống đại từ (nếu thọ
đàn việt hiến cúng, cần phải quán như đang ăn thịt con)…
Bồ-tát Ca Diếp lại thưa:
– Bạch Thế Tôn! Sao trước đây con nghe có cho Tỳ-kheo ăn tam tịnh nhục?
– Tam tịnh nhục là
phương tiện tạm đặt… Kể từ hôm nay ta chế định cho các đệ tử: – Không được ăn
tất cả thịt – Người ăn thịt, khiến tất cả chúng sinh vừa nghe hơi đều hoảng sợ…
Chúng sẽ bảo nhau: Kẻ này là oán thù của ta!
Vì vậy Bồ-tát nên từ bỏ ăn mặn, là đệ tử Phật
chân chính phải y giáo phụng hành, dứt tuyệt ăn thịt!
14. PHỈ BÁNG PHẬT PHÁP, PHẢI SÁM HỐI
Hủy báng Phật pháp, nhất là pháp Đại thừa quả
báo rất nặng. Trong kinh “Phật Thuyết Diệu Pháp Quyết Định Nghiệp
Chướng” có ghi: “Nếu chúng sinh nghe thuyết Đại thừa, tâm không vui sinh
hủy báng, nên biết đó là quyến thuộc của tà ma. Do khởi tâm hủy báng kinh điển
Đại thừa. Chết xong sẽ đọa A-tỳ chịu vô lượng khổ. Sau đó sinh vào loài ngạ quỷ
ăn lửa, ăn phân, đàm, giãi… chịu khổ vô lượng kiếp xong, thì sinh làm người
phong cùi, bị mù, điếc, câm, ngọng, các căn không đủ… Những chúng sinh này trải
qua vô lượng kiếp sinh từ… cuối cùng mới được gặp Phật thờ phụng cúng dường… Vì
vậy khi nghe Phật thuyết kinh Đại thừa nên giữ tâm trong sạch, không tạp niệm”…
Tiểu Quách là một sinh viên cao lớn anh tuấn,
vừa tốt nghiệp đại học xong, đang chuẩn bị sang Mỹ du học. Nhưng anh mắc một
tâm bịnh rất khó trị, vì vậy đã tìm đến tôi nhờ giúp đỡ.
Vừa gặp mặt nhau, Tiều Quách lộ vẻ thống khổ bày
tỏ:
– Chao ôi! Tôi phạm phải lỗi rất lớn, tôi biết
là mình không đúng nhưng chẳng tài nào khống chế được. Phải làm sao đây?
Nghe vậy, tôi liền hỏi:
– Lỗi gì nặng nề? Lại biết rõ sai trái mà không
khống chế được? Là ghiền ma túy hay tà dâm?…
Tiểu Quách đáp:
– Không phải mấy thứ đó, còn nghiêm trọng hơn
nữa kia! Tôi học Phật mấy năm nay, hiện tại có thể ăn chay, tụng kinh, phóng
sinh… nhưng lại mắc phải một bịnh rất lớn là: Mỗi khi tôi xem kinh thấy trong
đó ghi: “Phải cung kính Tam bảo: Phật Pháp Tăng, chẳng nên cuồng vọng phỉ báng,
nếu không sẽ bị quả báo”…
Là tôi liền khởi tâm hoài nghi chẳng tin. Có lúc
còn cố tình phỉ báng Phật pháp, để xem thực có quả báo chi chăng?… Một lần nọ
tôi thấy trong Kinh Lăng Nghiêm viết: “ông tu tam muội nhằm xuất trần lao, tâm
sát chẳng trừ, trần không thể xuất. Cho dù ông đa trí, thiền định hiện tiền,
nếu chẳng dứt sát, ắt đọa thần đạo”…
Khi xem xong đoạn nảy rồi, tôi liền sinh tâm
nghi, còn này ý sai người nhà đi mua cá về giết ăn, để xem có quả báo gỉ chăng?
Do vậy mà tôi phả giới, sát sinh… Sau đó rất hối hận, biết mình làm thế là
không đúng, nhưng không hiểu sao lại chẳng tự khống chế được…
– Anh đã nhận ra đó là lỗi, biết mình làm không
đúng thì phải phát tâm sám hối.
– Tuy tôi biết là không đúng, nhưng lắm lúc vẫn
muốn moi móc, kiếm tìm các điểm trong kinh Phật để phỉ báng… tôi tự biết như
vậy là lỗi, nhưng lại không thể sửa, điều này khiến tôi rất sợ, phải làm sao
đây?
Nhìn Tiểu Quách ương bướng cứng cỏi như
khối đá, tôi nghĩ “chỉ có thể dùng pháp kim cương để đánh tan tính ngông cuồng
này thôi”. Tôi bèn làm mặt nghiêm, đanh thép nói:
-Anh có biết phạm tội báng Phật báng pháp là
phải đọa vô gián địa ngục hay không hả? Nếu anh không phát tâm tha thiết sám
hối, là tự làm uổng phí đời mình, bởi vì tội ấy mà phải đọa địa ngục… Thực ra
trong tiền kiếp anh đã mấy đời tu hành, tọa thiền khổ hạnh, nhưng lại có tri
kiến bất chánh (y như 50 loại ma ngũ ấm trong Kinh Lăng Nghiêm Phật từng mô
tả). Do trong lúc thiền định anh thấy đủ cảnh giới lạ như: gặp Phật, thấy quốc
độ chư Phật, các hào quang Phật v.v… anh liền tự cho là mình đã chứng thánh, đã
khai ngộ… rồi khởi tâm ngã mạn, cống cao, kiêu căng đến cực độ… Phật từng cảnh
báo: “Nếu thấy cảnh lạ không mê đắm, chấp trước thì đó là điều tốt, còn nếu tự
cho chứng Thánh tất lạc vào đường tà!”… Do vậy mà anh bị ma thừa cơ nhập dựa,
xúi làm sai trái, để anh đọa thẳng vào quỷ đạo…
Thân người khó được, Phật pháp khó nghe, đời này
nhờ thiện duyên chín muồi, nên anh còn phúc được mang thân nam tử tướng mạo
khôi ngô, được tiếp xúc Phật pháp… Nhưng nếu anh chẳng biết nắm bắt dịp may
tranh thủ tu hành, lo phá trừ tà kiến, ngã chấp, thì là uổng phí hết duyên
lành!..
Tiểu Quách có vẻ kinh hoảng, hỏi:
– Vậy tôi phải làm sao?
– Khi trở về, anh cần phải đem những kinh Phật
mình từng phỉ báng, cung kính đặt trên Phật đường hoặc nơi khiết tịnh, rồi quỳ
xuống thành tâm sám hối các tội ác (báng Phật báng pháp) đã qua và phát thệ
không tái phạm nữa… xong, anh thành tâm lễ bái sám hối…
Ngày ngày đều phải làm như thế, cho đến khi tâm
anh thực sự thanh tịnh, không còn chút ý niệm phỉ báng. Anh phải xem Kinh Lăng
Nghiêm, học thuộc lòng 50 loại ngũ ấm ma để phân biệt cho rõ, và phải tụng
thuộc chú Lăng Nghiêm, hồi hướng… cầu Phật lực gia trì mình có đủ chánh tri
chánh kiến, tâm Bồ-đề kiên định bất thoái… anh có làm được hay không?
– Làm được, làm được! Tôi biết rồi! Cuối cùng
tôi cũng tìm được phương thuốc nhổ tận gốc căn bịnh bất trị này… Thế thì may
quá! Bịnh tôi có hi vọng khỏi rồi!
Nhìn Tiểu Quách tỏ vẻ ăn năn và mừng rỡ, tôi
thảnh tâm cầu cho anh sớm thành đệ tử chân chánh của Phật, ngày sau đóng góp
một phần công sức hoằng pháp cho Phật giáo.
-Cố gắng nha, Tiểu Quách!…
Giải thích:
Trong kinh niết bàn Phật khai thị: “Ca Diếp,
trên thế gian này có ba loại bịnh nan y mà người ta hay mắc phải: Một: Phỉ báng
kinh đại thừa. Hai: Tạo tội ngũ nghịch. Ba: Nhất xiển đề (đoạn hạt giống Phật).
Đầy là ba loại bịnh cực nặng, chỉ những bậc Thinh văn Duyên giác mới có khả
năng trị”…
Tiểu Quách biết tội của mình, nhưng không thể
khống chế, phải cầu thiện trị thức nhờ giúp đỡ, khi được chỉ bày cho rồi mới
sáng tỏ nhân quả, quyết định nhiếp tâm, sám hối diệt tội…
Đáng sợ nhất chính là những vị thầy xưng “cao
nhân”, tuy mặc áo Phật nhưng lại ở trên đài cao giữa đông thính chúng ngang
nhiên phỉ báng Phật pháp. Bản thân đã không tuân giữ quy củ Phật môn, lại chẳng
dạy đệ tử giữ giới, còn hướng dẫn sai, khiến nhiều người lạc tà… thực đáng
buồn, đáng tiếc biết bao!
Thế nhân nhất định phải thâm nhập kinh tạng, học
kỹ “Bổn Điều Răn Dạy Minh Bạch về Tánh Thanh Tịnh” trong “Kinh Lăng Nghiêm” dể
phân biệt rõ chánh tà, không lạc vào nẻo sai…
15. THIỆN NIỆM VÀ ÁC NIỆM
Thiện niệm ác niệm đều do tâm sinh, vì vạn pháp
do tâm tạo. Chúng ta tu hành cần phải kiểm soát, tu trong từng cử tâm động
niệm, quản lý tâm mình cho tốt, nếu giữ được chánh niệm hiện tiền thường xuyên,
thì tự nhiên y báo sẽ chuyển theo chánh báo, số mệnh tất được cải đổi. Nhà Phật
thường nói: “Khởi một niệm thiện, cung điện nơi thiên đường liền thành, khởi
một niệm ác, hình phạt nơi địa ngục chờ sẵn”. Nếu có thể tiến lên triệt ngộ
nguồn tâm, trụ nơi vô trụ, siêng tu lục độ vạn hạnh, ắt việc giải thoát, thành
đạo… đều có thể thực hiện.
Người học Phật chúng ta, nếu tu đến thời tiết
nhất định, sẽ có mài luyện đủ loại đủ kiểu hiện đến với bạn, lúc ấy cần có tâm
bình hòa, nhẫn nhục tinh tiến, để vượt qua thử thách…
Dưới đây là kinh nghiệm từ cuộc sống cửa tôi, hi
vọng mọi người xem xong được lợi ích.
“Tiểu Vận là thằng em họ kém tôi 7 tuổi, tính
hết sức ngang ngược bướng lì. Dì dượng tôi rất cưng chìu nó.
Hôm đó tôi tới nhà thăm dì dượng, nhưng họ đi
vắng, chỉ còn một minh Tiểu Vận trông nhà. Tôi vừa bước vào nó đã kéo tôi lên
mạng chơi vi tính. Bất đắc dĩ tôi phải chơi cùng nó một lúc. Do tôi ít chơi
game, nên rất mau thua, làm ảnh hưởng xấu đến số điểm, khiến em tức giận chạy
đến xô tôi té xuống đất và trách:
– Sao chị chơi tệ quá vậy?
Nhìn khí thế hung hăng của em, tôi lấy giọng
chị, nghiêm nghị quở:
– Em dám đối với chị dữ dằn thế ư? Bình thường
nể dì dượng nên chị luôn nhịn nhường, hôm nay phải dạy dỗ em mới được!
Thế lả tôi túm lấy nó, đánh vào mông nó một
trận.
Tiểu Vận bị tôi đánh, khóc ầm lên, vừa khóc vừa
chụp đồ đạc quăng ném lung tung… đồng hồ, bàn, ly tách, các món đồ chơi… đều bị
nó làm vỡ hết. Tôi khuyên ngăn vô ích, ngay lúc đó di dượng tôi về. Nhìn thấy
bãi “chiến trường” hỗn độn… dì dượng phật ý, hỏi với giọng đầy trách móc:
– Thế này là sao?
– Chẳng đợi tôi giải thích, Tiểu Vận vừa khóc
vừa gào lên:
– Là chị Hồng làm hết đó! Chỉ vừa đánh con vừa
quăng đồ, không những làm con bị thương mà còn phá hư hết đồ chơi của con! Hu
hu! Ba ơi! Mẹ ơi! Chị thừa lúc hai người đi vắng đã ăn hiếp con như vậy đó, hu
hu!…
Tôi nghe em nói mà ngỡ ngàng, đứng chết trân,
ngạc nhiên tới há hốc mồm, á khẩu… cũng chẳng biết làm sao để giải thích…
Di dượng tôi quá cưng biểu đệ nên tin ngay. Họ
giận dữ mắng tôi:
– Sao con không có lương tâm, cư xử quá tồi như
thế? Con cũng từng ờ đây một thời gian mà, sao lại đối với em ác như vậy? Cải
con nhỏ bụng dạ xấu xa độc địa này, mau cút khỏi đây ngay! Cút mau!…
Tôi muốn giải thích, nhưng dường như chuyện khó
thể vân hồi, đành nhẫn nhịn, nuốt giận quay về.
Về túc xá, tôi khóc to một trận, thầm nghĩ: “Vì
sao dì dượng lại đối với tôi như thế, rõ ràng là Tiểu Vận sai, nhưng họ chẳng
cần phân rõ trắng đen, cứ mắng tôi xối xả, tại sao? Tại sao chứ?… Bồ tát Quan
Thế Âm đại từ đại bi ơi, cầu xin Ngài gia trì, giúp hóa giải mọi hiểu lầm giữa
con và họ”…
Đêm đó, tôi không ngủ. Một tuần trôi qua, tôi
rất muốn đi thăm biểu đệ và hướng dì dượng xin lỗi, vì bình thường họ đối với
tôi rất tốt. Thế là tôi mua quà mang đến nhà họ…
Vừa bước vào nhà, cảnh tượng trước mắt khiến tôi
giật mình ngạc nhiên: dì đang ngồi trên sô-pha bưng mặt khóc, còn dượng ở cạnh
bên thở dài não nuột.
– Dì dượng ơi, có chuyện gì vậy? Tiểu Vận đâu?…
Dì dượng chỉ vào phòng ngủ. Tôi bước tới, vừa
nhìn thấy biểu đệ, thì giật mình thất kinh: Không ngờ Tiểu Vận tuấn tú giờ đã
biến thành kẻ đần độn ngớ ngẩn. Lưỡi em thè ra khỏi miệng quẹo sang bên phải,
nước giãi chảy nhỏ giọt giọt… Còn tay và gò má bên phải cùa em thì không ngừng
co giật.
– Nó bị như vậy đã một tuần rồi! – Dượng bất đắc
dĩ kể cho tôi nghe:
– Con đi rồi thì qua ngày sau, Tiểu Vận đột
nhiên toàn thân co giật, đến bịnh viện khám, bác sĩ nói đây là triệu chứng bại
não, chỉ có thể điều trị từ từ, không có cách tốt hơn…
– Phải làm sao chứ, chúng ta chỉ có mình nó thôi
mà…
Dì tôi ngồi bên nghẹn ngào chen vào nói, hai mắt
đỏ chạch, chứng tỏ dì đã khóc rất nhiều. Tôi tiến đến an ủi:
– Đừng lo, rồi sẽ có cách mà…
Quay về ký túc xá, tôi cảm thấy việc này có liên
quan đến tôi. Mặc dù Tiểu Vận, dì dượng đối với tôi một bề ghét bỏ, dùng toàn
lời ác dành cho… nhưng tôi là người học Phật, cần phải dùng thiện niệm và tâm
từ bi mà đối với họ. Nếu như tôi thành tâm tụng kinh hồi hướng cho Tiểu Vận, có
thể em sẽ dần hồi phục, gia đình sẽ bình an, hài hòa. Thế là tôi bắt đầu tụng
Kinh Kim Cang, hồi hướng công đức cho Tiểu Vận.
Kỳ tích xảy ra, ba ngày sau, di tôi mừng rỡ gọi
điện khoe:
-Từ lúc con đến thăm thì trưa hôm sau bịnh Tiểu
Vận chuyển tốt lên rồi. Miệng và mặt nó hết co giật, có thể ăn cơm bình thường.
Tiểu Vận đã kể hết sự thực cho chúng ta nghe rồi, nó đã làm sai và phải nhận
lỗi trước con! Thật xin lỗi con nhé, hôm ấy dì đã mắng oan con, con hãy tha lôi
cho dì nghe. Tối nay mời con đến ăn cơm nha!
Thế là mọi việc tốt đẹp, an ổn hài hòa. Điều này
làm tôi xúc động sâu sắc. Nếu như mỗi người học Phật đều có đủ trái tim từ bi,
cho dù bị người khác khởi ác niệm với mình, bản thân cũng không nên nổi sân, mà
phải nhờ vào sức mạnh của Phật pháp, sám hối, hồi hướng… Nếu biết dùng thiện
niệm đối đãi với mọi sự, mọi việc, thì nhất định sẽ có hảo báo, thu được kết
quả tốt đẹp không ngờ!
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Nếu người muốn biết, ba
đời tất cả Phật, nên quán tính pháp giới, tất cả do tâm tạo”…
Người học Phật trong lúc gặp nghịch cảnh nghịch
duyên, cần giữ chánh niệm. Nên dùng tâm nhẫn nhục, như như bất động đối với mọi
hoàn cảnh… Làm được vậy mới có cơ hội giải thoát. Kinh Kim Cang nói: “Tất cả
pháp vô ngã, thành tựu nơi nhẫn”…(17)
Nhân đây xin khuyên thế’ nhân, cẩn thận khi nói
năng hành động, phải gìn tâm giữ miệng, chớ nói lời vu khống người, vì thiện ác
nằm trong một niệm, phúc họa như bóng theo hình, nhân quả báo ứng luôn có thật.
Lời người dịch:
Đọc đến đây bạn có thắc mắc không, tại sao có
nhiều người ác khẩu, vu khống, tạo lỗi tương tự hoặc hơn cả Tiểu Vận mà họ đâu
bị gì? Phải giải thích đó là tùy thuộc nhân quả, tùy những uẩn khúc trong cuộc
sống mọi người. Tôi xin tạm giải thích thế này: Nếu xúc phạm kẻ ác, hoặc thường
nhân, không bị báo nặng bằng xúc phạm hiền nhân, thánh nhân…
Hồi mới dịch xong chuyện này, tôi không tin, cho
rằng có vẻ như người kể đang… tự khoe khoang? Nhưng sau đó tôi nghĩ lại: “Quả
Hồng là Phật tử, không nói dối và tu rất miên mật, giữ giới chu đáo… Do vậy mà
lời cầu nguyện cô dễ đạt, và bản thân không những nhận được lực gia trì của
thần hộ giới mà cả đến chư Phật… nên mới chiêu cảm kết quả như trên”.
Đọc trong kinh sử, ta thấy ghi chuyện một vị sư
già thời Phật, tuy đã chứng thánh nhưng mồm cứ nhai đi nhai lại rất khó coi.
Nguyên nhân bắt nguồn từ những kiếp xa xưa, thuở đó ông là một chú tiểu, tình
cờ thấy một vị sư già tụng kinh, ông đã cười nhạo, chê rằng: Sư tụng giống hệt “trâu
nhai cỏ” (không ngờ vị sư này đã chứng A-la-hán) do lỗi xúc phạm thánh nhân mà
Sa-di đó 500 đời miệng thường nhóp nhép giống trâu nhai cỏ, cho đến kiếp cuối
cùng này dù đã chứng A-la-hán rồi, vẫn còn phải tiếp tục trả báo xưa…
Ngoài tác động luật nhân quả, (mắng người bị
người mắng, hại người bị hại lại)… Thì việc vô cớ vu oan, đổ tội cho hiền nhân
(hay một người chỉ giữ ngũ giới nghiêm nhặt thôi), cũng khiến đương sự có thể
chiêu vời báo ứng xấu cho mình, giống như câu chuyện Quả Hồng vừa kể, (là một
chứng minh)… vì vậy Phật thường khuyên ta cẩn ngôn và luôn nhắc: “Họa nằm nơi
đầu lưỡi…”
16. TRONG CHẾT ĐƯỢC SỐNG
Người ta thông thường chỉ khi nào lâm vào bước
đường cùng, mới khởi ý đến với Phật pháp, cầu gia hộ… Lúc đó nếu cỏ duyên lành
gặp được thiện tri thức hướng dẫn, hành đúng pháp sám hối, chí thành học Phật,
thi có thể chuyển nguy thành an, sống lại từ chỗ chết.
Nhưng trước bao quả báo khổ não phải thọ nhận,
có bao nhiêu người sở hữu được may mắn này? Vì vậy chúng ta phải luôn nhớ vô
thường, nghe liền tin thọ, phải biết trân quý bội phần những ưu khuyết từ kiếp
người, sống nên thuận theo dòng thiện, sửa đổi lỗi xưa, ăn chay trì giới, hiểu
rõ nhân quả, dứt ác theo lành, phá bỏ vô minh chồng chất, giữ chánh tri kiến…
mới có thể tránh được tai nạn họa ương trùng trùng.
Có nữ sĩ họ Lưu, tuy tin Phật nhiều năm nhưng do
gia đình phản đối nên mãi vẫn chưa ăn chay, tín tâm học Phật cũng không kiên
định. Cuối năm 2007 Lưu cư sĩ khám bịnh, bất ngờ phát hiện ruột bị ung bướu,
sau khi tái khám, bác sĩ bảo:
– Cô về nhà nghỉ dưỡng, ưa món gì thì cứ ăn!
Bịnh này mạng sống chỉ còn tính từng ngày!
Lưu cư sĩ hoàn toàn bất ngờ, bình thường cô
không nghĩ là bịnh này nặng đến vậy, giờ xem như đã bất trị, là thời kỳ cuối.
Vô thường đến nhanh quá, khiến cô trở tay không kịp, nên tâm phát sinh chán
nản, tuyệt vọng đầy…
Lúc này cô nhớ lại, mấy hôm trước, dì và vài bạn
đạo đến thâm, đã nhiều lần khuyên cô nên ăn chay, niệm Phật, tụng kinh… cho
tốt.
Thế là cô âm thầm hạ quyết tâm, phải trì giới ăn
chay, chấm dứt không tạo sát nghiệp. Cô sẽ chân chánh tu học Phật pháp, cầu
Phật lực gia trì, giúp cô ra khỏi tuyệt lộ…về nhà rồi, Lưu cư sĩ kể rõ bịnh
trạng nghiêm trọng của mình cho mọi người hay và kiên quyết nói:
- Tôi khổng còn sống bao lâu nữa, trước đây tôi
đã tạo nghiệp sát quá nặng, bắt đầu từ hôm nay trở đi, tôi nhất quyết ăn chay
tu học, xin mọi người ủng hộ cho…
Chồng và các con cô thuở giờ luôn phản đối không
cho cô ăn chay, lúc này đành im lặng chìu theo…
Mặc dù cô mới bắt đầu ăn chay, tập tu, nhưng nỗi
sợ cái chết và bịnh hoạn đau đớn dày vò, khiến cô nhiều lần thối tâm, tinh thần
nằm bên bờ vực suy sụp…
Đang lúc cô hành trì hết sức khó khăn, thì dì và
các bạn đạo liền đưa tay ra giúp, họ dẫn cô đi phóng sinh và đồng tụng kỉnh hồi
hướng hỗ trợ… Cầu Phật Bồ-tát gia hộ cô sớm mạnh lành hồi phục. Đồng thời còn
khuyên cô nên tụng kinh “Nhất Thiết Như Lai Tâm Bí Mật Toàn Thân Xá-lợi Bảo
Kiếp Ấn Đà-la-ni” để giúp cho tín tâm và đạo tâm kiên định, chiến thắng
được quỷ bịnh.
Một tháng sau, khi đến bịnh viện kiểm tra, thấy
bịnh cô đã ổn định và chuyển tốt. Điều này khiến cô tăng thêm niềm tin. Chồng
con khi hay bịnh cô đỡ nhiều rồi, cũng vui mừng, xúm nhau ăn chay theo.
Những ngày tháng sau đó, Lưu cư sĩ phát nguyện
tinh tấn tu học, làm một đệ tử Phật đúng nghĩa. Hằng ngày cô tụng kinh “Nhất
Thiết Như Lai Tâm Bí Mật Toàn Thân Xá-lợi Bảo Kiếp Ấn Đà-la-ni” 108 biến. Cô
chí thành quỳ trước Phật tụng kinh, tĩnh tọa… chuyên chú miên mật…
Lúc này phiền não cũng theo đó rụng rơi, đúng
như trong kinh nói: “Nếu có chúng sinh, tội nặng bị báo ứng: trăm bịnh kéo đến,
thống khổ bức thân, tụng chú này 21 biến, ách bịnh khổ não, nhất thời tiêu tan,
thọ mệnh kéo dài, phúc đức vô tận…”
Lưu cư sĩ tinh tấn tu học như thế ba tháng, sau
đó đến y viện tái khám, kỳ tích đã xuất hiện: ruột không còn ung bướu, bịnh
khỏi hẳn triệt để!
Nhờ theo pháp chân chánh, học Phật thực hành, đã
giúp Lưu cư sĩ sống lại từ cửa tử, không những bản thân cô thọ sâu pháp ích, mà
còn khiến toàn gia cảm động, cùng bước vào con đường tu tập ăn chay theo luôn.
Giải thích thêm: Lưu cư sĩ bị ung bướu
thời kỳ cuối, vì sao chỉ ba tháng được lành? Là do các nguyên nhân sau đây:
1.
Nhờ cô sửa đổi tu 3 đều thiện: Ăn chay trường – Phóng sinh – Tụng
kinh.
2.
Phát nguyện làm lợi chúng sinh, nguyện này cùng nguyện chư Phật
tương đồng.
3.
Hằng ngày thành tâm tụng chú “Nhất thiết Như Lai tâm…” 108 biến, lực
gia trì của chú này mạnh không thể nghĩ lường.
Trong kinh nói: “Chí tâm phát nguyện, tụng niệm
thần chú, mỗi chữ mỗi câu, phóng đại quang minh chiếu đến tam đồ, khổ đều tiêu
tan. Chúng sinh thoát khổ, mẩm Phật phát sinh, tùy ý vãng sinh mười phương tịnh
độ”… Người người nếu y theo ba điều này tu, thảy đều có thể chuyển hóa định
nghiệp va nghịch cảnh.
17. HOÀNG ĐÌNH
Hoàng Đỉnh là một cô bé có số mệnh bi thảm, ngay
lúc cô vừa hiểu chuyện thì ba mẹ đã li dị, cô sống chung với phụ thân và kế
mẫu, bà dì ghẻ này rất nóng nảy hung dữ, động một tí là quát tháo, đánh chửi,
khiến tâm tư bé bỏng của Hoàng Đình luôn phủ đầy mây đen. Bởi vô phương hứng
nhận cuộc sống như vậy, nên cô bé trốn khỏi gia đình phụ thân, đến sống chung
với mẹ ruột. Mẹ cô chuyên bán thức ăn nhanh: là món gà rán, vịt quay (tạo
nghiệp sát sinh rất nặng). Chính điều này dẫn đến tai họa về sau.
Mấy năm đầu, tiệm họ buôn bán rất phát. Kiếm
được nhiều tiền, lúc đó hai mẹ con sống rất sung túc. Rồi từ lúc giải phóng,
cải cách phát triển, hai mẹ con bèn dời nhà đến Thanh Đảo, công tác ở xí nghiệp
Đài Tư.
Trong lúc làm việc tại Thanh Đảo, đối với Hoàng
Đình thì thời gian này chính là hưởng thụ. Nhưng “hưởng phúc thì tiêu
phúc” có phúc báu mà không biết hành thiện tích phúc tạo lợi ích chân
chính cho mình và người, cứ ngồi yên toại hưởng thì phúc đó hết rất nhanh.
Hoàng Đình làm việc mỗi ngày hai tiếng, thời
gian rảnh còn lại thì phụ chủ uống trà hầu khách, tán gẫu, ăn cao lương hải
sản, hát karaoke, khiêu vũ… nếp sinh hoạt ở quán bar rực rỡ ánh đèn đã khiến
nội tâm cô bị kích động mạnh, nảy ý thèm kiếm được một người đàn ông cỏ thể chu
cấp cho cô cuộc sống hưởng thụ vật chất đủ đầy.
Trong đám khách lui tới, Hoàng Đình quen một
thanh niên tên Lý Hạo, anh ta kể mình xuất thân từ một gia đinh thượng lưu, ăn
nói cư xử rất có phong độ, dần dần đã chinh phục được trái tim cô gái 21 tuổi.
Từ đó hai người giao tình càng mật thiết. Chưa đầy nửa năm, Lý Hạo đã bộc lộ
bản chất mê bài bạc, hắn đem toàn bộ tiền của đặt hết vào cá độ, có lúc phải
hướng gia nhân vay tiền, hoặc mượn cô gái Hoàng Đình chất phác.
Ngày nọ Lý Hạo gọi điện vay tiền, mới đầu Hoàng
Đình tha thiết khuyên hắn nên bỏ bài bạc. Nhưng Lý Hạo cố thuyết phục cô gái
ngây thơ:
- Anh sẽ sửa, anh hứa mà… Em hãy cho anh vay một
lần cuối đi, có được không?
Hoàng Đình hiền lành mềm lòng, đem số tiền dành
dụm nửa năm của mình vào túc xá.
Tại nhà trọ, Lý Hạo đang ngồi uống rượu giải sầu
thấy nàng tới, hắn mừng phát điên, trong cơn say hắn kéo tay nàng, Hoàng Đình
thấy vậy vội đưa tiền ra, vốn nàng định khuyên hắn nên sớm hồi tâm chuyển ý
hoán cải, nào ngờ Lý Hạo trong cơn nhậu say, thú tính bộc phát, đã làm Hoàng Đình
mất đi sự trong trắng.
Hoàng Đình chia tay Lý Hạo được một tháng thì phát
hiện mình mang thai, vì muốn giấu mẹ và bạn bè, nàng lấy cớ về quê thăm thân
nhân. Bị sức ép kinh tế và nỗi lo dư luận xã hội, nàng quyết định phá thai.
Việc này rất đau đớn, nàng ráng nhẫn chịu cơn
thống khổ kịch liệt, bị dày vò hành hạ ngót mấy tiếng dài đăng đẳng… “Họa phúc
không cửa, chỉ có người tự chiêu; báo ứng thiện ác, như bóng theo hình”.
Phá thai được ba ngày, thì Hoàng Đỉnh nhận được
hung tin: mẹ nàng bị xe đụng, đầu bị thương nghiêm trọng, máu chảy không ngừng,
mạng sống lâm nguy trong sớm chiều. Đối với Hoàng Đình yếu đuối thì đây quả là
khổ chồng khổ… Nhờ có bạn bè phụ giúp đưa mẹ nàng vào viện. Nhưng bác sĩ nói:
– Người này khó sống nổi nữa, thân quyển hãy về
lo hậu sự đi!…
Nghe tin mẹ bị nạn, Hoàng Đình vội vào bịnh
viện, lúc này mẹ nàng mổ đã hơn năm tiếng, thời khắc đó nàng khóc chẳng thành
lời, buồn rầu không nguôi, chì biết tự trách, nói thầm: “Mẹ ơi đừng chết… bởi
con tạo ác nghiệp nên mẹ mới gặp nạn… con xin lỗi mẹ, hu hu.. Tôi phải làm sao,
làm sao đây?”…
Đột nhiên nàng nghe người bạn nói nhỏ vào tai
mình: – Hãy ráng niệm Phật A Di Đà thật nhiều, vì đại nguyện lực của Ngài vĩ
đại vô cùng!
Phải rồi! Niệm Phật! Hoàng Đình không màng đến
thể diện nữa, nàng quỳ xuống trước phòng mổ, chắp tay chí thành niệm lớn: Nam
mô A Di Đà Phật! Cầu Phật gia hộ cứu mẫu thân…
Những người bịnh và bác sĩ lại qua đều ném cho
nàng tia nhìn kỳ quái. Mặc mọi người chỉ trỏ bàn tán… với nàng chẳng ăn nhằm
gì, bởi thời khắc đó trong tâm nàng chỉ có Phật A Di Đà, nàng hoàn toàn dốc hết
tâm ý niệm Phật, cầu cho mẹ minh… vì đây chính là hi vọng duy nhất.
Trong Kinh Địa Tạng có nói: “Nếu có người lâm
chung, thân thuộc trong nhà dù một người, vì bịnh nhân cao tiếng niệm Phật, thì
người sắp chết đó, trừ tội ngũ vô gián ra, các nghiệp khác đều có thề tiêu”…
Công đức niệm danh Phật không thề nghĩ tường,
Phật pháp quả chân thực không dối, ngay chính bác sĩ cũng không bảo đảm mẹ nàng
sống, nhưng kỳ lạ thay, bà đã sống lại…
Trải qua tai nạn này rồi, hai mẹ con cùng hước
vào con đường học Phật, siêng năng nghe giảng pháp, kiên trì ăn chay, phóng sinh,
thường phát tâm sám hối tội sát sinh đã qua…
Nhờ cả hai nỗ lực tinh tấn tu, nên mẹ Hoàng Đình
hồi phục rất nhanh. Kết quả tốt đẹp vượt ngoài sức tưởng. Hai tháng sau, mẹ
Hoàng Đình đã có thể tự làm mọi chuyện và sinh hoạt khỏe mạnh như người bình
thường.
Thấy mẹ chuyển nguy thành an, Hoàng Đình càng
kiên trì tu, tăng thêm tín tâm, nàng lợi dụng thời gian rảnh, tận lực giúp đỡ
người chung quanh và đem kinh nghiệm mình từng trải qua, kể cho người nghe,
khuyên họ thâm tín nhân quả, sớm cải ác theo thiện… Nàng đã giúp cho nhiều gia
đình đến với đạo, nghe giảng và hành theo Phật pháp, được ly khổ đắc lạc.
17. GẶP HUNG HÓA CÁT
Trong Kinh Phổ Môn từng thuyết: “Nếu có vô lượng
trăm ngàn vạn ức chúng sinh, bị nhiều khổ não, nghe danh Bồ-tát Quan Thế Âm
nhất tâm xung niệm, tức thời Ngài sẽ nương theo âm thanh đó, giải cứu cho”.
Một ngày hạ tuần tháng 7 năm 1998, đúng vào thời
khắc bão đang đổ bộ lên bờ, thì mười giờ tối đêm đó, tôi phải đến đơn vị trực
ban. Vì vậy tôi mặc áo mưa, chạy xe ra khỏi cổng. Theo thường lệ, trước khi đi,
hễ vừa ra khỏi nhà là tôi luôn niệm: “Nam mô Quan Thế Âm Bồ-tát”.
Lúc này ngoài trời cuồng phong đang gào thét,
mưa thịnh nộ trút xuống tạt vào mặt tôi, trên đường không một bóng người, cũng
chẳng thay có chiếc xe nào. Tôi cứ niệm Phật và chạy chầm chậm trong cơn mưa
bão, mọi việc đều bình thường.
Nhưng khi xe tôi chạy đến gần một ngã tư, sắp
quẹo sang phải… thì tim tôi bỗng đập rất nhanh, gây bức rức khó thở đến nỗi
việc hô hấp bình thường cũng hóa thành khó khăn… cảm giác này khiến tôi vô cùng
lo lắng: Bởi thuở giờ tôi chưa từng mắc bịnh tim, gần đây cũng vừa mới khám sức
khỏe, kết quả đều tốt cả. Nhưng… tại sao ngay giây phút này tim tôi bỗng trở
nên không khỏe, khó thở đến vậy? Thế là tôi bắt buộc phải dừng lại nghỉ dưỡng
cho nhịp tim bình ổn lại. Nhưng, khi tôi vừa ngừng xe… thật kỳ lạ, cơn đau lập
tức biến mất không còn dấu vết, sức khỏe tôi hồi phục lại bình thường…
Lúc này bỗng có một chiếc xe vận tải xuất hiện
trước mặt tôi với “tốc độ siêu kinh khủng”, nó phóng – không! – phải nói là nó
“bay” qua đầu xe tôi… (cách tôi chưa đầy một thước), bởi anh tài xế lái quá
nhanh, quá ẩu, hoàn toàn không thèm quan sát trên đường đang có ai.
Màn “xe bay” kinh hoàng của anh ta khiến tôi
chợt hiểu: nếu như tim tôi không bị hành đau đến nghẹt thờ, bắt buộc tôi phải
dừng lại nghĩ… thì tôi sẽ điềm nhiên chạy thẳng tới trước, và nhất định sẽ bị
chiếc xe kia tông thẳng vào, hậu quả thê thảm quả khó mà lường được! Có nghĩa
là, nếu không nhờ Phật lực gia trì, thì ắt tôi đã tan xác dưới bánh xe vận tải
nọ.
Tôi thật cảm ân Bồ-tát Quan Thế Âm đại từ đại bi
vạn phần. Qua việc này tôi càng tăng thêm tín tâm siêng năng niệm danh Ngài
miên mật và rất tin vào nguyện lực đại từ đại bi của Bồ-tát Quan Thế Âm.
19.
THIỆN THẦN HỘ TRÌ NGƯỜI TRÌ GIỚI
Trong xã hội hôm nay, các thiên tai nhân họa
như: địa chấn, sóng thần, thủy-hỏa tai, ôn dịch, chiến tranh, đụng xe… luôn
phát sinh chúng ta phải làm sao để viễn ly tai nạn? Trong “Kinh Quán
Đỉnh” Phật giảng: Nếu như chúng ta qui y Tam-bảo thì sẽ có 36 vị hộ pháp
thần vương bảo vệ. Người thọ trì ngũ giới thì mỗi giới có năm vị hộ pháp thần
vương bảo vệ, tổng cộng có 25 vị thần. Những thần vương này lại có hằng hà sa
số quyến thuộc, thảy đều ủng hộ người tu. Trong “Phật Thuyết Tứ Thiên Vương
Kinh” cũng ghi giống vậy.
Dì Trần là một Phật tử thuần thành, năm nay 72
tuổi, mặt hồng hào, sáng rỡ, tinh thần sung mãn, ai gặp cũng khen dì vừa trẻ
vừa xinh. Chẳng thể nào đoán ra đó là bà già hơn 70.
Nhưng khoảng 10 năm trước, tinh thần dì Trần
khác xa hiện giờ. Lúc đó dì là một người toàn thân đau đớn, mắc nhiều bịnh nội
tạng, quanh năm phải uống thuốc vì chứng bịnh già suy.
Mỗi lần đến bịnh viện, dì rất lo, sợ khi
kiểm tra sẽ phát hiện thêm bịnh mới nữa, nội tâm luôn sợ chết, ngày nào
cũng sống trong thấp thỏm lo âu, cho đến một ngày kia, dì đi chùa lễ Phật,
thỉnh một cuốn “Báo ứng Hiện Đời”, về nhà xem xong, dì hoát nhiên đại ngộ: té
ra trên đời còn có Phật pháp là thuốc hay chữa lành bao chứng bệnh. Không những
khéo chữa trị thân tâm mà còn làm lợi ích cho chúng sinh.
Từ đó, dì Trần bắt đầu học Phật, ăn chay, sám
hối nghiệp chướng, lúc thúc tụng niệm, lễ bái, in kinh, phóng sinh… Hành trình
như vậy nhiều năm, thân thể dì ngày càng khỏe lại. Dì tu theo pháp Phật đến năm
thứ hai thì xảy ra một việc không thể ngờ.
Chiều đó dì cùng cháu gái tản bộ nơi công viên.
Vừa đi đến khúc quanh thì từ phía sau thình lình xuất hiện một người chạy xe
đạp… tông thẳng vào dì Trần. Kỳ quái là xe tông vào dì rồi thì nó dội ngược,
bắn thật mạnh ra xa ngót mười mét rồi “ầm” một tiếng, cả xe lẫn người gây tai
nạn rơi thẳng xuống cái hồ đối diện ở phía bên trái…
Lúc này đứa cháu gái hoảng hốt, vội hỏi:
– Ôi chao! Dì có sao không, bị đụng mạnh quá mà?
– Không, không sao hết! – Di Trần mỉm cười đáp.
– Có lý nào như vậy? Con thấy rõ xe tông
dì mạnh tới nó bật ngược ra văng thẳng xuống hồ kia mà!?… Để con đưa dì
đến bịnh viện kiểm tra!
– Không sao! Chẳng cần làm như vậy!…
Đương lúc hai dì cháu đang nói thì người chạy xe
té xuống hồ đã bò được lên bờ, y nộ khí xung thiên lao tới… dù còn ở đằng xa, y
đã hấp tấp chỉ vào dì Trần quát:
– Cái con mụ già khụ này, dám tông xe của… “bố”
mày á?
– Ối trời ơi! Ông này đúng là ăn nói ngang
ngược! Rõ ràng ông tông dì tôi xong thì “bay” thẳng xuống hồ, ở đây ai cũng
thấy hết!…
Đám đông bu quanh cũng nhao nhao lên tiếng trách
mắng người đạp xe, ông ta bị la đến cứng họng hết nói, đành xẻn lẻn bỏ đi tới
hồ lôi cái xe lên…
Mọi người vội khuyên dì Trần:
– Dì phải đi bịnh viện khám ngay, chúng tôi thấy
xe tông vào dì rất mạnh, khám chút cho an tâm, đề phòng rủi ro…
Thế là dì Trần đến bịnh viện kiểm tra, kết quả:
ngoại trừ vùng lưng bị chút thương tích ra, còn lại đều bình thường, không có
bất kỳ vấn đề gì. Do vậy người cháu ở cạnh bên cảm thấy rất lạ.
Sau đó dì Trần thuật lại cho tôi nghe:
– Trong khoảnh khắc bị xe đạp tông, dì có cảm
giác như sau lưng minh vừa có tấm sắt chắn ngang bảo vệ, nhờ vậy nên không bị
đau, mà cũng không kịp biết việc gì vừa xảy ra…
Tôi bảo:
– Nhờ dì trì giới nghiêm nhặt, lại tinh tiến tu
theo pháp Phật cho nên được Bồ-tát “Vi Đà Hộ Pháp” đến giúp dì hóa giải tai
nạn, đã hiện ra tấm sắt cản xe đạp lại, tránh cho dì không bị thương đó…
Uy lực Phật pháp quả không thể nghĩ tưởng, người
trì giới chuẩn mực trong lúc nguy ách sẽ được báo nặng lãnh nhẹ, gặp dữ hóa
lành.
Vì sao có người tinh tấn tu học Phật mà vẫn bị
tai nạn? Đó là vì trước khi chưa học Phật, đời này kiếp này họ đã tạo các ác
nghiệp sát, trộm, dâm v.v… thậm chí những ác nghiệp tạo từ vô thỉ kiếp đến nay
đã chín muồi, nên quả báo hiện tiền…
Một khi tu học theo Phật rồi, nếu biết nhất tâm
sám hối, bỏ ác theo thiện, vĩnh viễn không phạm lại nữa… Nếu lấy trì giới làm
gốc, tinh tấn tu, liền có thể hoá giải tai nạn hoặc tội nặng trả nhẹ… khi lãnh
quả báo hay tai ương, phải hiểu là mình đang giải túc nghiệp quá khứ. Trong
Kinh Kim Cang có câu: “Những thiện nam tín nữ trì tụng kinh này, nếu bị người
khinh rẻ, là do tội nghiệp đời trước của họ đáng phải đọa ác đạo, nhờ đời nay
bị khinh chê nên tội nghiệp đời trước ắt được tiêu diệt”…
20. BỊNH CỦA BA TÔI
Phật tử chúng ta thường hay tụng chú (là ngữ
ngôn văn tự của Phật Bồ-tát phát xuất từ trong thiền định). Trước khi Phật pháp
truyền sang Hán, đất Hán cũng có một số chú thế gian, tuy cứu cánh không tuyệt
hảo nhưng vẫn có thể hiển linh giải trừ tai nạn, so với Phật chú cũng có
chỗ thẩn kỳ hiệu nghiệm giống nhau. Chú gọi là Đà-la-ni, dịch sang Hán ngữ có
nghĩa “tổng trì” (là giữ gìn thiện pháp không cho tán thất và ngăn ác pháp
không cho khởi). Chú còn gọi là Mật ngữ, vì Phạm thiên và Nhị thừa không hiểu
được. Chú còn gọi là Chân ngôn, hàm ý: Như Lai thuyết lời chân thật không dối.
Một số chú là do Phật phóng quang, trong hào quang thuyết ra nên gọi là “Minh”.
Uy thần công đức chú Phật không thể nghĩ bàn.
Trong Kinh Lăng Nghiêm Phật nói:
– A-nan! Đây là câu văn bí mật vi diệu xuất sinh
từ hào quang Phật đảnh tụ hội của mười phương chư Phật. Mười phương Như Lai nhờ
chú này mà đắc thành vô thượng chánh biến trí, hàng hữu học các ông chưa hết
luân hồi, phát tâm chí thành, đạt được A-la-hán… Không trì chú này mà tọa đạo
tràng khiến thân tâm xa lìa ma sự (thì không có diều đó)…
Trong kinh “Thất Câu Chị Phật Mầu Sở Thuyết
Chuẩn Đề Đà La Ni” cũng nói: “Nếu có người xuất gia, tại gia nào hành trì chân
ngôn, tụng chú này đủ chín mươi vạn biển, thì vô lượng kiếp tạo thập ác, những
tội tứ trọng, ngũ vô gián… thảy đều tiêu diệt, sinh ra thường được gặp chư Phật
Bồ-tát, tài bào phong nhiêu, thường được xuất gia”. Trong kinh Đại Bi Tâm
Đà-la-ni nói:
“Lúc tụng chú, mười phương chư Phật đều đến
chứng minh, tất cả tội chướng đều tiêu diệt, tất cà tội thập ác ngũ nghịch, phá
trai phạm giới, phá tháp hoại tự, trộm vật chúng tăng, làm ô nhiễm hạnh thanh
tịnh… tất cả trọng tội, ác nghiệp như thế thảy đều tiêu diệt. Chỉ trừ một việc,
nơi chú sinh nghi, thậm chí tội nhỏ nghiệp nhẹ cũng không được diệt, huống là
trọng tội. Tuy chẳng diệt trọng tội ngay, vẫn có thể trồng nhân Bồ-đề về sau…
Tôi ban sơ liễu ngộ sức mạnh và uy thần công đức
Phật chú bắt đầu từ bịnh của phụ thân:
Ba tôi đau bao tử nhiều năm, tùy theo tuổi tác
tăng, bao tử ngày càng đau nặng. Hôm đó, khí trời lạnh buốt, ba tôi ăn sáng
xong thì lái xe đi làm. Đến trưa thì cảm giác bao tử nóng, muốn nôn, ông mới
“ụa” một tiếng, máu tươi tuôn ra giống như núi lửa phun trào vậy.
Đồng nghiệp chung quanh sợ điếng hồn, không biết
làm sao, một người nhanh trí đỡ ba tôi dậy cho nằm nghỉ trên ghế xô-pha, rồi
gọi điện báo cho tôi hay.
Nhận được tin, tồi nhanh chóng đưa ba vào bịnh
viện cấp cứu, do vội vảng nên tôi chỉ mang theo bên mình cuốn sách nhỏ có chú
Lăng Nghiêm, chú Đại Bi, Thập Chú.
Lúc đến bịnh viện, ba tôi nằm trong phòng cấp
cứu, mặt trắng bệch, không ngừng thổ huyết. Mẹ tôi ngồi bên cạnh lo lắng, chẳng
biết làm sao, bà bật khóc…
Trong phòng cấp cứu, nhìn giống như địa ngục
nhân gian, tiếng rên rĩ, khóc lóc, kêu la vang dội không ngừng, có đủ loại bịnh
tụ hội ở đây. Tôi đi liên lạc sắp xếp, đưa ba vào một phòng tương đối yên tĩnh.
Bác sĩ đến kiểm tra phòng nói:
– Người này thổ huyết quá nhiều, nếu như không
khống chế được thì hậu quả xấu khó lường! Tối nay thân nhân nhớ chú ý quan sát,
hễ thấy thổ huyết nữa, thi phải lập tức cho truyền máu…
Nghe bác sĩ nói, khó khăn lắm ba tồi mới đưa
được tay lên khoát khoát, tỏ ý ông không muốn truyền máu, tôi vội trả lời bác
sĩ:
– Vâng vâng! Chúng tôi sẽ theo dõi, có gi thì sẽ
liên hệ với bác sĩ…
Đêm đó, tôi không sao chợp mắt được, vì rất lo
cho bịnh của ba. Tôi đem hết lòng thành cầm cuốn sách chú lên bắt đầu tụng.
Nói ra xấu hổ, đây là lần đầu tôi tụng chú một
mình, trước đây chỉ nghe tụng chú trên đĩa. Cho dù có lúc phát âm không chuẩn,
nhưng tôi tin thành tâm ắt có cảm ứng, Phật lực nhất định sẽ gia hộ cho ba.
Cũng không biết tụng đã bao nhiêu biến, tôi cứ đọc mãi cho đến khi tôi và phụ
thân cảm thấy toàn thân ấm áp thư thái, bầu khống khí an lành bao phủ khắp
phòng.
Sáng hôm sau, cha tôi phải làm thiết phiến kiểm
tra bao tử, tôi thầm niệm danh Bồ-tát Quan Thế Âm, hi vọng kỳ tích phát sinh.
Uy lực chư Phật quả không thể nghĩ tưởng, trong quá trình kiểm tra, các bác sĩ
đều há miệng ngạc nhiên, họ cho rằng bịnh này rất nghiêm trọng, khó mà tin là
có thể hồi phục nhanh chóng như vậy. vết thương cũng đã lành, xem như khả năng
bị ung bướu được loại trừ. Một tuần sau, ba tôi tái khám, bác sĩ đưa kết quả:
là chứng bịnh viêm lở bao tử…
Trong thời gian phụ thân nhập viện tôi tụng thầm
7 bộ Địa Tạng và phóng sinh hồi hướng cho ông. Hơn tuần sau thì cha tôi hồi
phục, xuất viện.
Việc náy càng khiến tôi tăng thêm tín tâm, kiên
định học Phật và tin vào sức mạnh không thể nghĩ lường của chú Phật. Tôi phát
nguyện dùng hết sức mình làm lợi ích chúng sinh, giúp nhiều người biết đến Phật
pháp, sớm lìa khổ được vui.
Giải thích thêm: Các chú Phật đều có công
đức và sức mạnh không thể nghĩ tưởng, chỉ cần không khởi niệm hoài nghi với
chú, dùng tâm từ bi, bình đẳng, Bồ-đề, tâm cung kính, tâm làm lợi ích cho tất
cả chúng sinh, tâm như như bất động, tâm tỉnh táo sáng suốt, tâm thanh tịnh vô
nhiễm… mà trì chú, chắc chắn sẽ đem lại lợi ích cho chúng sinh, hóa giải oán
cừu, chuyển ác duyên thành thiện duyên, được đại tự tại.
Đại sư Ấn Quang nói: “Tụng chú quý ở thành tâm,
cho dù không biết nghĩa, nhưng nếu tinh tấn dốc hết lòng thành, cung kính trì
tụng, lâu dần nghiệp tiêu trí sáng, có thể đạt được Phật ý”. Chúng ta hãy y
giáo phụng hành.
21. KHÔNG NÊN HAM CẦU THẦN THÔNG
Reng…reng...reng! Tiếng chuông điện thoại dồn
dập vang lên, âm thanh cậu Du (vị cư sĩ trẻ tuổi) có vẻ khẩn trương, hỏi:
– Em hiện tại ngồi thiền tụng kinh, mấy ngày nay
suốt 24 giờ bên tai luôn nghe tiếng nói xưng tên họ, hơn nữa còn biết chuyện
xảy ra trong tương lai, không ngừng mách với em…
– Ngàn vạn lần bạn không nên chấp vô đó, đừng có
ham nghe âm thanh này, bạn cần đọc kỹ “Năm Mươi Loại Ngũ ấm Ma trong Kinh Lăng
Nghiêm” mà Phật miêu tả; hơn nữa cần có định lực, chánh niệm, chánh tri, chánh
kiến. Đừng quên trong Kinh Kim Cang từng nói: “Nếu dùng sắc thấy ta, dùng âm
thanh cầu ta, người ấy hành đạo tà, không thể thấy Như Lai”. Lúc tĩnh tọa nếu
thấy cảnh lạ, gặp đủ cảnh giới thì chớ nên tham đắm mê luyến, phải giữ tâm bình
thản như như bất động, không để cho Năm Mươi Loại Ngũ ấm Ma thừa cơ nhập vào…
– Em biết rồi…
Được một tháng sau, lúc 2 giờ khuya, điện thoại
lại dồn dập reo vang:
– Chị Quả Hồng, em là Du đây, chị cứu em với! Có
nhiều âm thanh liên tục quấy nhiễu, em sợ lắm, e khó sống đến ngày mai…
Nghe cậu ta nói thế, tôi hiểu ngay: bởi do quá
mê cầu thần thông, Du cư sĩ đã đi lạc. Vì tình hình khẩn cấp, qua điện thoại
tôi hướng dẫn cậu tụng từng chữ từng câu chú Lăng Nghiêm và chú Đại Bi để giúp
cho tâm an định lại trước đã.
Sáng ra, tôi rủ các pháp hữu chánh tri chánh
kiến, đến thăm cậu Du. Trong lúc mọi người hiệp lực trợ giúp, cậu Du tạm có
chuyển biến tốt. Du cư sĩ mặc dù ăn chay, tĩnh tọa, tụng kinh, trì chú… nhưng
lòng hay chấp trước, rất hẹp hòi.
Sau khi bước vào đường học Phật rồi tuy thói
quen tự thỏa dục cậu đã khổng chế, nhưng khởi tâm động niệm thường không thanh
tịnh, hơn nữa lại chưa chân chánh sinh tâm đại sám hối phát thệ sửa lỗi, đổi mới
bản thân. Đã không có thực tu thực chứng, hành sự toàn là tư lợi, không biết tu
sửa tâm tánh mà chỉ biết chấp trước vào hình tướng, lại quá ham mê thần thông,
nên cậu dễ lạc vào tà kiến, ngũ ấm ma mới thừa cơ chen vào.
Tu hành chiêu vời quỷ ma, thường là do khơi tâm
ham cầu thần thông, ham cảm ứng, ham khai ngộ v.v…
Thế nên người tu hành học Phật, trước cần nhận
rõ đường đi, phải có đủ tri kiến chơn chánh. Đầu tiên phải có trí tuệ, minh tâm
kiến tánh. Khi thật sự kiến tánh rồi, nhờ khéo nhận biết được “chủ nhân ông”
thì dù có gặp cảnh lạ cũng chẳng mê, khó bị ma quấy nhiễu. Thứ nữa, cho dù
không dụng công tu từ căn bản, thì cũng phải hiểu rõ gì là “học Phật, tu hành”.
Mặc dù hằng ngày học Phật tu hành thì mục đích
chính lả: phải hiểu rõ nghĩa lý trong kinh. Khai mở trí huệ rồi, thì chiếu theo
những gì trong kinh thuyết giảng mà hành trì, đồng thời phải luôn bồi dưỡng
định lực khiến tâm thanh tịnh (giống như dùi cây tạo lửa, luyện binh để ra
chiến trường vậy).
Nhờ tụng kinh, tĩnh tọa mà định huệ phát lực. Còn
phải áp dụng Phật pháp vào trong sinh hoạt thường nhật. Nếu khéo vận dụng sức
định huệ để tu, sửa đổi các thói quen xấu, không ích kỷ tham lam tư lợi, lo
trau giồi đức hạnh để ngày càng đạt đến cành giới cao tột như chư Phật Bồ-tát.
chuyển tâm phàm thành tâm Phật, chỗ chỗ đều lảm lợi chúng sinh, được vậy mới
gọi là “chân chánh học Phật”.
Trong Kinh Lăng Nghiêm gọi ngũ ấm, (còn có tên
“ngũ uẩn”) tức là: sắc, thọ, tưởng, hành, thức, mỗi thứ có mười loại ma, hợp
lại thành “Năm Mươi Ngũ ấm Ma”. Kinh Lăng Nghiêm nói: – Phá rối hay thành tựu là
do “ngũ ấm” trong tâm ngươi – Chủ nhân nếu mê, thì khách được thể tung hoành…
Từ đây mà suy thì Phật tính vốn có sẵn của chúng ta và ngũ ấm ma là mối quan hệ
“chủ-khách”. Nếu chủ mê thì dễ bị dụ, khách sẽ được thuận lợi. Chủ nếu thường
tỉnh giác, ắt khách phải tôn kính, lãng xa… Người tu hành chân chánh đối với
thần thông tuyệt chẳng nên tham cầu, chẳng muốn vọng cuồng bàn luận, chẳng chấp
chẳng xua, luôn giữ trung đạo…
Ngài Tuyên Hóa thường giảng: Lục Thông là cảnh
giới trí tuệ hiển hiện (trong quá trình tu hành vô nhiễm, khai ngộ vả chứng quả
của hành giả), điều này không có gì là phi thường. Quan trọng là cái nhìn của
hành giả có chân chánh hay không? Hành giả phải trì giới thanh tịnh và ngăn
ngừa tham dục, để khỏi đi sai đường, không lạc vào tà đạo.
Thẩn thông không thể luyện tập hay do truyền thọ mà có. Thần
thông xảy ra tự nhiên khi hành giả tu đến mức độ nào đó. Nhưng thần thông không
thể giúp chấm dứt sanh tử, cũng không phải là mục tiêu cứu kính mà Phật giáo
nhắm đến.
Thật ra, thần thông chỉ là sự thông suốt của tự
tánh (tự tánh thông), mọi người ai cũng đều có sẵn đầy đủ (Phật tánh lẫn thần
thông), nhưng tất cả bị ngăn che bởi vô minh, phiền não.
Dĩ nhiên khi Phật còn tại thế, Ngài đã cấm đoán
mọi người không được biểu diễn thần thông của mình, nhưng Ngài cũng không cấm
đoán con người hiển lộ thần thông. Nếu Bồ tát có thần thông mà không hiển lộ để
phương tiện giáo hóa chúng sinh, thì thần thông để làm gì? Đức Phật chỉ sợ rằng
người ta “tùy tiện” biểu diễn thần thông hoặc dùng thần thông để lừa dối kẻ
khác và đưa họ vào cảnh giới tà ma (đã được mô tả rõ ràng trong Chương “Năm
Mươi Ấm Ma” của Kinh Lăng Nghiêm), trong đây có nói:
“Nếu hành giả không nghĩ mình chứng Thánh, thì
đó là cảnh giới tốt. Còn nếu tự cho mình chứng Thánh, thì sẽ bị lạc vào đường
tà”.
Phật dạy: Có bốn tâm thường nên phát khởi:
1.
Tâm bình đẳng
2.
Tâm khiêm nhu
3.
Tâm không giải đãi
4.
Tâm vô độc
Đệ tử Phật cần lấy giới làm thầy, nghiêm trì
giới luật, tin sâu nhân quả, thân cận người có chánh kiến, lả thiện tri thức
thực tu (khéo dùng pháp tu thích hợp với mình nhất để nhiếp tâm giữ niệm).
Trong sinh hoạt thực tế hằng ngày, phải phát tâm Bồ-đề, hành Bồ-tát đạo, làm
nhiều việc lợi ích chúng sinh. Kiên nhẫn cấy cày không nôn mau thu hoạch, lúc
nào cũng dọn tâm sạch sẽ, không ngừng phá trừ ngã tướng, ngã chấp… đạt đến vô sở
cầu, nhận ra bản lai diện mục.
Nếu tín đồ Phật Giáo chỉ quan tâm đến thần thông
mà không lo tu dưỡng phát triển bi trí, giác ngộ độ sinh… thì xem như đã nhầm
lẫn mục tiêu và không phải là đệ tử chân thật của Phật.
22. TỘI NẶNG BÁO NHẸ
Trong Pháp Uyển Châu Lâm” ghi: “Nghiệp tạo có
nặng nhẹ, nếu nhẹ thì sám hối liền tiêu, nếu nghiệp nặng thì có thể chuyển quả
báo nặng thành nhẹ”.
Mỗi Phật tử chúng ta lúc chưa học Phật đã từng
tạo rất nhiều ác nghiệp, do không hiểu biết mà gieo lắm nhân ác. Cho nên lúc
học Phật, đặc biệt là khi tinh tấn trì giới tu hành, sẽ xuất hiện đủ loại
nghịch cảnh. Nhiều nghịch cảnh ập đến cũng không phải là xấu, một số trong đây
giúp ta giải nghiệp: tội nặng mà được báo nhẹ!
Trong “Truyện Pháp Sư Tam Tạng Chùa Đại Từ
Ân” có ghi: “Ngài Huyền Trang lúc lâm chung bị bịnh, thần hộ pháp an ủi
ngài thế này:
– Sư từ vô thủy đã tạo nhiều ác nghiệp làm tổn
não hữu tỉnh, nay nhờ có chút bịnh mà ác nghiệp được tiêu trừ, cần phải vui
mừng”…
Hồ cư sĩ trước khi chưa biết Phật pháp ông
tạo tội sát sinh rất nặng. Thuở còn làm vua bếp, ông là tay đồ tể nổi danh, thủ
pháp giết vật nhanh nhẹn, gọn lẹ… Những thứ khó làm mà hễ qua tay ông, chỉ cần
vài nhát đao là xong ngay.
Hầu như mỗi ngày ông Hồ đều nhậu nhẹt, hút
thuốc, uống rượu, ăn thịt. Hơn nữa lúc đó ông còn cho học Phật là mê tín! Có lẽ
nhở thiện căn kiếp trước, trong một dịp tình cờ, ông gặp cư sĩ Quả Khanh (tác
giả cuốn Báo ứng hiện đời), sau khi nghe Quả Khanh nhắc nhở khai thị rồi, ông
liền quyết tâm từ bỏ hút thuốc, dứt hẳn rượu, thịt và bắt đầu ăn chay trường.
Đúng là “nghe liền tin thọ”, do ông thay đổi cực mạnh như thế, khiến những
người bạn tu học theo Phật nhiều năm phải tấm tắc ngợi khen mãi…
Tháng 10 năm 2007, ông Hồ cùng một người bạn đi
lễ Phổ Đà Sơn. Ngày đầu tiên hai người thành tâm nhất ý lễ Bồ-tát Quan Thế Âm.
Trên đường, hễ gặp chùa thì bái Phật, tất cả đều thuận lợi. Ngày thứ hai, tối
đó tại nhà khách, ông tắm xong mới từ trong bồn bước ra ngoài, thì sơ ý bị trợt
té, chỉ nghe “ạch” một tiếng, gối phải khuỵu xuống đất, ông liền kêu người bạn
chờ mình tới bịnh viện. Bác sĩ chẩn đoán xương gối phải bị gãy, dập… nên hôm
sau là (ngày thứ ba) ông được chuyển đến bệnh viện Thượng Hải, bác sĩ quyết
định sẽ mổ ngay.
Từ lúc té đến chờ phẫu thuật, chân ông sưng to
nhưng tuyệt không thấy đau đớn. ông thầm tin sâu, đây chắc chắn là nhờ Phật lực
gia trì khiến ông tội nặng được báo nhẹ… nên càng tinh tấn niệm Phật không gián
đoạn.
Tối đó mổ xong, do phản ứng hậu phẫu, nên gối
phải đau suốt đêm. Sau đó thì không hành đau nữa mà hồi phục rất nhanh. Có mấy
người bịnh trẻ nằm chung phòng với ông, sau khi gãy xương phải trị liệu đủ thứ
và nghỉ dưỡng tới 5-6 tháng, lại còn thường xuyên tầm bổ canh xương hầm, vì cho
rằng phải ăn mặn vậy mới đủ dinh dưỡng. Nhưng, vết thương họ tới giờ vẫn chưa lành,
nên họ cứ than rên trước mặt ông Hồ 60 tuổi này mãi…
Qua đây đủ thấy ăn chay, tu tập theo pháp Phật,
có thể đem lại trợ giúp rất lớn cho việc hồi phục sức khỏe.
Xuất viện rồi, ông Hồ tu học càng thêm tỉnh tấn,
trong thời gian cái chân đau bắt đầu hồi phục, ông không thể quỳ trước Phật,
chỉ có thể ngồi trên giường sám hối nghiệp sát sinh và bao ác nghiệp thuở làm
bếp sư của mình, ông chí thành tụng Kinh Địa Tạng hồi hướng cho các chúng sinh
đã bị ông giết… hi vọng chúng sớm lìa khổ được vui. Sau khi mổ được hai tháng,
ông đã phá tan quy định của y viện (bịnh chuyển tốt đến không cần chống gậy),
ông xuống giường cử động, đi lại trong nhà. Không bao lâu, do cỏ tính nôn nóng,
Hồ huynh không cam tâm ở mãi trong nhà, ông thường ra ngoài tham gia các hoạt
động phóng sinh, hoặc hội họp cùng đàm bạn đạo…
Mới đầu chúng tôi không yên tầm,
đồng khuyên ông nên cẩn trọng, hãy ở nhà nghĩ dưỡng cho thật ổn rồi
hẵng ra ngoài. Nào ngờ lão Hồ tính cách vốn hào sảng, không những chẳng chịu
nghe, còn nói; – Chẳng hề chi, chân tôi hồi phục rồi! Hiện tại đi đường không
bị ảnh hưởng gì hết!…Vừa nói ông vừa chìa chân ra cho chúng tôi xem.
Mọi người đều bật cười. Từ lúc ông gãy xương đến
nay đã 7 tháng, nhưng nơi gối phải đến giờ chẳng còn vết tích chấn thương chi. Ông
Hồ hoàn toàn cử động tự tại thoải mái, giống như người bình thường.
23. BỊNH NAN Y PHẢI CHÍ THÀNH SÁM HỐI
Đông y cho rằng; có nhiều nguyên nhân dẫn đến
bịnh hoạn như: lục dâm (phong hàn, thử, thấp, táo, hỏa) thất tình: (hỉ, nộ, ưu,
tư, bi, khủng, kinh)… nghĩa là do quá lao, quá phóng dật, ẩm thực thất thường,
đủ loại đủ kiểu…
Nếu như bịnh nhân chính khí đủ, tà khí chưa xâm,
chỉ cần nghỉ ngơi hoặc trị bằng thuốc men cũng sẽ nhanh chóng hồi phục, còn nếu
tà khí đã chiếm thế thượng phong, chánh khí không đủ, ắt phải nhờ nhiều cách để
trợ chánh khử tà. Trong đây đối với chứng bịnh thuộc nghiệp báo chiêu cảm, thì
có thể phối hợp trị liệu y học cùng với sám hối. Vì cách giúp bịnh nặng hồi
phục nhanh chóng, theo nhà Phật tốt nhất là chí thành sám hôi. Trong “Ma Ha Chỉ
Quán quyển 15” từng ghi: “Nếu người bịnh nghiệp, trong cần dùng sức quán, ngoài
phải sám hối, thì sẽ thuyên giảm”.
Việc tự thức tỉnh, tự kiểm điểm này, mỗi người
học Phật nhất định phải làm, đúng như Kinh Di Giáo từng nhắc: “Thường tự tỉnh
giác, chẳng nên phạm lỗi”.
Chúng ta phải thường tự kiểm điểm, quán sát mỗi
hành vỉ tạo tác của bản thân, theo dõi từng cử tâm động niệm, hễ thấy có gì sai
trái không đúng pháp, thì phải lập tức sám hối, sửa đổi ngay, không để cho lỗi
sai điều quấy có dịp tăng trưởng mạnh!
Giải thích thêm: Sám hối rất quan trọng vì có uy
lực rất lớn. Trong Kinh Tứ Thập Nhị Chương, Phật nói: Người tạo nhiều lỗi mà
không sám hối, không dừng ngay tâm sai, tội sẽ theo mãi bên mình, như nước về
biển, dần dần thành sâu rộng. Còn người có lỗi, biết phát lồ nhận lỗi, quyết
tâm bỏ ác hành thiện, thì tội sẽ tiêu diệt, như bịnh ra mồ hôi, dần dần mạnh
khỏe”. Hiểu rõ nhân quả, thành thật nhận lỗi, vĩnh viễn không tái phạm, tội kia
liền có thể cứu.
24. BAY QUA MIỀN HẠNH PHÚC
Dưới đây là câu chuyện của một bằng hữu học
Phật, chúng ta hay nghe cô tự thuật:
Tháng 9 năm 2006 là thời gian đau khổ nhất của
cuộc đời tôi, do thân thể trưởng kỳ bịnh đau, tôi tới y viện kiểm tra, mới hay
mình bị ung thư vú ác tính thời kỳ cuối, mức độ cực nặng.
Đối diện với sự thực phũ phảng nảy, tôi cảm thấy
vô cùng tuyệt vọng, bơ vơ, phẫn nộ… tinh thần hầu như suy sụp. Đã trăm ngàn lần
tôi tự vấn mình: “Vì sao tôi có thể bịnh như vậy?”… Tôi cho rằng mình vốn thiện
lương, thực thà. Trong mắt mọi người, tôi là một phụ nữ rất đức hạnh, và phẩm
chất tốt đó luôn được công nhận!
Nhưng vì sao đến tuổi trung niên tôi lại nhận
được tờ giấy chẩn bịnh giống như “tuyên án tử” thế này? Từng ngày qua, tôi càng
đến gần cõi chết hơn. Muốn sống còn, tôi phải phẫu thuật. Sau khi mổ xong, thì
nếm tiếp nỗi khổ trị hóa chất…
Người bịnh ung bướu, phải trị bằng hóa chất thống
khổ vô cùng, khổ như địa ngục trần gian, về tâm lý tôi có thể tiếp nhận, nhưng
xác thân thì rất khó kham, bởi chịu không thấu cơn đau giày vò, do muốn hồi
phục sức khỏe nên tôi ráng sức đấu tranh cùng số mạng…
Bản thân tôi trên có mẹ già hơn 80, dưới còn con
thơ dại, tất cả đều cần tôi. Tôi có bổn phận phải chăm sóc, cưu mang… nhưng đối
diện với bịnh trạng của mình, tôi thực không còn đủ dũng khí để sống. Tôi giống
như chiếc xe hư bị đứt thắng, rơi vào vực thẳm tối tăm, vỡ nát, chẳng còn chi…
Trong thời kỳ xạ trị, tôi nằm tại Khoa ung bướu,
chứng kiến đủ cảnh, đủ hạng người: cho dù bạn có quyền uy từng khuynh đảo một
thời, cho dù bạn giàu sang một cõi, hễ đã vào đây rồi, thì quyền thế và tiền
bạc đều trở nên vô nghĩa, vì đâu mua được mạng sống? Mà mạng sống trong giây
phút này lại giống như hạt sương mai trên đầu cỏ, tuy cỏ đấy, nhưng chốc lát sẽ
tiêu tan, chẳng còn tung tích…Hôm nay mới thấy bạn bè bịnh đó, ngày mai đã âm
dương đôi ngã…
Tiến hành trị liệu trong bịnh viện bây giờ xem
như là để… cầm chân tử thần đến… chậm một chút, nhưng cuối cùng rồi cũng phải
vong thân!…Tôi chưa bao giờ nghĩ là mình sẽ bị ung bướu, cũng chưa bao giờ đến
gần hay quan sát những người bịnh khổ trên thế gian, niềm đau sinh ly tử biệt
quả thực khó bứt, khó rời…
Tôi hỏi bác sĩ:
– Mạng sống tôi còn kéo dài bao lâu?
Tôi biết mình phải chết, chắc chắn không nghi,
thế nên rất tuyệt vọng, vì không thể cầu ai giúp, đành lặng nuốt thống khổ vào
tim và càng thêm suy sụp…
Tôi bắt đầu mất ngủ, tay chân ra mồ hôi, tâm
hoang mang. Suốt ngày mặt đầy nước mắt, khóc đến không thành tiếng…
Một ngày nọ tại bịnh viện tôi bỗng nghe hát bài
“Đôi Cánh Vô Hình” của tác giả Trương Thiếu Hàm. Trong lời ca có mấy câu: “Tôi
biết mình có đôi cánh vô hình, đưa tôi bay cao, ra khỏi tuyệt vọng”…
Vừa nghe đến đây những buồn đau tôi ráng kềm nén
bấy lâu giờ không kềm được, đồng tuôn trào như hỏa diệm sơn phun… Tôi bật khóc.
Khóc cho số mệnh khốn khổ của mình, khóc vì mình không bảo vệ sức khỏe tốt, để
bây giờ đối với mẹ già thành ra bất hiếu, đối với con thơ chẳng thể làm từ mẫu,
đối với chồng không tròn phận vợ hiền mà còn làm liên lụy, khiến anh phải lo
lắng, thân tâm tiều tụy, mỏi mệt cực độ… thật là bất nhân với phu quân!
Tôi không biết “đôi cánh đưa tôi bay cao ra khỏi
tuyệt vọng” hiện đang ờ đâu? Tôi giờ đây không chỗ bấu víu, đang rất bàng
hoàng, hoảng loạn… cảm giác mình sống không bằng chết, nhưng chết? – Lại không
cam tâm!
Trải qua nửa năm trị bằng hóa chất, tôi tiếp
nhận được cái y học gọi là “xạ trị kết thúc!”. Bác sĩ bảo tôi phải thường xuyên
kiểm tra, để phát hiện và giải quyết kịp thời…Tôi biết mình đã được xếp vào
danh sách bất trị, không còn cơ may sống sót, nếu có thay đổi chăng thì chỉ là…
đổi thuốc mới mà thôi! Tôi cứ đều đều vô hóa chất cho đến khi lìa đời! Sinh
mạng tôi bây giờ tùy thuộc vào hóa chất. Hễ ngưng vô hóa chất là mạng sống cũng
kết liễu luôn.
Vì muốn sống còn, hằng ngày trời chưa sáng tôi
đã thức dậy ra ngoài luyện khí công. Mỗi ngày tập bốn tiếng. Vào mùa hạ thời
tiết oi bức, lại do trị hóa chất nên tóc tôi rụng hết, phải đội tóc giả trên
đầu, bị nóng hầm hập nên mồ hôi tuôn chảy đầy, nhằm tiết Tam phục khí trời càng
nóng gắt, khiến y phục ẩm uớt dính vào thân, giữa công viên tôi thấy mình giống
hệt con lừa bị hành hạ đi vòng vòng… Bao ý niệm bi phẫn uất ức, tuyệt vọng… từ
đáy lòng trào dâng, khiến tôi đau tận xương tủy, lệ tuôn đầm đìa như mưa.
Tháng 6 năm 2007, Kim nữ cư sĩ là người bạn đạo
tâm đầu ý hợp xuất hiện trong cuộc đời tôi. Chị là một Phật tử thuần thành,
thiện lương, trung hậu, cư xử rất tốt với người. Khi biết rõ hoàn cảnh tôi rồi,
chị luôn động viên giúp đỡ, đem tới cho tôi xem rất nhiều loại sách Phật (chỉ
bày phương pháp cứu vãn mệnh sống), trong đây gieo ảnh hưởng cho tôi sâu nhất
là hai cuốn: “Liễu Phàm Tứ Huấn” và “Sống là tự mình nỗ lực từng chút một”…
Mặc dù tôi ưa triết học, nhưng chỉ khoái sách
tri thức học vấn, còn đối với ba cái tín ngưỡng, tôi hoàn toàn không tin, khó
chấp nhận… nói chi đến thọ trì? Thậm chí tôi còn bài xích, cho đó là những luận
thuyết ngu si, thiếu hiểu biết, mê tín!…
Nhưng sau khi xem các chuyện trong sách xong,
tôi cảm động sâu sắc, lúc này bản thân tôi từ một kẻ vô thần, vô tín ngưỡng, đã
bắt đầu tin Phật. Nhưng thú thực là mục đích tin Phật vào lúc này chỉ bắt nguồn
từ khát vọng muốn được sống mà thôi.
Nhờ Kim cư sĩ hướng dẫn đốc thúc, tôi bắt đầu
tụng “Kinh Địa Tạng” mỗi ngày một bộ, nhưng do tâm tôi, niệm niệm ào ạt dấy
khởi như sóng cồn, nên chị bày tôi tụng “Kinh Kim Cang” và dẫn tôi đi phóng
sinh, bái sám.
Thành thật mà nói, giai đoạn này tôi dốc sức tạo
công đức, vì nghĩ rằng “tu phúc có thể kéo dài mạng sống”. Theo tư duy đó, nên
mặc dù có tụng “Kinh Kim Cang”, nhưng lắm lúc tôi cảm thấy thấu phá chẳng nổi,
buông không xong, phiền não chẳng ngừng.
Chớp mắt hạ đi đông đến, thời tiết lạnh lẽo bắt
đầu. Nghe tin các đồng bạn bịnh nặng liên tục tạ thế, hoặc từng ca bịnh phải
chuyển đi và bịnh càng hoành hành bộc phát theo mùa đông giá rét… khiến lòng
tôi thêm tê tái, suy sụp đến cực điểm… tôi như đang rơi xuống tận đáy vực tuyệt
vọng…
Trước mùa xuân 2008, nhìn thấy tình hình bế tắc
của tôi, chị Kim nói:
– Nếu bạn có thể gặp được cư sĩ Quả Khanh thì
tốt quá!
Nhưng biết tìm ông ở đâu và đi đâu để gặp được
ông bây giờ? Tôi cho rằng mình là kẻ phúc mỏng mệnh bạc, không có được cái may
mắn ấy.
Từ hôm đó trở đi, Kim cư sĩ ngày ngày ở trước
tượng Phật nhà chị (vì tôi lễ bái), hằng ngày chị lễ trăm lạy, bái đến mồ hôi
và nước mắt rơi đầy mặt. Thành tâm ắt được, có thể khiến cho vàng đá cũng phải
nứt…Nhờ chị thành tâm cầu nguyện mà cảm được duyên lành xảy đến…
Tôi may mắn quen được Hải Ba (nhân vật được nhắc
đến trong sách Báo ứng Hiện Đời tập 1-2) là bạn của lão cư sĩ Quả Khanh, Hải Ba
hứa ngày mồng 5 tháng giêng sẽ dẫn tôi đi gặp cư sĩ Quả Khanh.
Lúc này con Hải Ba đang bịnh, nhưng chị không cố
thời gian để chăm sóc bé vì mắc dẫn tôi đi. Hải ba có đôi mắt to, đen, sáng đẹp
vô cùng. Cốt cách thanh cao như tiên, cư xử lại dịu dàng thuần phác… Tôi rất
mang ân sự chân thành tốt bụng của chị. Chị là người bạn cực kỳ quý giá của tôi
(Ngay đây tôi xin gởi đến chị lời chúc lành, cầu chị cả đời bỉnh an hạnh
phúc!)…
Vừa gặp cư sĩ Quả Khanh tôi đã bị phẩm đức tu
hành vá tính cách thanh cao, chính trực, thiện lương, khiêm hòa, không tham
tiền tài vật chất cua ông… làm cho cảm động, ông ân cần nhắc nhở tôi phải luôn
lấy giới làm thầy, ôn nhu giải thích cho tôi hiểu ngũ giới Phật chế là như thế
nào và chỉ cách thọ trì “Kinh Địa Tạng” ra sao. Ông giúp tôi chấn chỉnh lại
những thấy biết lệch lạc sai lầm, khiến tôi thu được rất nhiều lợi ích. Ngay đó
tôi liền phát thệ: “Bắt đầu từ nay trở đi vĩnh viễn từ bỏ ăn mặn, hoàn toàn
trường trai, dứt khoát không tạo sát nghiệp nữa”.
Khi tôi về nhà rồi, hôm sau, lúc 8 giờ tối cư sĩ
Quả Khanh gọi điện đến, bảo:
– Chị có muốn biết nguyên nhân mình bịnh là do
đâu chăng?
– Dạ muốn! Muốn quá đi chứ!…
Tôi cuống quýt hồi đáp, không kịp chờ ông dứt
câu. Tôi nghĩ nhất định ông sẽ nói là “kiếp trước do tôi tạo nghiệp sát sinh
hay tội gì tương tự vậy nên ngày nay mới bị ác báo, phải đoản mệnh như thế
này”…
Tim tôi hồi hộp, đập thình thịch… vì chờ nghe
ông trả lời. Nhưng trái với dự đoán của tôi, đáp án của ông thật bất ngờ, hoàn
toàn ngoài sức tượng!… Qua điện thoại, giáo sư dịu dàng hỏi:
– Cô nghĩ kỹ xem, sau khi kết hôn có làm gi vượt
quá giới hạn cùng người khác phái chăng?
Nghe ông hỏi vậy tôi muốn té ngửa. Lúc đó tôi im
lặng nhưng tận đáy lòng rất muốn hét to như thế này: -“ôi trời ơi! Giáo sư!
Ngài đừng đổ oan cho con! Con là gái nhà lành, là con nhà gia giáo đàng hoàng,
trong đời con chỉ yêu có một lần, và chỉ có một mối tình duy nhất dành cho
người mà con kết hôn, đó là phu quân con mà thôi! Con đã dành hết tình cảm
thuần khiết cho ảnh… Con thực sự chẳng có cái chuyện ‘‘tình một đêm” thậm chí
chẳng bao giờ ngoại tình, thế thì làm sao ngài có thể nói là… con bị bịnh vì
cái nguyên nhân kỳ cục này chứ hả?”…
Không nghe tiếng tôi trả lời, giáo sư nghiêm túc
khẳng định:
– Cô bị bịnh đích thực là do… tà dâm mà ra! Nếu
như cô chịu tha thiết sám hối, bịnh cô sẽ lành!
Giáo sư vẫn kiên nhẫn chờ tôi trả lời. Tôi ráng
hồi tưởng lại quá khứ… từng chút một. Đột nhiên tôi nhớ ra, liền nói:
– À! Sau khi kết hôn, đi hưởng tuần trăng mật
xong về, thì cơ quan đề nghị cấp nhà cho. Vị lãnh đạo quản lý nhà bảo tôi đi
một chuyến để bàn việc này…
Khi tôi đến nơi, hai chúng tôi trò chuyện cả
tiếng đồng hồ, không có nói gì khác ngoài công việc và học vấn… thấy trời đã
tối, tôi định về nhà thì đột nhiên ông ta ôm chầm lẩy tồi và nói là rất thương
tôi”… Chúng tôi chỉ ôm nhau một lát, tuyệt không làm gì vượt quá giới hạn…
Giáo sư nghe xong bảo:
– Đây chính là nguyên nhân căn bịnh của cô. Mặc
dù thực tế không có vấn đề gì phát sinh, nhưng trong tâm cô hoàn toàn không cự
tuyệt, sau đó lòng cô thường khởi tà niệm, có… dâm niệm! Trong “Kinh Địa Tạng”
từng thuyết: “Chúng sinh ở cõi diêm phù đề, khởi tâm động niệm không gì mà
không tạo nghiệp, không gì mà không là tội”…
Buông điện thoại xuống, nước mắt tôi ướt đẫm mặt
mày, tôi khóc chẳng thành lời. Tôi đã trăm ngàn lần hỏi trời xanh, vì sao tôi
bị bịnh như vậy? Thì hôm nay, giáo sư đã cho tôi đáp án chính xác!
Từ hôm ấy trở đi, tôi tiến vào giai đoạn học
Phật chân chính chưa từng có. Bắt đầu từ ý không tin Phật cho đến vì muốn sống
còn, muốn được lợi mà tôi tin Phật. Sau khi được gặp cư sĩ Quả Khanh rồi, thì
tôi chỉ thành giữ giới cấm, tha thiết tu hành, cỏ thề nối đây là chuyền biến
lớn nhất của đời tôi.
Tôi thật may mắn vì trong lúc mê mờ rối ren, đã
được gặp một thiện tri thức có lực tu sâu và rất đạo đức, đặc biệt là mấy cuốn
“Báo ứng Hiện Đời”, “Mạn đàm từ bi” và “Niết Bàn bảo sám”, đã như tiếng sấm
vang khai thông cái lỗ tai điếc tịt của tôi. Đã giúp tôi chuyển đổi đời sống,
thay đổi cái nhìn và quan niệm không tốt đối với Phật giáo. Hai cuốn sách này
tôi đọc đi đọc lại không biết bao nhiêu lần, rồi y cứ theo đó mà thực hành, sửa
mình, tu tập…
Đầu tiên tôi đối với những ác nghiệp đã tạo của
bản thân, tiến hành sám hổi…kiểm tra các lỗi từ “sát, đạo, dâm, vọng, tửu,
tham, sân si, mạn, nghi, hiếu để, lễ, nghĩa, tín”… tôi bắt đầu mỗi ngày sám hối
một loại tội (tính từ ấu thơ cho đến bây giờ). Tôi hồi tưởng, kiểm lại mọi việc
lớn nhỏ, hễ thấy việc gì sai, có lỗi, thì lo sám hối và điều này đã dưỡng thành
thói quen tốt hằng tự kiểm phản tỉnh mỗi ngày… Tôi thống thiết sửa đổi, chân
thành sám hối, sau đó chiếu theo khai thị trong “Mạn đàm từ bi và Niết Bản bảo
sám” mà thọ trì “Kinh Địa Tạng”, nghiêm trì ngũ giới, dứt tuyệt ăn mặn.
Kết quả, tôi đã sống lại. Không những thế, tâm
tôi bình an, có thể đối diện trực tiếp với hiện thực tàn khốc, có thể thản
nhiên đón nhận mọi khổ đau ập đến mà không chút lời oán trời trách người. Tồi
đã có thể bình tĩnh đối diện với sống và chết, từ trong tuyệt vọng mà tìm ra hi
vọng, và cho dù ở trong địa ngục vẫn có thể mơ đến thiên đường…
Phật pháp chính là diệu pháp, đã chắp cho tôi
đôi cánh, giúp tôi bay lên cao, ra khỏi vực thẳm tuyệt vọng, đi đến miền hạnh
phúc…
Tôi xin cảm tạ chư Phật bồ tát, cảm tạ tất cả
những thiện hữu đã nhọc nhằn tâm lực, công sức vì tôi.
Bây giờ dù ôn hay kể lại niềm thống khổ, thì
cũng đau như mồ xẻ, khơi lại vết thương vừa mới liền da. Nhưng tôi mong rằng,
những chị em hữu duyên nào khi đọc đến bài viết này, bất kể là có tin Phật hay
không (bạn tin cũng không mà không tin cũng được) chỉ cần bạn
biết tự thanh tịnh tâm ý mình, tốt nhất là nên từ bỏ đồ mặn và ăn chay
trường, mức thấp nhất là bạn phải làm một người hoàn toàn không giết hại bất kỳ
mạng sống nào! Không làm bất kỳ việc phi lễ, phi pháp nào! Thế giới này đích
thật là lưới trời lồng lộng, tuy thưa nhưng chẳng lọt được thứ chi. Nhân quả
không phải để cho bạn đùa bỡn giễu cợt hay quyết định… Nếu như bạn phạm lỗi thì
phải lo mà sám hối cho kịp, càng chẳng nên nghĩ tường hồ đồ, nói sai hành bậy…
mà chiêu ác báo vào thân. Vì tôi từ trong địa ngục nhân gian đi ra, nên tôi
thấm thía nó khổ ra sao, đau thế nào!…
Nếu như đọc câu chuyện của tôi xong mà bạn có
tỉnh giác và thu được lợi ích, thì chứng bịnh này của tôi quả không uổng phí…
Tôi hi vọng mình là người thọ báo cuối cùng
trong địa ngục, càng hi vọng cửa địa ngục sẽ đóng lại phía sau lưng tôi. Mong
các chị em phụ nữ thân yêu của tôi, dù sống trong xã hội vật chất dục vọng tràn
lan này, vẫn luôn giữ gìn được cho mình một trái tim thiện lương, thuần khiết,
vô nhiễm… vì đó chính là đôi cánh giúp bạn bay qua miền hạnh phúc, đi tới thiên
đường…
***
Phần ghi bổ túc thêm: Từ tôi bị bịnh đến nay
đã hai năm, mỗi lần đến bịnh viện kiểm tra, kết quả luôn bình thường. Cảm tạ
Phật lực gia trì, đã giúp tôi có được kết quả tốt như hôm nay.
Trong nỗi mừng vui cực độ, tôi đã đem những điều
tâm đắc, những ích lợi thu được trên con đường học Phật, chia sẻ cùng các bạn
đồng bịnh. Những ai nghe mà tin nhận, chịu ăn chay, trì giới sám hối… thì bịnh
của họ đều chuyển tốt đến không ngờ. Còn bạn bịnh nào đối việc này chê cười
giễu cợt, thì lòng tôi thật buồn tiếc, vì họ đã đánh mất cơ may tự cứu… bởi
bịnh tình họ ngày càng phát nặng, vô phương xoay chuyển…
Tôi tin sâu rằng, những người bị bịnh ung bướu
chỉ cần y pháp tu hành, thì mạng sống nhất định sẽ xuất hiện kỳ tích. Xin
nguyện cho những người bịnh hoạn khổ đau trong thiên hạ, biết dùng Phật pháp
cứu mình ra khỏi hiểm địa.
Xin đem thực tâm, thành tâm, nguyện tâm, gieo
rắc hạt giống thiện, hầu giúp mọi người đỗi mới sinh mạng, tái tạo hạnh phúc. Tôi
tin: tôi có thể lảm được, thì bạn cũng làm được!
Đệ
tử mới học phật: cố Hoa
Giải thích: Cố Hoa trong lúc phát
nguyện ăn chay, sau mấy tháng sám hối đã có thể đi làm việc và mỗi tuần cô đều
đến Viện Ung Bướu, dùng kinh nghiệm của bản thân làm bằng chứng để khuyên các
bịnh nhân đồng cảnh ngộ, còn tặng cho họ cuốn “Kinh Địa Tạng” và “Báo ứng Hiện
Đời”…Đến nay rất nhiều bịnh nhân ung bướu đã chuyển nguy thành an.
Thông thường, phần đông bịnh nhân chỉ muốn khỏi
bịnh nhưng không chịu sửa đổi nguyên nhân phát bịnh, Cố Hoa sở dĩ bịnh lành
nhanh chóng, chính nhờ kết quả “y giáo phụng hành” của cô. Một mặt cô
nương Phật lực gia tri, nhất nhất tụng kinh niệm Phật; mặt khác lại chân thành
sám hổi, nguyện sửa đổi, tu thiện… cô sám hối từng lỗi lầm đã qua trong quá
khứ, tính từ lúc nhỏ cho đến hiện tại và đã dưỡng thành thói quen ngày ngày
tình giác, thường tự kiểm lỗi sửa đổi luôn… Mong tất cả bịnh nhân trong thiên
hạ đều có thể hành theo như vậy để sớm tiêu trừ bịnh lìa khổ được vui.
25. VỢ CHỒNG HỌ SỬ
Đây là kinh nghiệm lợi ích mà Sử cư sĩ trải qua
sau khi học Phật. Hi vọng mọi người nhờ đây mà tăng thêm tín tâm học Phật.
Chúng ta hãy nghe ông kể:
Đầu mùa đông năm 1998, vợ tôi bất ngờ mang thai
ngoài ý muốn. Lúc đó tồi đang bề bộn công việc khảo cứu, còn vợ tôi thì công
việc vừa mới khai trương, cho nên chúng tôi đã quyết định một điều không nên
là: vợ tôi đi bịnh viện nạo thai. Nào ngờ hành vi khinh suất này đã thay đổi
nửa đời sau của chúng tôi. Vợ tôi bị chứng bịnh hiểm giày vò nhiều năm, khiến
chúng tôi cũng nhờ đây mà thức tỉnh, cùng bước vào con đường học Phật.
Năm 2003 vợ tôi phát hiện bộ phận cận trực tráng
của nàng đau không chịu nổi, bác sĩ chẩn đoán là bị “viêm mủ các tuyến quanh
hậu môn”, bảo nàng phải nhập viện mổ, nhưng mổ xong vẫn đau như cũ.
Sau đó, được bác sĩ chuyên môn ở “Y viện
phụ sản tỉnh” chẩn đoán là chứng bịnh “Dị vị nội mạc tử cung”, tìm đọc các tư
liệu liên quan, chúng tôi mới biết bịnh này vô cùng nghiêm trọng.
Bệnh làm viêm thành đường ruột, gây hẹp và tắc
nghẽn đường ruột, tạo ra táo bón. Táo bón diễn ra liên tục thường xuyên cũng
ảnh hưởng đến chu kì… trong thời kì kinh nguyệt, có thể bị táo bón nặng… Ngoài
ra, bịnh nhân thường xuyên xuất hiện nhiều cảm giác khó chịu như muốn đi ngoài,
đau khi bài tiết, thậm chí đi ngoài ra máu.
Bệnh sẽ xuất hiện các triệu chứng khác như tắc
nghẽn đường ruột hoặc giãn cách. Gây táo bón, trướng bụng, đau bụng, buồn nôn,
khó chịu…
Đây là căn bịnh nan y của thế kỷ này, triệu
chứng chính là không thể mang thai và rất đau đớn. Bịnh rất khó chữa, vì trị
xong vẫn có thể tái phát bất cứ lúc nào, được xếp vào loại “ung bướu bất tử”,
chứng này hành bịnh nhân thống khổ bất tận…
Mỗi tháng, vợ tôi đều bị hành đau chí tử, cơn
đau cứ đúng hẹn là đến theo chu kỳ, đày đọa nàng suốt 4-5 ngày, gây ảnh hưởng
trầm trọng đến sức khỏe, công tác và đời sống…
Tôi cũng bị khổ lây theo. Vì mỗi lúc nhìn vợ nằm
dài trên giường, mặt trắng bệch, sức lực hầu như cạn kiệt vì cơn đau, thống khổ
này trong chớp mắt cũng vây bủa toàn thân tôi. Khiến tim tôi khó thở như bị đá
đè, cực kỳ nặng nề khó chịu.
Bác sĩ đề nghị vợ tôi nên trị liệu theo phương
cách thụ thai, vì việc mang thai và cho bú có thể giúp bịnh thuyên giảm, nhưng
đối với người bị chứng “dị vị nội mạc tử cung” thì chuyện mang thai bỉnh thường
bỗng trờ nên quá gian nan. Nỗ lực hơn một năm vẫn không kết quả, chúng tôi đối
với việc này hầu như không còn hi vọng gì.
Tháng 3 năm 2005, vợ tôi bị u nang buồng trứng
bên trái nên phải nhập viện mổ, cắt bỏ vùng buồng trứng ung mủ. Đối với chứng
bệnh “viêm mủ các tuyến quanh hậu môn”, do quanh đó liên quan nhiều dây thần
kinh huyết quản nên nếu mổ thì nguy hiểm rất lớn, vì vậy bác sĩ không dám động
đến. Sau khi cắt buồng trứng xong, bác sĩ lại đề nghị trị bằng cách mang thai.
Nói rằng thời kỳ hoài thai then chốt là tháng 7-8, nếu qua được hai tháng này
thì không lo nữa, có thể giỏ yên sóng lặng”…
Tháng 8 chúng tôi đi Phổ Đà Sơn lễ tượng Quan
Thế Âm tại Phổ Tế Tự để cầu con. Kể ra thật mầu nhiệm, ngay từ lúc rời Phổ Đà
Sơn về nhà hơn một tháng, thì vợ tôi có tin vui, chúng tôi mừng đến rơi nước
mắt.
Tiếp đến một năm sau, nhờ mang thai và cho con
bú, vợ tôi mới được hưởng tháng ngày bình an của cuộc sống không đau đớn, nhưng
“cảnh vui thường không kéo dài”. Khi con gái tôi vừa cai bú xong, thì tháng kế
đỏ, vợ tôi kinh hoàng khi phát hiện cơn đau bấy lâu nằm im bây giờ đột ngột ập
tới… Lúc này chúng tôi hầu như lâm vào đường cùng, bó tay hết cách, khổ đến
khóc không còn lệ…
Nhưng cũng ngay trong lúc này vận may thần kỳ đã
mỉm cười và mở ra con đường mới cho chúng tôi. Chúng tôi bắt đầu bước vào con
đường “quay về cố hương” dưới sự hướng dẫn của chư Phật, Bồ-tát.
Một đêm thu năm 2005, Bồ-tát Quan Thế Âm thần uy
diệu lực một lần nữa lại ban ân cho chúng tồi. Hôm đó, Thiệu Hưng Lô Phong
Thiền Tự khai quang tượng Bồ-tát Quan Thế Âm đúng vào một giờ khuya. Tôi vì
muốn hoàn nguyện Ngài ban cho đứa con, nên cũng lên núi này tham dự.
Khuya hôm đó, đúng giờ đã định, Phật nhạc bắt
đầu tấu vang, tượng Bồ-tát tỏa hồng quang bủa khắp. Tôi nghe mọi người xúc động
nói:
– Đến rồi! Đến rồi!…
Lúc này đám đông ngoài điện nhốn nháo, xôn xao
ngẩng đầu lên nhìn, tôi cũng ngẩng đầu lên… thấy giữa không trung tuy là ban
đêm nhưng có luồng hào quang sáng chói, ánh Phật quang hiện rõ, to dần, mỗi
giây nhấp nháy một lần, tuy sáng rực rỡ nhưng không hề gây lóa măt, hào quang
trên không phát xuất từ hướng tây nam, di chuyển dần đến trên đỉnh điện thờ
Quan Thế Âm…
Sau này, tôi hòi tưởng lại, Phật quang đại khái
đã chiếu và nhấp nháy hơn 20 lần, khi đó tôi quá kích động, kinh ngạc, đến nỗi
đầu óc hóa thành hư vô, trống rỗng…Hiện trường khi ấy có sáu bảy trăm người cũng
đều xúc động ngẩn ngơ…
Tôi có thề khẳng định là đêm đó trời cực kỳ
trong và quang đãng, không một phiến mây đen hay điện chớp, hào quang này không
phải là đèn điện hay ảnh sáng do con người tạo ra, bởi vì diện tích và mức độ
chói sáng gấp trăm lần ánh điện nhân tạo. Hơn nữa, ánh sáng lại xuất phát từ
tít trên không và những người chứng kiến lại nhìn thấy đủ các hình ảnh không
đồng nhau: người thì thấy hoa sen, kẻ thấy hồng quang… thôi thì đủ kiều…
Từ đêm đó, tôi bắt đầu tin rằng Phật Bồ-tát
không phải là truyền thuyết hư vô hoang đường, mà thực sự có tồn tại, có thể
nhìn thấy rõ ràng…
Năm 2006, tôi dần dần tiếp xúc với Phật pháp,
quyển sách đầu tiên gây ảnh hưởng cực lớn cho tôi là cuốn “Báo ứng hiện đời” của
cư sĩ Quả Khanh, đã giúp tôi hiểu rõ nhân quả đáng sợ, rằng báo ứng không sai
mảy may.
Tôi biết chứng bịnh khủng khiếp hành vợ tôi là
do nhân quả, nhưng vì mới nhập Phật môn, nên tôi chưa hiểu được nguyên nhân
chính xác và cách giải quyết việc này ra sao.
Hơn 20 giờ ngày 18 tháng 11 năm 2006, tôi vừa
nghe xong thời pháp tại Huyền Trang Tự ở Nam Kinh, đang ngồi xe vượt 400km đề
quay về nhà. Lúc đó tôi mở vừa nghe pháp xong nên nhiệt huyết dâng cao như thủy
triều, cứ thầm hỏi:
“Liệu… mình có thể dứt khoát từ bỏ đồ mặn để ăn
trường trai hay không?”… Nhưng vừa nghĩ đến đây thì tôi bỗng e dè, khi nhớ tới
bao thức mặn ngon lành suốt mấy mươi năm qua mình từng thường thức: nào là bò,
gà, tôm, cá…đủ thứ hấp dẫn, việc phải từ bỏ những món khoái khẩu kia khiến tôi
đâm ra lưỡng lự, tự nghĩ: “Mình có nên… ăn mặn thêm mấy năm nữa hay chăng?”…
Đột nhiên di động của tôi reo vang, giọng vợ tôi
cuống quýt báo tin: con gái của tôi bị cảm, không thể uống sữa hay ngủ nghê gì,
nó cứ khóc thét từ sáng tới giờ, tính ra đã mười mấy tiếng rồi, người lớn trong
nhà và con bé ai cũng đuối đừ kiệt sức…
Tôi nhận điện thoại xong, lòng nóng như lửa đốt,
ước gì mình có cánh để bay liền về nhả. Ngay lúc tôi đang lo lắng rối ren, bỗng
tôi sực nghĩ: “Chẳng phải trong Phật môn có câu: hữu cầu tất ứng hay sao?”…
Thế là tôi chắp tay, chí thành khấn nguyện: “Xin
chư Phật Bồ-tát gia trì, cho con gái con bú sữa và ngủ được, con nguyện từ nay
trở đi sẽ ăn trường trai!”…
Chưa đầy mười phút, vợ tôi đã gọi điện báo tin:
- Anh đừng lo nữa, con đã bú sữa được vả ngủ
rồi!
Lập tức tôi bị kích động đến lệ tuôn đầm đìa,
bởi tôi cảm thấy việc này quả thần kỳ, Phật Bồ-tát quá từ bi! Các ngài biết rõ
những ý nghĩ không hay trong đầu tôi nên đã dùng cơ duyên này đề thúc đầy
tôi mau chóng bỏ mặn ăn chay, dứt ác theo thiện, bước vào con đường học Phật
chân chánh… Từ hôm đó trở đi, tôi biến thành người theo chủ nghĩa ăn chay
nghiêm nhặt.
Tháng 4 năm 2007, tôi theo cư sĩ Quả Khanh đến
Thiểm Tây, lòng đầy thắc mắc về căn bịnh vợ mình, nên tha thiết hướng ông cầu
chỉ giáo, ông hơi định thần một chút, hỏi tôi:
– Có phải bà nhà đã từng phá thai?
Khi tôi xác nhận, ông nói cách quả quyết:
– Đây chính là nguyên nhân!
Và ông ôn tồn căn dặn tôi nên ăn chay, tụng kinh
siêu độ cho thai nhi…Tháng 5, thông qua ông tôi được gặp cư sĩ Quả Hồng, đối
với bịnh trạng của vợ tôi, cô khẳng định: “Chắc chắn là do phá thai mà chiêu
cảm quả khổ như thế!”…
Cô bào tôi khuyên vợ ăn chay, chân thành sám hối
tội lỗi đã tạo và nên tụng “Phật Thuyết Trường Thọ Diệt Tội Hộ Chư Đồng Tử Đà
La Ni Kinh”, đồng thời cô không chút khách khí, thẳng thắn chỉ ra vô cùng chuẩn
xác những lỗi sát, đạo, dâm, vọng… mà tôi đã phạm, khiến nội tâm tôi bị chấn
động kịch liệt lẫn hối hận đan xen, xấu hổ vô cùng… Cô đã cho tôi thấy kiến
thức Phật pháp thần kỳ, càng thêm kiên định niềm tin: “nếu hành đúng theo pháp
Phật, chúng tôi có thể chữa lành căn bịnh nan y”…
Tháng 5/2007 dưới sự khuyên lơn ôn tồn lẫn đanh
thép, ân uy có đủ của tôi, vợ tôi miễn cưỡng thực hiện việc bỏ mặn ăn chay.
Nàng vốn là một tay sành ẩm thực, khoái mỹ vị cao lương… nhưng giờ đây đối diện
với căn bịnh khổ khó kham, nàng đành phải nhượng bộ một bước, nhưng rất không
cam tâm tình nguyện, lòng còn bán tín bán nghi…
Quả tình đối với một kẻ vô thần chưa từng tiếp
xúc qua Phật pháp như nàng thì việc bắt nàng tụng kinh còn khó hơn ăn chay rất
nhiều, vì vậy, mặc cho tôi yêu cầu đủ cách, nàng nhất quyết không chịu tụng
kinh niệm Phật.
Tháng 7, tôi cương quyết từ bỏ công tác sự
nghiệp tại Bắc Kinh, quay về bên cạnh vợ tôi. Xem như việc tụng kinh… sẽ do tôi
đảm nhiệm và hoàn thành. Tôi hiểu mình có hai trọng trách:
1. Tôi phải tu theo Phật pháp không hẳn là vì
bịnh của vợ, mà vì muốn cứu đứa con đáng thương từng bị phá bỏ.
2. Việc làm này xem như là thể hiện nỗi
niềm ăn năn chuộc lỗi, muốn bù đắp cho con, hi vọng sẽ an ủi vong thai và được
cháu tha thứ, giúp cháu ly khổ đắc lạc, vãng sinh cõi lành.
Mồng 8 tháng 8 tôi bắt đầu tụng “Phật Thuyết
Trường Thọ Diệt Tội Hộ Chư Đồng Tử Đà La Ni Kinh” và “Kinh Kim Cang”, mỗi ngày
một-hai bộ, đương nhiên trước và sau khi tụng kinh, tôi luôn chân thành nói với
đứa bé, giải thích rằng việc phá thai ngày ấy khiến chúng tôi rất đau lòng, giờ
tôi xin sám hổi tội ngu si tàn độc của mình và an ủi, vỗ về tâm tư oán hận
tuyệt vọng của hài nhi… Có lúc tôi buồn nghẹn ngào đến khóc không thành
tiếng…
Sự việc kỳ diệu phát sinh, đến cuối tháng, vào
những ngày chu kỳ, vợ tôi không còn bị hành đau thống thiết nữa…Lúc đó chúng
tôi cũng cho là có thể nhờ tác dụng của châm cứu thuốc men…
Ngày 10 tháng 9 vợ tôi không châm cứu hay dùng
thuốc chi nữa, tôi tiếp tục tụng kinh chuyên cần, vợ tôi một lần nữa được bình
an vô sự. Nhưng chúng tôi vẫn còn cho rằng: có lẽ nhờ di chứng phẫu thuật một
bên buồng trứng (năm 2005), kích thích tố nữ hạ nên thành vậy.
Đến tháng 11, khi vợ tôi tới bịnh viện kiểm tra
kích thích tố nữ, kết quả tất cả đều bình thường. Chúng tôi vẫn chưa yên tâm,
bèn đi hỏi cư sĩ Quả Hồng. Cô xác nhận:
– Đứa bé thật sự đã đi rồi, hơn nữa còn ra đi
với tâm tư rất vui vẻ…
Bấy giờ chúng tôi mới tin phục. Trong khoảng
thời gian này xảy ra một việc thú vị. Tính đến đầu xuân năm 2008, vợ tôi lành
bịnh đã được 6 tháng nên hầu như nàng cũng quên béng cảm giác đau từng hành hạ
mình… Nhất là khi đối diện với những mâm cỗ đại tiệc mừng năm mới, nhìn từng
bàn từng bàn ê hề thịt cá, chưng đầy mỹ vị cao lương, càng kích thích bản tính
khoái ăn ngon của nàng, nàng chép miệng thèm thuồng và mấy lần than thở với tôi
một cách ai oán:
– Anh à, ăn chay cả đời như thế này em chịu
không nổi đâu! Đến tháng tư nảy xem như ăn chay đã mãn năm, lúc đó em sẽ ăn mặn
lại…
Nàng vừa tuyên bố xong thì ngay thang giêng đó
cơn bịnh khủng đáng sợ bỗng xuất hiện, dường như nó đang ngấm ngầm bộc phát
khiến vợ tôi bắt đầu hoảng loạn, sợ hãi…
Thời may, hôm ấy chúng tôi cùng cư sĩ Quả Hồng
đi Thượng Hải, Nam Kinh, Hàng Châu và cùng một số cư sĩ đến phóng sinh ờ Tây Hồ
(Những liên quan đến chuyến phóng sinh này đều được đài truyền hình Triết Giang
trình chiếu và báo Tiền Giang đăng tin vào ngày 25 tháng 12). Lúc ăn trưa nơi
tiệm chay, tôi hỏi Quả Hồng (cùng ngồi chung bàn):
- Vợ tôi lại đau nữa, có phải là do đứa bé quay
về chăng?
Quả Hồng đáp:
– Không phải! Là tại vợ anh nói lời lật lọng,
BỘI TÍN, PHẢN NGUYỆN!…
Vợ tôi ngồi bên xanh mặt, nàng hoảng sợ tới nỗi
chẳng còn dám hó hé đá động gì tới chuyện “ăn mặn lại”… Đương nhiên tháng kế đó
nhờ vợ tôi biết kìm cương trước vực thẳm, (dừng kịp trước hiểm nguy) nên cơn
bịnh dữ không còn tái hiện hoành hành. Kề từ đó vợ tôi cũng chừa hẳn, chẳng dám
nói hay tơ tưởng gì đến chuyện ăn mặn và nàng được bình an mãi cho đến ngày
nay.
Chúng tôi lại một phen được luật nhân quả “dạy”
cho một bài học, đã biết sự và tin “trên đầu ba thước có thần linh”, đã hiểu
rằng từng cử chỉ lời nói, mỗi khởi tâm động niệm của chúng tôi… thảy đều nằm
trong tầm nhìn của thần minh, đều bị luật nhân quả chi phối, vận hành.
Đến nay đã gần hai năm, vợ tôi đã hết bị cơn
bịnh khủng hành, chứng táo bốn và các bịnh lớn nhỏ gì cũng dần tiêu tan. Các
bằng hữu bác sĩ của tôi nói:
- Thông thường bịnh này phát mỗi lúc càng nặng,
vợ anh không do phẫu thuật, không nhờ uống thuốc mà được lành, thì phải nói đây
là đại kỳ tích!
Chúng tôi xin cảm tạ Phật pháp, cảm tạ các thiện
tri thức đã kiên nhẫn chỉ dẫn giúp chúng tôi phá mê, bỏ xấu. Cảm tạ đứa con đã
thông cảm, tha thứ, chịu xả oán hờn ra đi. Càng cảm tạ cháu đã dùng phương thức
này để cứu độ hai đấng sinh thành ngu si, khiến chúng tôi biết dừng trước vực
thẳm, lội ngược giòng, lìa xa chốn mê.
Giải thích thêm: Kỳ tích “sống lại từ chỗ
chết” phát sinh và bắt nguồn từ tâm tỉnh giác tu sửa. Người không muốn chết thì
trước phải biết “chết ngay khi còn đang sống” có nghĩa là phải chết hết mọi
thói tật! (phải chết trụi lủi những tính tham, sân, si mạn, nghi, tà kiến…
những gì trải đạo không đúng pháp)… Ngoài ra, còn phải biết thành tâm sám hối,
sửa lỗi, bồi đức… y theo giới định huệ, đúng pháp mà tu hành, thì sẽ thay đồi
cuộc đời. Hiểu rõ Phật pháp rồi, thi dù kỳ tích có xảy ra cũng là chuyện rất
bình thường!
26. DIỄM TUYẾT
Lần đầu tôi gặp Diễm Tuyết trong “Pháp Hội Thủy
Lục” tổ chức tại chùa. Lúc đó cô đứng sau lưng tôi, do người đông, tôi bị chen
lấn xô va vào Diễm Tuyết. Sau đó, khi biết là cô có thai đã mấy tháng, tôi liền
tìm chỗ cho cồ ngồi nghỉ. Xong buổi lễ, Diễm Tuyết đối với tôi cực kỳ tin
tưởng, cô buồn rầu kể cho tôi nghe chuyên gia đình mình.
Diễm Tuyết 26 tuổi, kết hôn đã hơn hai năm. Hồi
mới cưới, anh Trương chồng cô rất quan tâm yêu thương vợ, lảng xăng chăm sóc đủ
điều, khiến Diễm Tuyết vô cùng vui sướng, dệt đầy mộng đẹp về tương lai. Nhưng
tiếc thay, “hạnh phúc thường không kéo dài”, chẳng bao lâu, mái ấm êm đềm nảy
đã bị sự xuất hiện của người thứ ba là Diệp tiểu thư, phá vỡ.
Mới đầu anh Trương chỉ lén lăng nhăng qua điện
thoại… dù có tình cờ đọc phải tin nhắn của cô Diệp, Diễm Tuyết vẫn ngây thơ
chưa phát hiện ra. Nhưng sau đó thấy chồng đi làm hay la cà ở ngoài, đêm cũng
không về ngủ, lòng Diễm Tuyết rất bất an, nhưng cô vẫn đinh ninh là “có lẽ do
chồng mình quá bận việc, nên không rảnh để quan tâm đến mình”, cô không dám
nghĩ đến điều rủi ro, bởi lúc này cô đã có thai.
Một ngày mùa đông, cô tình cờ phát hiện mối giao
du bất thường giữa chồng mình và tiểu thư Diệp, bao hi vọng của Diễm Tuyết ngay
đây tan vỡ…
Sự thực còn phũ phàng hơn, khi chồng cô ngang
nhiên thừa nhận tình yêu dành cho ả họ Diệp, còn nói là họ đã sống chung với
nhau! Đối diện với sự phản bội của chồng, Diễm Tuyết cực kỳ thất vọng, tim như
bị xẻ nát… phẫn nộ đến tận cùng… thế là cuộc gây cãi nổ ra, nhưng hai bên chưa
nhắc gi đến li hôn. Diễm Tuyết thống khổ trăm chiều, muốn tâm được an ổn giải
thoát, cô bèn tìm đến Phật pháp và siêng năng tham dự các lễ hội trong chùa. Cô
hi vọng nhờ Phật lực gia trì, giúp cô vơi bớt niềm đau… Nhìn Diễm Tuyết thân
đang mang thai, nghẹn ngào kể lể, khóc không thành tiếng, trong lòng tôi đầy
thương xót, cảm thông… tôi nắm lấy đôi bàn tay lạnh giá của cô, không ngừng vỗ
về an ủi…Thực ra nguyên nhân thống khổ này bắt nguồn từ câu chuyện kiếp trước,
do chính cô tạo ra:
“Vào niên đại 1930, trong giới quý tộc giàu sang
ưa ăn chơi tại Thượng Hải, có một nhà kinh doanh trẻ tuổi họ Kỳ rất nổi tiếng.
Trong một buổi dạ yến, anh Kỳ quen cô vợ của một đại gia họ Trần, hiền thục quý
phái. Tuy Kỳ đã có vợ con đùm đề, nhưng nét mỹ miều của Trần phu nhân đã khiến
trái tim anh rung động đắm say; thế là họ Kỳ nghĩ cách phải chinh phục giai nhân
cho bằng được…
Do vậy mà cứ năm-ba hôm anh lại đến Trần gia,
biếu tặng nhiều trang sức đắt giá… Cuối cùng, Trần phu nhân trẻ tuổi cũng bị
“cưa đổ” và ngã vào vòng tay họ Kỳ. Khi ông Trần hay được chuyện này, đất trời
như sụp dưới chân; vì danh dự gia tộc nên ông ráng nén giận, nhẫn nhịn, nuốt
hết cay đắng vào lòng…Kể từ đó trở đi, ông Trần chỉ biết mượn rượu giải sầu,
suốt ngày say sưa, tự cam dọa lạc, vì vậy mà gia nghiệp mau chóng rụi tàn, lụn
bại.
Phần anh Kỳ và bà Trần, do tính khí không hợp
nên thường xuyên bất hòa, cuối cùng họ cũng chia tay. Cả hai gia đình đều lâm
vào cảnh “thê ly tử tán”, kết thúc trong bi thảm”…
Anh Kỳ hào hoa bay bướm kiếp xưa, giờ chính là
Diễm Tuyết. Còn Trần phu nhân chuyển sinh thành anh Trương (chồng Diễm Tuyết
hiện thời). Riêng Trần tiên sinh, người chồng đau khổ bị phụ tình, nay chính là
cô Diệp (giờ đang xuất hiện trong vai người thứ ba) xen vào phá tan mái ấm của
DiễmTuyết (trả lại nỗi đau bị đoạt người phối ngẫu trong kiếp xa xưa lại cho
địch thù)…
Đời này, mối quan hệ (vận hành theo luật nhân
quả trả vay) đã khiến ba người gặp lại nhau, khác chăng là giới tính đã thay
đổi. Nhưng do những ác nghiệp đã tạo thuở xa xưa mà người trong cuộc phải nếm
lại mùi vị thống khổ từ bi kịch hôn nhân này!
Tôi bảo Diễm Tuyết:
– Bạn đừng khởi tâm hận oán chồng nữa, bởi trong
quá khứ bạn từng đoạt vợ người, nên kiếp này mới nếm cảnh phụ phàng, bị người
giựt… lại!
Đã bước vào đường học Phật, thì phải tin sâu
nhân quả, bạn nên sám hối tội nghiệt đã tạo kiếp trước của mình, hãy tụng 49 bộ
“Kinh Địa Tạng” hồi hướng cho chồng và cô Diệp để chuộc lỗi xa xưa…Nếu bạn chịu
thành tâm sám hối, tụng kinh, ăn chay, phóng sinh v.v… thì tương lai, đời bạn
sẽ hạnh phúc.
Diễm Tuyết mắt đầy lệ, mỉm cười gật gật đầu.
Sau này, khi gặp lại Diễm Tuyết, tôi nhận không
ra. Vì trông cô trẻ đi rất nhiều, mặt mày hồng hào, cười rạng rỡ. Rất dễ dàng
nhận thấy, cô đã đạt được giải thoát an vui, nhờ vào pháp Phật!
27. MỐI TÌNH TAY BA
Hiểu Mỹ là một nữ doanh nghiệp xinh đẹp, giàu
sang, thành đạt. Nàng cùng chồng là An Vĩ sống hạnh phúc với hai con: một trai
một gái, chúng thông minh, ngoan ngoãn… Ai cũng khen đây là đôi uyên ương lý
tưởng. Nhưng chính nhan sắc, thành công và sự duyên dáng của Hiểu Mỹ đã khiến
nàng phạm phải sai lầm, tự phá tan mái ấm của mình.
Trong một lần công tác, Hiểu Mỹ gặp và quen anh
chàng họ Điền, hai bên “nhát kiến chung tình” (vừa nhìn đã yêu), cảm thấy vô
cùng ý hợp tâm đầu, luyến ái ngày càng sâu đậm. Họ đắm chìm trong lưới tình,
thương nhau mê mệt, yêu đến chết đi sống lại…
Anh Điền vì muốn có được Hiểu Mỹ mãi mãi, nên đã
chủ động tìm đến An Vĩ, thông báo mối quan hệ mật thiết này, đề nghị An Vĩ hãy
ly hôn với vợ.
An Vĩ về nhà, trong cơn phẫn nộ đã ra tay đánh
Hiểu Mỹ trước mặt hai con. Hiểu Mỹ bị đánh rất căm giận, kiên quyết đòi ly hôn,
nhưng An Vĩ chẳng đáp ứng. Nhờ bạn bè giới thiệu, Hiểu Mỹ tìm đến tôi, sắc diện
tiều tụy, mặt tái nhợt, khóc lóc kể lại sự tình đã qua…
Tồi nghe xong bảo:
– Hiện thời chị không thể ly hôn, bởi vì mối
quan hệ giữa chị và anh Điền là tà dâm! Đây là tình tội lỗi, nếu phát triển
tiếp thì sẽ càng thống khổ nhiều hơn! Vì anh Điền cũng đã có vợ, gia đình đang
êm ấm, lại còn có một con gái nữa…
Ngừng một lúc tôi nói tiếp:
– Chị và anh Điền vì xao động tình cảm nhất thời
mà đòi vứt bỏ hết tát cả đề kết hợp với nhau, thế thì quả báo cả hai phải gánh
lấy chắc chắn sẽ rất thảm khốc!…
Nhìn vào ánh mắt hoài nghi của Hiểu Mỹ, tôi cảnh
báo:
– Có đến với nhau bây giờ thì chỉ trong
thời gian ngắn nữa, hai người sẽ phải chia tay nhau thôi. Do chị chưa đoạn sát
nghiệp, còn ăn mặn, lại phạm thêm trọng tội tà dâm!… nếu chị không biết ăn năn
sám hối, thì sẽ mắc binh phụ khoa hiểm nghèo và qua đời khi chưa đến 40 tuổi…
Hiểu Mỹ nghe nói cả kinh, vội hỏi:
– Tôi gần đây nghe bụng dưới đau râm râm khó
chịu, có thật là tôi sẽ bị bịnh phụ khoa? Năm nay tối 36 tuổi rồi, vậy làm sao
thoát khỏi kiếp nạn này?…
– Chị hãy quay về với phu quân, dốc hết sức thực
hiện chu toàn bổn phận làm mẹ, làm vợ, hãy chăm sóc chồng con chu đáo và phải
đoạn tuyệt hẳn, không được dan díu với anh Điền nữa! Kể từ hôm nay chị phải
tụng 49 bộ “Kinh Địa Tạng”, lo ăn chay, phóng sinh, nghiêm trì ngũ giới, siêng
học Phật tu hành…
Hiểu Mỹ nghe xong gật đầu nói:
– Tôi về nhà sẽ làm như lời cô dạy.
Nửa tháng sau, Hiểu Mỹ mặt mày hồng hào tươi
tắn, đến thăm chúng tôi… Vừa gặp, cô đã nắm tay tôi nói:
– Hiện tại tôi đã cắt đứt, không gặp anh Điền
nữa…
– Chị nhớ kiên trì tụng kinh hồi hướng, dứt ác
hành thiện, trì giới tu hành, xem như đổi mới cuộc đời lại hết kể từ đây…
Hai tháng sau, cuộc sống Hiểu Mỹ đã chuyển tốt.
Hằng ngày chị tụng kinh, sám hối những lỗi sal lầm trước đây và âm thầm hành
thiện tích đức. Không những thế, cả nhà chị đã bắt đầu ăn chay, học Phật, cuộc
sống gia đình trở nên hạnh phúc, ấm êm… nhờ vậy các con an khỏe, trưởng thành,
thăng tiến.
Phần anh Điền, mới đầu không cam tâm bỏ cuộc,
không chịu rời xa Hiểu Mỹ… Tôi phải khuyên lơn giải thích, phân tích lợi hại đủ
điều, cuối cùng mới dàn xếp ổn thỏa.
Kể lại câu chuyện này, tôi mong rằng các mái ấm
trong nhân gian luôn sống hòa thuận, an vui. Hi vọng tất cả cặp vợ chồng sẽ
thủy chung đối với nhau tương thân tương ái. Xin quý vị đừng vì xao động nhất
thời mà phát sinh ngoại tình. Quả báo tà dâm rất đáng sợ, ngoài kết cục “người
mất nhà tan”… còn chiêu lấy thảm báo ở địa ngục. Khi khởi tâm ngoại tình hay
nuôi dưỡng ý tà, là quý vị tự phá tan phúc báu hiện có, nghĩa là tài, lộc quyền
đều bị sạt!… Ai cũng tưởng sát sinh mới đoản mệnh, nhưng thực ra tà dâm cũng
chiêu lấy quả báo bị các bịnh hiềm nghèo, tán tài, mất phúc, lộc và đoản mệnh!…
Chết rồi còn vào địa ngục chịu khổ.
Xin mọi người hãy nghiêm trì giới luật, chẳng
nên để ngoại cảnh dụ dỗ… Nếu người lỡ phạm tà dâm, thì ngay đây nên hạ quyết
tâm từ bỏ, tha thiết sửa đồi lỗi trước, phát nguyện sám hối, vĩnh viễn không
tái phạm!… Như vậy mới có thể chuyển đỗi vận mệnh mình thành tốt đẹp. Lời người
dịch:
Hiểu Mỹ ngoại tình, bị Quả Hồng cảnh báo nếu
tiếp tục, sẽ không hạnh phúc với tình nhân, còn mắc bịnh phụ khoa nan y và chết
yểu!
Vậy thì ắt độc giả sẽ có người thắc mắc, nói
rằng: “Thấy trên thế gian này cũng có nhiều kể ngoại tình và họ ra đi xây tổ
uyên ương với người mới cũng đâu bị báo ứng gi?…
Chúng ta có thể lý giải như sau: Người làm ác mà
chưa bị báo ứng liền, là do phúc họ còn nhiều. Một khi phúc suy, quả báo sẽ ập
tới…Vả lại, bạn chỉ đứng bên ngoài nhìn, đâu theo sát một bên (cũng chẳng phải
người trong cuộc để cảm nhận được những bất hạnh mà “kẻ ngoại tình” phải thảm
nếm trải), nếu bạn theo dõi lâu dài, ắt sẽ thấy diễn tiến sau này đa số đều xảy
ra đúng như lời Quả Hồng đã cảnh báo…
Còn nữa, trong chuyện Diễm Tuyết, cô Diệp tuy ở
vị kẻ thứ ba, nhưng cô xuất hiện để dôi nợ và báo thù… (trả lại những thống khổ
mà đối phượng từng gieo cho mình kiếp trước). Bởi kè có lôi trong đây là Diễm
Tuyết (nên hiện đời không được phép oán giận) ngược lại, còn phải tạo nhiều
phúc thiện để hồi hướng cho cô Diệp, hầu cứu chuộc lỗi xưa…
Do vậy mới có những chuyện tình oan trái bất
công, “Phụ tình mà không thấy báo, phá gia can mà chẳng thấy trả quả”… là vì
những ẩn khuất trong đó ta chưa hiểu, chứ luật nhân quả vận hành không bao giờ
sai. Riêng chuyện Hiểu Mỹ, khi không mà tạo tội, thì sẽ lãnh ác báo như
Quả Hồng đã cảnh cáo…
Phần đông người ta phạm lỗi vì không hiểu luật
nhân quả, nếu am tường rồi thì ắt sẽ không cam lòng tạo tội… Vì nếu so sánh, sẽ
thấy chạy theo tình cảm nhất thời niềm vui không bao nhiêu mà hậu quả thống khổ
phải trả… lại vô cùng tận. Nếu đặt lên bàn cân, người khôn ngoan sẽ biết chọn
điểu thực sự có lợi cho mình…
Người ta thường nói Phật pháp là xuất thế, không
dính gỉ đến thế gian, ấy vậy mà Phật pháp lại “tác hợp” cho thế gian vô cùng
tốt đẹp. Để tôi kể bạn nghe câu chuyện thực mình từng chứng kiến:
Tôi quen Nhã Lan, cháu khoảng 26 tuổi, rất xinh
đẹp, tốt nghiệp trường điện ảnh, hành nghề không bao lâu thì cháu kết hôn với
một mỹ nam tuấn tú, hộ đối môn đăng và giải nghệ, sống bình thường như bao mái
ấm khác. Nhưng phu thê Nhã Lan là đôi trai tài gái sắc, mà tài sắc trong
nhân gian luôn là tiêu điểm để phản đông người ta theo đuổi tranh giành”…
Do vậy mà hôn nhân Nhã Lan nằm bên bờ vực tan
vỡ, vì ai cũng có người theo đuổi, nếu cả hai vợ chồng đổng không chung thủy
thì chuyện chia tay là đương nhiên.
Có lần Nhã Lan gọi điện cho tôi tấm tức khóc kể:
– Cô ơi, con không muốn sống nữa, chắc con chết
quá!
Vừa nghe cháu than, tôi hiểu ngay: trong đời
người ta thường đau khổ vì “sự nghiệp, danh vọng, tình cảm”… bất như ý, Nhà Lan
có đầy đủ hết nên tôi đoán chỉ có tỉnh mới làm cháu buồn dữ vậy…
Ắt là do đức lang quân có nhiều cô đeo đuổi đã
khiến cháu sầu khổ. Vì vậy tôi bảo:
– Kiểm lại xem trong đời con có từng làm khổ ai
chưa?
– Dạ có, rất nhiều, nhiều lắm.
– Vậy thì xem như con đang trả quả đi! Nếm lại
khổ đau để thông cảm với những người từng bị con làm khổ…
Lúc ấy tôi rất bận, do phải tiếp hai cuộc điện
thoại bất ngờ và quan trọng cùng lúc nên không kịp nói gì nhiều với Nhã Lan, mà
cháu đang buồn nên cũng không muốn nói năng chi nhiều…Sau đó cháu kể tôi
nghe, lúc đó đang rất muốn tự tử, nhưng câu nói “Xem như con trả quả đi” của
tôi làm cháu bừng tình và quyết tâm vượt qua khổ đau.
Sau đó hai vợ chồng cháu được một cao tăng hướng
dẫn, trước tôn tượng Phật họ thệ sẩm hối mọi lỗi xưa, nguyện sống chung thủy,
nghiêm trì ngũ giới, tu theo Phật pháp…
Vậy mà kể từ khi phát thệ xong, cả hai vợ chồng
đều sống hạnh phúc, nhờ tuân thủ giới Phật nên ra ngoài họ chẳng để mắt tới
ngoại nhân nào khác, sống tuyệt đối chung thủy, tin tưởng nhau và không bao giờ
nói dối… Hiện tại Nhã Lan sống rất êm ấm, cháu từng tâm sự với tôi:
Con không mơ giàu sang, danh vọng hay bất kỳ thứ
gì khác, sống an phận như vầy mà hạnh phúc… là đủ rồi. Ngày ngày tự kiểm lỗi
mình để không phạm sai, càng hành trì theo pháp Phật tụi con càng hạnh phúc.
Nhờ vậy mà vợ chồng tin nhau tuyệt dối… ai mà nói xấu con là ảnh binh liền, ai
mà nói xấu ảnh con cũng binh!… vì biết đôi bên đểu lo giữ giới, không dám tạo
tội phạm lỗi nữa… Chẳng còn ai lo ai ngoại tình… chẳng ai thèm canh ai… vì đã
có giới pháp của Phật bảo vệ mình rồi! Tụi con cứ thế mà sống, cứ thế mà tích
đức tạo phúc, gieo nhân an ổn từ đời này mãi đến đời sau…
Nghe cháu nói mà vui. Ai bảo Phật pháp không đem
lại hạnh phúc cho người thế gian chứ!
28. QUẢ BÁO TÀ HẠNH
Hiện nay y học đã chứng minh, hành vi tà dâm sẽ
dẫn đến nhiều bịnh như Giang Mai, bịnh Lậu, Si-đa v.v… còn Phật pháp nhìn từ
góc độ luân hồi trong lục đạo, đã cảnh báo chúng ta rằng: hành vi tà dâm chiêu
ác báo không chỉ đời này mà kéo dài đến nhiều kiếp sau…
Trong một buổi họp mặt các bạn đạo, có đôi vợ
chồng trẻ dẫn một bé gái khoảng 2 tuổi đến, cầu xin mọi người giúp đỡ. Cha mẹ
bé khóc lóc, kể lể con gái mình bất hạnh như thế nào…
Nguyên bé gái này chỉ mới 2 tuổi nhưng bị chứng
bịnh ung bướu ác tính nan y. Nghiêm trọng hơn nữa là ung bướu mọc rất to ngay
tại âm đạo. Song thân của bé như bị “sét đánh vào đầu”, không sao hiểu được lý
do – Bé chỉ mới hai tuổi, vì sao lại vướng bịnh phải bịnh nặng này? – Đáng sợ
hơn nữa là, bác sĩ bảo muốn trị bịnh này chỉ có nước phẫu thuật, nhưng xác suất
thành công rất thấp. Mà nếu không mổ thi bịnh phát tác, sẽ làm nguy đến tính
mạng. Vì vậy cặp vợ chồng trẻ này rất khổ tâm, nghĩ hết cách cũng không biết
làm sao cho ổn.
Bé gái khi bịnh hành rất đau đớn, “cầu sống
không được, cầu chết không xong”, khiến người thân phiền muộn đầy lòng, cùng
đắm chim trong thống khổ vô biên.
Tôi và các bạn cư sĩ rất cảm thông cho bé, cảng
tin sâu đây là nghiệp báo trọng tội đang hiển hiện. Tôi quán sát một hồi, thì
phát hiện ra nguyên nhân:
“Bé gái này tuy chỉ hai tuổi, nhưng đời quá khứ
nó là nam nhân, đã phạm tội tà dâm rất nặng. Không những phá hoại gia đình
người, mà còn cưỡng hiếp, giết gái nhà lành rất ác độc, gây nên thảm cảnh
“người mất nhà tan”. Hồn người bị hại chết oan, ôm phẫn nộ căm thù thề đeo theo
báo oán, làm cho bé gái ngay hiện đời bị ung bướu ác tính, thống khổ đến tận
cùng”.
Tôi nghiêm túc bảo song thân bé gái:
– Hai vị cần phải giúp bé sám hối, tụng 49 bộ
“Kinh Địa Tạng”, hồi hướng cho oan gia kia.
Tôi chưa nói xong, thì bỗng nghe “đụi” một
tiếng, bé gái đã quỵ xuống trước tượng Phật, mắt tuôn ràn rụa lệ hối lỗi, ánh
nhìn chứa đầy vẻ van xin chúng tôi hãy cứu sống nó (dù nó chưa nói rành). Mọi
người đều ngạc nhiên, cha mẹ bé bật khóc, tôi xót thương bế đứa bé gầy gò lên,
nhìn vào đôi mắt mờ mờ đầy vẻ khẩn cầu của nó và bảo:
– Con nhất định phải sám hối trước Phật cùng mẹ,
hễ mẹ đọc một câu thì con cũng đọc theo một câu và phải phát nguyện vĩnh viễn
không làm thương hại đến bất kỳ người hay vật nào…
Và tôi quay sang song thân bé, dặn dò:
– Hai vị phải tụng kinh, ăn chay, phóng sinh
thật nhiều cho bé, tích góp từng chút thiện sự…đem công đức đó hồi hướng cho
oan gia trái chủ của bé, cầu họ tha thứ, buông xả oán thù cho..
Sau khi về nhà, cả ba người quỳ trước Phật thành
tâm sám hối, cha mẹ làm y theo lời tôi dặn và chí thành tụng kinh hồi hướng cho
những người từng bị đứa bé làm hại trong quá khứ… Kỳ tích xuất hiện: hôm sau
đứa bé đau đớn giảm nhiều. Thầy vậy toàn gia càng tinh tấn ăn chay, tri giới,
tụng kinh, niệm Phật…Nhờ vậy ung bướu của bé bắt đầu teo nhỏ đi. Láng giềng
chung quanh nhìn thấy trên thân bé hiện kỳ tích, cũng xúm nhau học Phật tập tu.
Nguyện cho cả nhà họ sớm ly khổ đắc lạc, sống
khang kiện hạnh phúc. Chỉ cần họ chịu ăn chay trì kinh, siêng năng sám hối sửa
lỗi, bé gái này nhất định sẽ khỏi bịnh.
Cuối cùng, tôi xin khuyên những vị phóng túng tà
dục, lấy đây làm gương, chớ nên đắm mê trong sắc dục, làm thế là hại mình hại
người. Đời này không những khiến thân thể suy yếu, yểu mệnh, mà đời sau còn mắc
đủ ác bịnh, thậm chí còn bị đọa vào địa ngục, súc sinh… thọ đủ thống khổ… Thân
người khó được, xin hãy biết quý trọng!
29. ÁC BÁO SÁT SINH
Đầu xuân, trên chuyến tàu hỏa về thăm nhà, tôi
gặp đôi vợ chồng trẻ dẫn theo đứa con gái ba tuổi đi khám bịnh. Khi chuyện trò
mới biết bịnh đứa bé này có sẵn từ lúc mới sinh, rất khó trị.
Cha của con bé vén lưng nó lên cho tôi xem, thật
khiến người ta giật mình kinh ngạc: nhìn mặt bé gái thanh tú khả ái là vậy,
nhưng trên lưng nó nổi đầy mụt bỏng lớn, nhỏ, cao, thấp bất đồng… nằm lộn xộn
hỗn loạn (giống như người bị phỏng nước sôi nghiêm trọng). Nghe hai vợ chồng
khổ đau kể lể… trước mặt tôi bỗng hiện ra một hoạt cảnh:
“Có một con mèo rừng lông xám đen, thường đến
nhà vợ chồng nông dân nọ để ăn vụng…Ngày nọ, ông chồng mua 10 con vịt về thả
trong vườn nuôi. Nhưng cứ qua một ngày thì mất hai con vịt. Tới ngày
thứ ba, ông bí mật rình xem thì phát hiện hung thủ chính là con mèo rừng. Thế
là hai vợ chồng bèn đặt bẫy bắt được nó, họ đem nhốt trong lồng sắt, rồi dùng
cây nhọn chọt, đâm nó tàn nhẫn… vừa đánh vừa mắng:
– Đồ súc sinh này dám trộm vịt nhà chúng tao! Mi
chẳng được chết yên lành đâu!
Thấy con mèo đã bị thương mà còn ráng sức giẫy
giụa, họ bèn ra tay tàn độc, nấu nước sôi đem chế lên lưng nó… Con mèo rừng đau
đớn, thét la mãi cho đến khi chết đi, hai vợ chồng mới dừng tay.
Lúc ấy bà vợ đang mang thai… thần thức con mèo
rừng ôm đầy oán hận liền đoạt xá (giành chỗ – nhập vào thai) kết quả nó sinh
làm con gia đình này, bây giờ chính là cô bé trước mắt đây….
Tôi hỏi hai vợ chồng:
– Có phải các vị từng làm một con mèo rừng chết
phỏng?
Người chồng nghe nói, mặt mày tái nhợt, giật
mình lẫn ngạc nhiên, căng thẳng đáp:
– “Ngài” làm sao mà biết được ba năm trước chúng
tôi có giết một con mèo rừng hả?
– Con gái hai người bị bịnh, là thuộc bịnh nhân
quả, chỉ có tu theo Phật pháp mới có thể giúp cả nhà các vị…
– Dạ thưa ngài, chúng tôi đều tin Phật, năm nào
cũng đến chùa thắp hương, lễ Phật cầu bình an…
– Học Phật chân chính không phải là cứ nhắm mắt
thắp hương, lễ cầu bình an. Làm vậy là ngoài tâm cầu pháp! – Các vị phải sửa bỏ
tật nóng nảy và tính khí không lành của mình đi! – Sau khi về nhà, nhất định
phải sám hối sát nghiệp đã tạo trong quá khứ, phải ăn chay và tụng 100 bộ “Kinh
Địa Tạng”, còn phải dốc sức phóng sinh, hồi hướng cho con gái mình. Bởi vi hai
người đã tạo sát nghiệp kết thành ác duyên, nên mới có đứa con như thế…Hai vợ
chồng vừa sợ vừa mừng, tỏ vẻ ăn năn. Ngay đó họ phát nguyện sẽ vì đứa bé ăn
chay, tụng kinh hồi hướng, sau khi về sẽ tu tập tốt như lời dặn…
Giải thích thêm: Nhân loại chúng
ta tự cho mình là loài chí linh trong vạn vật, vì tư dục mà ra tay tàn sát sinh
linh không có chút từ tâm thương xót. Ngài Tuyên Hóa từng nói, ngàn vạn lần
chẳng nên kết oán cùng chúng sinh, nếu không, khi quả báo ập đến chúng ta sẽ
khổ không kham nổi…
Chúng ta tin Phật thì phải tin sâu nhân quả,
nghiêm trì giới luật “Đoạn ác: là giúp mình đóng lại cành cửa bước vào địa
ngục. Tu thiện: là mở ra cánh cửa thiên đường cho mình. Học Phật: là tu tập,
bước vào con đường rạng rỡ quang minh thoát ra tam giới”…
30. CẢNH SÁT VÀ PHÚ ÔNG
Tiết Thành và Sử Đình là một đôi phu thê thương
nhau thắm thiết. Anh thì tuấn tú khôi ngô, sự nghiệp thành đạt, Chị thì xinh
đẹp, quý phái tao nhã… trong mắt mọi người, họ được ví như đôi kim đồng ngọc
nữ.
Thế nhưng, đôi vợ chồng được thiên hạ ngưỡng mộ
trầm trồ này thường thở vắn than dài, sầu muộn ủ rũ. Số là họ có hai con gái:
bé út tên Bảo Châu, do “cầu tự” mà có được nên cả nhà rất cưng yêu chìu chuộng…
Bảo Châu rất thanh tú khả ái, đối với người
ngoài bé rất ngoan. Nhưng khi chỉ có một mình với gia đình thì bé luôn tỏ ra
nóng nảy giận dữ, thường hét gây, hễ gặp người thân là đánh. Tiết Thành vì con
gái mà phải bước vào đường học Phật, anh thường tụng kinh, phóng sinh… Nhưng
Bảo Châu không chút chuyển tốt, lại còn hay đau ốm, cảm sốt…Nhưng kỳ quái là
những khi Tiết Thành vắng nhà, thì các trạng thái bất thường này đều biến mất
hoặc chuyển sang tốt lành.
Tiết Thành vì con gái cưng mà rầu lo héo ruột
gan, anh đã tốn tiền cho Bảo Châu nhiều vô kể, khoản chi ra kếch xù cộng thêm
tâm thái muộn phiền đã khiến người đàn ông có sự nghiệp thành đạt này cảm thấy
cuộc đời sao mà thống khổ quá… Chịu hết thấu, Tiết Thành bèn đến gặp tôi cầu
giúp đỡ và than:
– Tôi hết trụ vững nữa rồi, Bảo Châu khiến tôi
lao tâm khổ trí, mệt mỏi đến cùng cực! Phải chăng đời trước tôi thiếu nợ nó?
Nếu thật tôi nợ nó… thì phải trả thế nào đây?
Nghe anh rầu rĩ kể lể, tôi bảo:
– Con cái đầu thai, là do ác duyên hoặc thiện
duyên mà tìm tới… Bảo Châu hành cha mẹ thống khổ bội phần như thế này, đối với
các vị đúng là không phải thiện duyên! Thực ra ác duyên này đã kết tụ vào năm
1930 tại bến Thượng Hải, đầu đuôi như sau:
“Tại sở cảnh sát (thuộc bến Thượng Hải cũ), có
Hồ cục trưởng và thuộc hạ Tiểu Quách, hai người chơi thân thắm thiết, hết mực
tin nhau. Lúc đó, tại địa phương này xảy ra một vụ án bắt cóc (gây chấn động
một thời), do gã X là trùm giang hồ khét tiếng, vì ân oán cá nhân mà ra tay bắt
trói một phú ông vùng đó. Người nhà phú ông lo lắng vạn phần, bèn tìm đến Hồ
cục trường báo án, xin ông giải cứu cho…
Nhưng Hồ cục trưởng tính vốn tham lam, đã thừa
dịp này buộc gia đình phú ông phải nộp một khoản tiền kếch xù rồi mới chịu ra
tay cứu giúp. Sau đó ông sai Tiểu Quách đi diều tra sự việc…
Dù Tiểu Quách đã tìm ra kè chủ mưu vụ án, nhung
do tên trùm X lót tiền hối lộ cho lão Hồ và Tiểu Quách nhiều hơn phú ông, nên
hai vị cảnh sát liền thông đồng, cùng bao che phóng thích tội phạm, chỉ xoa dịu
thân nhân người bị hại chút ít… Cuối cùng dẫn đến kết cục bi thảm là phú ông
lìa đời trong tức tưởi (bị hà hiếp bức tử)… ông Hồ cục trưởng kiếp xưa, đời nay
chính là Tiết Thành, còn thuộc hạ thân tín Tiều Quách giờ là ái thê Sử Đình.
Do phú ông trong quá khứ phút lâm chung lòng đầy
oán hận, đã thề sẽ báo thù, hiện giờ đã đầu thai vào làm đứa con cưng Bảo Châu.
Còn tên trùm X do tạo tội ác ngập tràn, đến nay vẫn còn thọ khổ hình nơi địa
ngục”…
Tôi bảo Tiết Thành:
– Mặc dù hiện tại các vị đã bắt đầu học Phật tập
tu, nhưng lực sám hối vẫn chưa đủ. Phú ông kia vô cớ bị hại, đâu có dễ dàng
buông tha cho?…
Vì vậy hai người nhất định phải nghiêm trì giới
luật, phải ăn chay và giữ ngũ giới: không sát sinh, không trộm cắp, không tà
dâm, không vọng ngữ, không uống rượu… thường hành thập thiện và phải tụng “Kinh
Địa Tạng” hồi hướng cho con gái.
Hai vị phải trì chí bền tâm chuộc tội, tinh tấn
tu không biếng lười. Dẫu gặp đại khổ nạn chi cũng phải hiểu đó là thử thách…
phải nghĩ là “mình đang trả nợ cho tiêu nghiệp”… Nếu hai vị nỗ lực cổ gắng hành
trì được như thế chừng khoảng 5-6 năm, nhất định sẽ thu được kết quả tốt.
Nửa năm sau, Tiết Thành gọi điện tới, âm thanh
chứa đầy xúc động mừng vui. Anh báo tin con gái mình đã thực sự chuyển tốt, còn
ái thê Sử Đình hồi xưa sức khỏe rất yếu, nay đã dần dần hồi phục mạnh khỏe…Qua
việc này, Tiết Thành phát nguyện sẽ tu học thật tốt, để thành một gia đình Phật
hóa…
31. HAI CẬU QUÝ TỬ
Chúng ta trong vô lượng kiếp đều vì phiền não
tham, sân, si mà kết oán với biết bao chúng sinh. Nếu ngay đây chẳng sớm buông
phiền muộn, tu theo Phật pháp, xuất ly lục đạo, thì cứ ở trong sinh tử thanh
trừng đòi nợ nhau mãi… cảnh oan oan tương báo này biết bao giờ mới dứt?
Thân Khoa Trường là một cán bộ lão thành trong
ngành công an, ông hành sự rất nghiêm cẩn, không mảy may cẩu thả sơ sót. Mấy
lần phá trọng án, đều lập công lớn. Nhưng sự nghiệp thành đạt lẫy lừng này cũng
chẳng đem lại niềm vui cho ông, bởi vì phiền muộn trong gia đình cao ngút, dẫy
đầy… không ngừng hành hạ ông.
Ông Thân có hai con trai. Đứa đầu không uống
rượu thì thôi, mà hễ uống vào lả đánh người, quậy ầm náo trong nhà đến gà chó
chẳng yên. Còn cậu út thì luôn vòi tiền cha mẹ, (lắm lúc xin đến một-hai vạn),
số tiền này cậu đều đổ hết vào cá độ, mà hễ đánh bạc thua thì lại về nhà xin
tiền cha mẹ tiếp…Nỗi khổ này khiến hai ông bà ngày nào cũng rửa mặt bằng nước
mắt. Ông Thân trong lòng khổ hết chỗ nói, sống không bằng chết…
Để nội tâm được an ủi, bọn họ nhận nuôi một đứa
con gái, hi vọng về già có được chút ấm lòng. Hai vợ chồng nghĩ mãi vẫn không
hiểu, vì sao họ sinh toàn con đại bất hiếu? Cứ luôn gây khổ cho mẹ cha như thế?
Ngồi đối diện với hai vợ chồng già, nhìn họ nước mắt đầm đìa, tôi thấm thía
“báo ứng thiện ác quả thực như bóng theo hình”… Chính những hạt giống oan
nghiệt trong quá khứ họ đã gieo, giờ đây đang đơm hoa kết trái, đem đến thống
khổ khôn tả…
- Vào
thời cổ đại xa xưa, có một người nghèo rớt mồng tơi, bơ vơ không chỗ nương, bị
bịnh nằm ven đường rên rỉ, không ai giúp đỡ, xem như chỉ có nước chờ chết… Bỗng
có một phụ nữ đi ngang qua, thấy cảnh người nghèo này liền khởi tâm xót thương,
bèn cho mượn phân nửa gia sản (là tiền dành dụm của mình). Người nghèo này sau
khi vay được tiền, cảm động quá cỡ, liền thề rằng: “Sau này khi được giàu có
nhất định sẽ hoàn trả hậu hĩnh cho ân nhân và tận sức báo đáp ơn cứu mạng’’…
Người nghèo nọ nhờ có tiền này làm vốn mưu sinh,
y cưới vợ sinh con, dần dần khá giả sung túc, nhưng lại quên luôn nữ ân nhân
kia. Còn nữ ân nhân đó, do xuất tiền giúp cho gã nghèo, sau khi về nhà bị gia đình
trách móc hoài nghi đủ điều, suốt đời sống trong buồn rầu thống khổ…(Nữ ân nhân
đó đời nay chính là cậu công tử út).
Còn gã nghèo sau khi được giàu có rồi, một ngày
nọ hắn cùng vợ ra ngoài mua đồ, vừa đi tới bờ sông thì thấy một ông già đang
trợt chân té xuống nước…Hai vợ chồng này chẳng những không thèm cứu, còn đứng
trơ mắt ngó, mặc cho lão già chết chìm, sau đó còn chiếm đoạt hành lý cùa lão
đem về làm của riêng…(Lão già chết chìm thuở xưa nay là con trai trưởng của
họ).
Hai vợ chồng gã nghèo thời ấy, đời này chính là
hai vợ chồng họ Thân. Vì quá khứ đã vay nợ, đoạt của… nên đời này họ phải đền
gấp bội. Hai cậu con chính là oan gia tới đòi nợ!”…
Kể xong, tôi cảnh báo:
– Nếu như hai ông bà không sám hối, tu hành, làm
nhiều đại công đức, thì tương lai sẽ bị hai đứa con trai hành cho đến chết!
Lão Thân sau khi biết được nguyên nhân thì kinh
hoảng vạn phần, liền phát nguyện sẽ siêng năng sám hối, bước vào con đường tu
hành theo Phật pháp.Hi vọng Phật lực gia
trì giúp ông giải hết oan trái, để họ có thể sống an trong tuổi già.
Chúng ta đã hiểu rõ nhân quả thi không nên hành
động cẩu thả. Phải luôn cảnh tỉnh mình giờ giờ khắc khắc sống thuần khiết trong
sạch, không ỷ vào rủi may. Bởi nhân quả báo ứng không hề sai.
32. CHỦ VÀ TỚ
Bà Trương là Tổng giám đốc một đại xí nghiệp bề
thế, quản lý hơn mười ngàn công nhân. Sự nghiệp thành đạt vẻ vang này đã khiến
bao người ngưỡng mộ. Thế nhưng trong gia đình, mặc dù vợ chồng bà sống hết sức
ấm êm hạnh phúc, nhưng đối với cậu quý tử tên Cường thì họ bó tay hết cách.
Cường rất thông minh, từ nhỏ chăm học, ít nói.
Trong lòng cha mẹ nó là đứa con ngoan, là bảo bối vô giá. Nhưng kể từ lúc cháu
lên trung học rồi, thì nó ghiền chơi game online, từ đó phát sinh nhiều điều
không hay. Suốt ngày suốt đêm Cường cứ lên mạng chơi game, vì vậy mà học hành
sa sút… Cha mẹ, giáo sư, bạn bè, có khuyên can dạy bảo chi, thảy đều như nước
đổ đầu vịt, Cường chẳng mảy may đếm xỉa tới, càng ngày nó càng hư đốn đến nỗi
sau đó còn đánh cha mắng mẹ…
Ngày nọ bà Trương thiết tha khuyên con đừng chơi
game nữa, thằng Cường liền nổi quạu, không những nó nói năng hỗn láo mà còn ra
tay đánh cha khiến ông bị thương mắt phải. Bà Trương giận quá, cùng chồng bỏ
nhà đi đến chỗ bạn bè ngụ tạm.
Lúc tôi gặp bà Trương, thấy mặt mày bà tiều tụy,
mắt đỏ hoe, buồn rầu than:
– Rốt cuộc là nguyên nhân gì đã khiến thằng
Cường nhà chúng tôi biến thành tác tệ như thế chứ? Người lớn có lòng, có ý tốt
khuyên nó, đem thức ngon đồ bổ đến cho… mà nó cũng không màng đón nhận, lại còn
ra tay đánh cha nữa…
Ngừng một lúc bà tiếp:
– Nó mê chơi game đến nỗi bỏ học, tính đến nay
đã hơn nửa năm rồi! Vì vậy mà giáo sư thường đến nhà hỏi thăm, thậm chí còn dắt
cảnh sát đến khuyên giúp, nhưng tất cả đều vô dụng. Úi chao! Hu Hu…
Nhìn bà Trương đau khổ tuyệt vọng, tôi rất cảm
thông, liền an ủi, giải thích:
– Phải ôm lấy thống khổ, chịu não phiền nung nấu
như hôm nay, tất cả đều do ác nhân đời trước của bà mà ra!
“Nguyên bà Trương và chồng, đời trước cũng là
phu thê, nhưng bây giờ vị trí đã đổi. Bà Trương thuở đó mang thân nam, là một
ông địa chủ nổi danh. Tuy giàu nhưng thuộc loại “giàu mà bất nhân”, ông tự thị
mình giàu nên rất khinh người.
Lúc đó trong nhà họ có một thằng bé giúp việc
chừng 12 tuổi. Cha mẹ nó do thiếu nợ họ vô phương đền trả nên bất đắc dĩ phải
cho con đến nhà họ làm nô bộc trừ nợ. Hai vợ chồng rất phiền bực cha mẹ thằng
bé, nên đã dùng nó để trút giận, họ thường đánh đập, mắng chửi, đối xử với nó
rất tệ…
Ngày nọ, thằng bé vô ý làm vỡ cái bình hoa quý
khiến cặp vợ chồng giàu phẫn nộ, họ đánh nó một trận rồi trói tay chân nó lại, đem
bỏ ngoài đồng.
May là có một người hảo tâm đi ngang, kịp cứu
thằng bé khi nó còn thoi thóp thở, nhờ vậy mà bào tồn được mạng nó. Kể từ đó
trong lòng thằng bé đã ôm mầm hận oán, nó thề: “Sau này có cơ hội, nhất định sẽ
báo thù, đòi lại nợ máu”…
Đời này nhân duyên tụ hội, thằng bé thời quá khứ
từng bị khinh khi, lăng nhục thậm tệ, nay đã đầu thai vào làm đứa con cưng của
hai vợ chồng họ Trương. Nó đến là để đòi nợ! Một ngày không xa trong tương lai,
đôi phu phụ này sẽ bị nó làm cho tức chết”…
Hiểu rõ uẩn khúc nhân quả này rồi, bà Trương bật
khóc thống thiết, chồng bà ngồi bên, vội an ủi:
- Đừng khóc, đừng khóc nữa bà nó ơi! Hèn gì mà
thằng Cường từ 12 tuổi trở đi thì bắt đầu học hành sa sút, chỉ mê chơi game
trên mạng, còn phát tệ đánh cha mắng mẹ… Té ra do thời quá khứ chúng tôi đã tạo
ác, bất nhân với nó. Thế thì bây giờ chúng tôi phải làm sao đây?
– Cách tốt nhất là bắt đầu từ nay hai vị phải ăn
chay, trước Phật thành tâm sám hối các ác nghiệp đã tạo thuở xưa và quỳ tụng 49
bộ “Kinh Địa Tạng”, hồi hướng cho Cường, như thế may ra nó có thể tha thứ cho
hai vị, đoạn trừ lưới nghiệp buộc ràng và tất cả đều được hưởng lợi ích…
– Vâng ạ, sau khi về chúng tôi sẽ thực hành
ngay.
Ba tháng sau, bà Trương gọi điện tới, xúc động
nói:
– Vô cùng cảm tạ ngài, Phật pháp thực quá thần
kỳ! Sau khi chúng tôi ăn chay, sám hối, tụng kinh, hồi hướng cho thằng Cường
rồi… thì bây giờ nó đã bắt đầu đi học lại, hơn nữa cư xử với chúng tôi ngoan
ngoãn và thay đổi rất nhiều, có hôm nó còn tự động vào bếp nấu cho chúng tôi ăn
nữa… Đúng là hóa giải oán kết oan gia chỉ có hành theo Phật pháp mới là tốt và
hiệu quả nhất!…
Giải thích thêm: Những câu
chuyện kể rõ ác duyên giữa cha mẹ và con cái là để mọi người cảnh giác. Đa số
thường than: “Thật khó mà dạy dỗ con cái”… (Vì đời trước đa số chúng là kẻ bị
hại, đời này đến làm con để báo oán)…Là phụ mẫu cần tin sâu nhân quả, không nên
nhắm mắt đánh đập con, mà phải sám hối những điều đã làm, đã tạo trong đời
trước (thậm chí từ vô thỉ kiếp đến nay) của mình. Phải vì con ăn chay, tụng
kinh hồi hướng… cầu Phật lực nhiếp thọ, hóa giải… biến ác duyên giữa cha mẹ và
con cái thành thiện duyên.
Tiếp theo còn phải giáo dục con cái hiếu dưỡng
cha mẹ, hành tròn đạo lý làm người. Thời gian lâu dần, con cái tự nhiên sẽ thay
đổi mạnh, chuyển biến tốt.
Muốn con cái chuyển thành người tốt, trước tiên
cha mẹ phải sửa đổi bản thân, chính họ phải đoạn ác tu thiện, thân cận Phật
pháp, tụng kinh hồi hướng phước lành đến cho con…
Làm như thế mới chiêu cảm được Phật lực gia trì,
khiến công đức tăng gấp bội. Thế thì dù bị nghịch tử đến ở kề bên nhưng nếu có
phúc duyên, khéo thân cận Phật pháp, thì nghịch tử kia chính là chìa khóa vàng
giúp mẹ cha mở ra cánh cửa hạnh phúc (nhờ vào sự học Phật, tu trì… khiến đôi
bên cùng được lợi), toàn gia đồng hưởng pháp lạc, biến phiền não thành bồ đề.
Riêng những người làm con, nếu gặp cha mẹ đối xử
với mình chằng nhân từ, thì phải hiểu là cũng đồng nguyên nhân tương tự…
33. SỐNG LẠI
Cư sĩ Tịnh Hằng từ nhỏ nếp sống gia đình nghèo
khó, nếm đủ bức bách, gian nan. Đến khi trưởng thành, có được sinh hoạt như ý,
thì ông lại nhân đó mà tạo nhiều ác nghiệp, khiến cuộc sống tái phát đủ điều
bất hạnh… Mãi đến khi ông tiếp xúc được với Phật pháp, biết nghe kinh tu tập,
nghiêm trì giới luật, đoạn ác tu thiện, thì ông mới có được hạnh phúc, tái tạo
cuộc đời mới, sống lại lần nữa…
Chúng ta hãy nghe ông thổ lộ những lời chân
thành tận đáy lòng:
Tôi sinh ra tại một tiểu trấn hẻo lánh thuộc
tỉnh Giang Tô phố Dương Châu. Lúc nhỏ cuộc sống nhà tôi tương đối khó khăn. Từ
lúc có ký ức, tôi nhớ phụ thân mình là một cán bộ công xã. Ông là người hào
sảng, nhanh mồm lẹ miệng, thẳng thắn, có nhiều bạn nhậu, nên trong nhà thường
có khách đến luôn. Phụ thân là một cán bộ rượu chè bê tha, khi tôi lên trung
học, thì do những mâu thuẫn trong nội bộ cơ quan, ông bị khai trừ, cách chức.
Việc này làm ảnh hưởng và thay đổi số mệnh cả nhà chúng tôi.
Do quan lộ bất như ý, nên phụ thân tôi suốt ngày
thở vắn than dài, giống như biến thành một người khác vậy, mẹ tôi cũng thành là
chỗ cho ông trút giận… Để lấy lại thể diện đã mất, phụ thân chẳng thèm nghe lời
mẹ tôi năn nỉ khuyên lơn, ông đi mượn vay thân thuộc, mở một lò hầm than. Không
bao lâu lò hầm làm ăn thất bại phải đóng cửa. Phụ thân không những chẳng thu về
được một xu, còn khiến gia đinh chúng tôi lâm vào cảnh bần cùng cực điểm. Vì cả
nhà phải gánh lấy món nợ kếch xù (một vạn năm ngàn đồng) trên lưng. Vào (năm
1981) thời đó thì đây là một dãy số to kinh khủng.
Nhà tôi căn bản là vô phương đền trả, mẹ tôi
càng tiều tụy buồn rầu khi chứng kiến chồng làm ăn thất bại, đối diện với cảnh nghèo
rớt mồng tơi của gia đình, không mong gì có thể ngóc đầu lên… Trong cơn tuyệt
vọng, đã mấy lần mẹ tôi muốn quyên sinh để kết thúc cuộc đời đau khổ… Nhưng
ngoảnh nhìn đám con còn quá thơ dại, bà đành nuốt lệ ráng sống, không nỡ bỏ mặc
chúng tôi…
Khi đó bốn mẹ con tôi ôm nhau khóc, vì chẳng
biết đường nào đề đi, ngõ nào để sống. Mỗi khi sắp sang xuân, nhà nhà đều hớn
hở chuẩn bị mừng năm mới, chỉ riêng nhà chúng tôi là đìu hiu, lại còn phải đóng
chặt cửa, trong khi bên ngoài chủ nợ hung hăng hét đòi, cả nhà bị lăng nhục đủ
lời, đủ kiểu… càng thấm thìa thế thái nhân tình bạc bẽo…Cha tôi cũng nhân đây
mà biến thành người trầm mặc ít lời, buồn phiền khôn nguôi.
Sau đó mẫu thân hiền lành dẫn tôi và anh hai đi
đến từng nhà để cầu xin thông cảm, bà vừa khóc vừa nói: “Tiền thiếu các vị
chúng tôi nhất định sẽ trả, tôi xin dùng tính mạng mình đề đảm bảo”. Trong cơn
gió lạnh, mẹ tôi lệ rơi đầy mặt, còn tôi và anh thống khổ đến nghẹt thở. Lúc đó
tôi mới 17 tuổi. Toàn bộ sinh hoạt gia đình đều trút hết vào đôi vai yếu gầy
của mẹ tôi.
Sau đó, quốc gia cải cách mở mang chính sách,
tôi cũng tham gia công tác, cả nhà chúng tôi đồng tâm hiệp lực dốc sức làm
lụng, cuối cùng cũng trả hết nợ và còn để dành được chút ít. Cuộc sống bắt đầu
đi lên, tôi vào làm cán bộ ở cơ quan, thế là nếp sinh hoạt phóng túng bắt đầu…
Do tôi nghĩ: “Hồi nhỏ mình nghèo, bây giờ cuộc
sống đã tốt lên rồi thì cũng nên hưởng thụ, vui chơi”. Thế là tôi lao mình vào
những cuộc ăn chơi đàng điếm, ngày ngày nhậu nhẹt bù khú đến say bét nhè, nhiễm
đủ thói hư tật xấu: hút thuốc, uống rượu, bài bạc, sát sinh, tà dâm… tôi còn ăn
tươi nuốt sống vật, không ác nào mà không làm, phạm rất nhiều điều tác tệ…
Thế là con đường quan lộ bắt đầu không hanh
thông (do tôi trác táng và tạo quá nhiều ác nghiệp), không những tôi bị cơ quan
giáng chức mà trong gia đình luôn xào xáo, vợ chồng gây cãi um sùm, con cái học
tập sa sút cực độ.
Sau khi mất chức, tôi dời nhà đến Vô Dương, mở
một tiểu điếm, duy trì kế sống. Mặt trời mọc rồi lặn, cứ thế ngày qua ngày,
cuộc sống tôi vẫn như xưa, không có gi khởi sắc… tôi bắt đầu thở vắn than dài,
khi nhận ra tình cảnh mình giống hệt phụ thân hồi xưa.
Hôm nọ, ở dưới lầu chúng tôi tỉnh cờ gặp một cư
sĩ (nay là sư huynh), ông kể cho tôi nghe các chuyện về Phật giáo và tặng tôi
cuốn sách “Biển giác thuyền từ” (Giác Hải Từ Hàng) và một cuốn kinh “Phật
thuyết vô lượng thọ”. Vừa vào nhà là tôi nôn nóng mở ra xem liền, hai cuốn sách
này thu hết chú tâm của tôi giống như “nam châm hút sắt”, tôi xem một lèo là
hết ngay, lúc này trời cũng đã sáng.
Từ đó, tôi đối với các điển tích Phật giáo rất
ưa thích, xem không rời tay… còn nỗ lực tinh tấn hành theo. Tôi thầm phát
nguyện: “Phật pháp khó nghe nay con đã được nghe, đời này con nhất định nguyện
tu sửa cho liễu sinh thoát tử mới thôi”. Kể từ đó tôi theo sư huynh bước vào
con đường học Phật.
Nhìn thấy tôi thay đổi tốt lên từng ngày, vợ và
con tôi cũng ngưỡng mộ, hớn hở gia nhập “hàng ngũ” tu tập theo, cả nhà chúng
tôi may mắn biến thành một gia đinh Phật hóa. Tôi và vợ đồng phát nguyện:
- Từ nay thệ dứt ăn mặn, nguyện ăn chay vĩnh
viễn – tôi còn quyết định bỏ hút thuốc…
Kỳ lạ là hồi trước tôi cũng từng cai, từng bỏ
hút thuốc nhiều lần, nhưng càng bỏ càng thèm. Nhưng lần này lại có thể từ bỏ
với tâm tư hết sức nhẹ nhàng thư thái, triệt để dứt khoát… Điều này khiến tôi
vừa mừng vừa xúc động: quả là chư Phật Bồ-tát từ bi không bỏ một chúng sinh
nào! Hiện nay, hằng ngày tôi kiên trì tụng kinh, bái Phật, niệm Phật, chép kinh…
Mỗi tháng vào mồng một, ngày rằm thì tôi hướng
dẫn gia đình đi phóng sinh, làm nhiều việc thiện. Đồng thời còn đối chiếu theo
kinh Phật dạy, lo kiểm điểm từng hành vi tạo tác của mình.
Tôi thừa biết mình tật tánh nặng nề, nên đã bao
lần ở trước Phật rơi nước mắt, thành tâm sám hối, khẩn cầu chư Phật Bồ-tát từ
bi gia hộ, tiếp thêm sức mạnh cho tôi sửa đổi thành công, giúp tôi luôn nhận ra
lỗi sai kịp thời để dứt khoát từ bỏ không tái phạm lại…
Kể từ sau khi học Phật, suốt mấy năm trì giới
hành thiện, số mệnh tôi đà chuyển tốt, có nhiều khách nghe danh, ngưỡng mộ tìm
đến bàn việc làm ăn, tới giờ vẫn còn hợp tác. Hiện nay tôi còn mở thêm một chi
nhánh, công việc rất phất.
Kề từ lúc ăn chay rồi, huyết áp tôi cũng không
cao, chứng mất ngủ cũng hết. Chứng liệt nhẹ nơi mặt cũng dần khỏi. Sức khỏe cả
nhà tốt lên rất nhiều. Kể cả cha mẹ già ở viễn phương Dương Châu thân thề cũng
khang kiện. Từ lúc học Phật đến nay, người xung quanh mến thương, quý trọng tôi
ngày càng nhiều.
Mỗi ngày qua, tâm tôi rất thư thái, trọn ngày
làm việc mà không thấy mệt. Sinh hoạt luôn điều chỉnh tốt: ngủ sớm dậy sớm.
Hằng ngày, hạnh phúc nhất là được ở trước Phật đường, tụng kinh bái Phật, pháp
hĩ sung mãn… Phật pháp thực là càng hiểu, càng thú vị.
Con trai tôi cũng thay đổi rất mạnh, ngày xưa
tính nó hướng nội, tự kỷ. Nhưng bây giờ nó siêng năng tụng “Kinh Địa Tạng”,
không bỏ một ngày nào. Tính vui vẻ, cởi mở vị tha, công việc chúng tôi cũng
“tùy theo ước muốn mà tự thành”. Vợ tôi cũng tinh tấn tu hành, cả nhà chúng tôi
đều được Phật pháp tẩy gội, sống rất hòa thuận vui vẻ, đồng hưởng hạnh phúc, tự
tại.
Phật pháp thực kỳ diệu không thể nghĩ lường, là
pháp bảo sáng tạo hạnh phúc thần kỳ ở nhân gian. Tôi xin lấy kinh nghiệm bản
thân mình làm bằng chứng để chia sẻ và mách cùng quý vị: Hãy tránh ác hành
thiện, thường kiểm điểm lỗi sai để “thiện hóa” thân tâm, cẩn trọng răn dè, giữ
gìn thân, khẩu, ý trong từng hành vi, hãy phát nguyện nghiêm trì giới luật…
không nên tùy tiện phóng dật mà sa vào lưới tà, nghiệp ác…
Tôi mong rằng câu chuyện có thực của minh sẽ
khích lệ, giúp ích thực nhiều cho các vị hữu duyên. Mong các bạn trong những
ngày tháng còn sống này, ai cũng phát tâm tinh tấn học Phật, tu hành; tự độ
mình, độ người. Mong mọi người đều thoát khỏi phiền não khổ đau, vượt qua biển
lớn sinh tử, đến bờ giác thanh tịnh…
-Tịnh
Hằng-
Phật giáo ban cho ta nền giáo dục ưu mỹ, giúp
nhân loại chuyển hóa số mệnh bản thân cực kỳ hữu hiệu. Nếu như người người đều
có thể y pháp phụng hành, thì ai cũng có được hạnh phúc trong kiếp nhân sinh.
34. ĐỒNG NGHIỆP CHIÊU CẢM
Mỹ Đình năm nay 30 tuổi, công tác sinh hoạt gì
cũng không thuận lợi. Mấy năm trước, vì ham lợi nhuận nhiều, cô từ bỏ công việc
tốt đẹp sẵn có, dốc hết tiền của dành dụm (còn vay thêm mười vạn đồng), đổ cả
vào một công ty kinh doanh tư nhân. Dè đâu đây là một công ty lừa đảo, mới đầu
họ dùng thuật nhử dụ (cho người đầu tư hưởng mấy vạn tiền lời trước thật ngọt),
rồi sau đó cả giám đốc, nhân viên đều ôm tiền, trốn biệt tăm. Vì vậy, Mỹ Đình
không những mất hết tiền đề dành mà còn thiếu nợ rất nhiều. Ngoài ra, 5 năm
trước, cô giao du với bạn trai, cũng bị gạt lừa đến nỗi phải phá thai, tình cảm
tan rã, kết thúc trong chia tay.
Đến nay Mỹ Đình vẫn chưa tìm được tình lang
thích hợp, thân quyến bạn bè có nhiệt tình giới thiệu, thảy đều không thành. Một
hôm mẹ Mỹ Đình là Mỹ Linh đột nhiên tìm tới chỗ tôi, vừa khóc vừa kể:
– Quả Hồng, tôi biết chị đang viết cuốn “Báo ứng
Hiện Đời” xin hãy đem chuyện của tôi viết ra! Tội tôi rất lớn. Con gái tôi hiện
nay công việc không thuận lợi, hôn nhân chẳng toại ý, gặp đủ chướng ngại, xui
xẻo… tất cả đều tại tôi mà ra! Chính vì người mẹ này làm rất nhiều, quá nhiều
việc xấu… mà con gái mới bị liên lụy! Hu hu!
Tôi vội đưa khăn giấy cho bá lau nước mắt. Mỹ
Linh buồn đến không thiết sống, bà bắt đầu kể lể sám hối những lỗi lầm bất
thiện mình từng tạo trong quá khứ:
“Mỹ Linh xinh đẹp từ nhỏ rất được cha mẹ cưng chìu,
nâng niu như trứng mỏng. Gia đinh giàu có phong lưu, nên muốn gì được đó. Nếp
sống sung sướng luôn được hưởng mọi ưu tiên đã dưỡng thành thói quen xấu cho Mỹ
Linh. Thời đi học, nàng không tôn trọng thầy cô, còn được trong lớp tôn sùng
như “nữ hoàng”, ngay cả thầy cô cũng nể nàng đôi-ba phần.
Sau khi ra trường đi làm, mọi việc đều thuận
lợi, mặc dù nàng đi làm xa nơi xí nghiệp mỏ ở Đại Tây Bắc, nhưng nữ cán bộ
trong đây không phải chịu gian khổ gì, Mỹ Linh sống hết sức tự do tự tại, hơn
nữa nàng luôn được hưởng mọi ưu tiên tính từ học vẩn đến công việc (khi viện
nghiên cứu hay công ty chỉ tuyển có hai người thì trong cảnh vạn người tranh
nhau nộp đơn, Mỹ Linh luôn được tuyển đầu tiên).
Trước 40 tuổi, có thể nói là thời hoàng kim (may
mắn mỹ mãn nhất) của Mỹ Linh (nhưng đây chỉ là phúc báu mà nàng được hưởng do
kiếp quá khứ từng tích lũy)… Nhưng hưởng phúc cũng chính là tiêu phúc, vì Mỹ
Linh khống biết Phật pháp, không hiểu đạo, nên trong thuận cảnh nàng càng mê
muội, tạo tội ác đầy trời.
Tại xí nghiệp Mỹ Linh công tác có rát đông nam
nhân. Do nàng có dung nhan mỹ miều xinh đẹp khiến biết bao chàng theo đuổi say
đắm, nàng nổi bật trong đó như ánh trăng rực rỡ giữa ngàn sao, làm lu mờ mọi cô
gái khác…
Mới đầu, nàng vốn là cô gái thanh tân thuần
phác, nhưng do có sắc, có quyền, có tiền cộng thêm tham dục trong lòng ngày
càng bành trướng, Mỹ Linh không cưỡng được hấp dẫn của kim tiền và danh lợi,
nên nàng đã lạc lầm, đi càng lúc càng sai. Để đạt được mục đích, nàng sẵn sàng
quan hệ, lên giường cùng các nam lãnh đạo, vừa có được công tác toại ý, vừa có
thu nhập tăng cao.
Chính do sinh hoạt phóng túng này mà nàng đã phá
thai 8 lần. Chính những hành vi sai trái và ý tà này đã khiến cho phúc lành của
nàng nhanh chóng cạn kiệt hết và ác báo được dịp trổ ngay hiện tiền:
Đầu tiên là gia đình nàng không hòa thuận, kết
hôn xong thì giữa phu thê không ngừng xảy ra gây cãi, ẩu đả. Chồng nàng do
thường phải nén giận chịu đựng, nên đã trút hết bực bội phẫn uất vào đứa con gái
(Mỹ Đình). Vì vậy mà ngay từ nhỏ Mỹ Đình hay bị cha đánh đòn, chưa từng được
phụ thân quan tâm yêu thương, lại do mẹ sống phóng túng ảnh hưởng xấu lây đến
con, khiến Mỹ Đình sau khi trưởng thành rồi, nàng giao du bạn trai không cẩn
thận, bị lời ngon tiếng ngọt dụ lừa, đến nổi phải thất thân, phá thai.
Riêng Mỹ Linh, ác báo cũng bắt đầu trổ: nàng
vướng nhiều bịnh, bị viêm ruột thừa phải mổ đến 4 lần mà trị vẫn chưa xong, còn
di chứng nghiêm trọng, gây thống khổ khó kham. Chân nàng mắc bịnh gai xương,
nếu đi không cẩn thận là đau kịch liệt. Bịnh phụ khoa càng nặng nề hơn, mỗi lúc
có chu kỳ, nàng bị hành đau đến ngất xỉu.
Còn nữa, công tác bây giờ cũng không còn thuận
lợi, vì thân mang đủ thứ bịnh, nên các lãnh đạo bắt đầu lánh xa Mỹ Linh, bịnh
hành hạ khiến nàng phải nghĩ làm, rồi nhân vì bịnh dây dưa, nàng phải ờ nhà
nghỉ ngơi, vô phương công tác.
Những quả báo này chỉ là hoa báo, tương lai
nàng còn phải sa vào ba cõi ác, thọ vô lượng khổ, đúng như trong “Kinh Địa
Tạng” tả: “Nếu có nam tử nữ nhân nào không hành thiện mà làm ác, cho đến chẳng
tin nhân quả, phạm tà dâm, vọng ngữ, lưỡng thiệt ác khẩu, hủy báng kinh Phật,
những người tạo nghiệp như thế, tất phải đọa ác đạo”…
Mỹ Linh vừa khóc đau khổ, vừa sám hối kể lại lỗi
mình…
Hiện nay sau khi học Phật rồi, nàng biết tất cả
thống khổ kia là do mình tự làm tự chịu. Trồng nhân ác thì gặt quả ác. Báo ứng
nhân quả như bóng theo hình…
Bây giờ hằng ngày Mỹ Linh ở trước Phật thành tâm
sám hối những tội ngu si mê muội của mình, do ham lợi dục mà tạo lắm tội ác.
Mỗi ngày Mỹ Linh đều quỳ tụng “Kinh Địa Tạng”, siêng bái sám, cầu Phật lực gia
trì nàng sớm chuyển biến tệ trạng. Đồng thời nàng muốn dùng kinh nghiệm
bản thân để cảnh báo mọi người.
“Thân người khó được, Phật pháp khó gặp nhất
định phải quý trọng, siêng năng học Phật, tích cực hành thiện, vì nếu hưởng hết
phúc rồi, tai họa ắt đến’’…
Tôi bảo Mỹ Linh:
– “Nhân quả ai làm nấy chịu, không thể do mình làm
mà người khác phải gánh lấy”… Sở dĩ việc cha mẹ làm có thể gây ảnh hưởng đến
tiền đồ con cái… hoặc người ta hay nói: Tổ tiên tích đức, để phúc cho con cháu.
Tổ tiên làm ác di họa cho tử tôn’… Nếu giải thích theo Phật giáo thì đây là
“đồng nghiệp chiêu cảm”, nghĩa là những cháu con nào có “nghiệp tạo tương tự”…
sẽ đầu thai vào để trả báo chung theo đúng câu: “đồng thanh tương ứng, đồng khí
tương cầu!”…
Cho nên cha mẹ phải đem thân làm gương, lo hành
thiện tích phúc, trên hiếu kính tiền bối, dưới giáo dưỡng con cái, niệm niệm
không quên lời dạy của chư Phật Bồ-tát và cao tăng đại đức, trong sinh hoạt
phải sống chơn chánh: thành thật, tín, nguyện, hành. Được vậy gia đình mới có
thể hưng thịnh, con cái mới có thề phát…
Khi đó Mỹ Linh phát nguyện:
“Đời này nhất định tinh tấn tu hành, làm ích lợi
chúng sinh, quyết tu cho liễu sinh thoát tử, ra khỏi tam giới, vãng sinh Cực Lạc,
thành tựu Phật quả”. Hai tháng sau nghe nói Mỹ Đình đã tìm được công tác ổn
định, bịnh tật trên thân Mỹ Linh cũng đã chuyển tốt, không cần dùng thuốc nữa.
Gia đình cũng dần hòa thuận. Tôi tin rằng dưới sự gia trì của Phật lực cộng
thêm quyết tâm sửa lỗi đổi mới bản thân, Mỹ Linh và toàn gia, tương lai nhất
định sẽ càng tốt lành, hạnh phúc.
35. TÌNH CHẤP TRÓI BUỘC
Chỉ khi ở trong nghịch cảnh người ta mới thấm thía
sâu sắc cái khổ của “sinh, lão, bịnh, tử’ và khao khát thoát ra, mong sớm được
lìa khổ được vui. Cũng nhờ vậy mà nhiều người bước vào con đường học Phật. Thế
nên những khảo nghiệm, những mài luyện đó (bao gồm cả thân nhân quyến thuộc),
thực tế đều là đại thiện trí thúc của mình, chúng ta nên dùng tâm cảm ơn, tâm
chân thành mà đối đãi với họ.
Tiêu Hồng có một người mẹ thiện lương, bà đối
với cô đặc biệt quan tâm, chăm sóc chu đáo từng tí từng li… (nhưng do sát
nghiệp chướng ngại), đến nay đối với Phật bà vẫn ở lưng chừng giữa tin và không
tin.
Nhưng đôi lúc mật ngọt của tình chấp trói buộc
cũng đem đến nhiều phiền lụy… Mẫu thân Tiêu Hồng thường ước nàng “giống như con
chim nhỏ luôn nương tựa, nép vào bà”… mặc dù hai mẹ con họ sống chung bên nhau,
nhưng chỉ cần con gái về muộn một chút, thì di động của Tiêu Hồng liên tục reo
vang, trong máy không ngừng vọng ra âm thanh người mẹ nhắc nhờ dặn dò nàng
phải: “về nhà sớm bình thường, ngay cả lúc Tiêu Hồng vào sở làm, mẹ nàng vẫn
luôn gọi điện hỏi thăm, thậm chí khi nàng ở nhà xem sách, mẹ vẫn theo dõi, hỏi:
– Giờ con đang xem gì đó?
Nàng mặc áo ăn cơm hay làm gi… mẹ nàng luôn kiểm
tra tỉ mỉ. Tiêu Hồng biết mẹ thương, đối với mình rất tốt, trong lòng cũng sinh
tâm hiếu thuận. Nhưng năm nay Tiêu Hồng 32 tuổi rồi, đối với lòng thương “chấp
chặt giữ riết bên mình” như thế của mẹ, khiến nàng cảm thấy bị áp lực, mất tự
do và chịu không thấu…
Một tối nọ, Tiêu Hồng cùng mấy bạn đạo họp mặt,
dự tính sẽ về muộn một chút, trước đó cũng đã thưa với mẫu thân. Nhưng mẹ nàng
vẫn không yên tâm, liên tục gọi điện thoại tra vấn:
– Sao muộn thế mà con chưa về? Rốt cuộc là họp
cái gì? ờ đâu? Với ai?…
Tiêu Hồng ráng nhẫn nại hồi đáp, cuối cùng, cuộc
họp chưa kết thúc nàng đã phải thu xếp đi về, nhưng mẫu thân vẫn không vui, cứ
gọi điện hòi mãi, Tiêu Hồng luôn phải chịu đựng, vỗ về trấn an… Có vậy những
kích động trong lòng mẹ mới dịu lại…
Tiêu Hồng vô cùng thắc mắc, hỏi tôi:
– Vì sao mẹ đối với em quan tâm quá mức như thế?
Tôi đáp:
– Duyên khởi duyên diệt, tất cả đều có nguyên
nhân hậu quả, tình mẹ thương con chấp chặt trầm trọng thế này, bắt nguồn từ
nguyên nhân xa xưa vào thời cổ đại bên Ấn Độ:
“Vào thời đó, tại miền nam Ấn Độ, có một vị
vương tử cao quý cư ngụ. Hôm đó giống như mọi lần, vương tử cưỡi con bạch mã,
tay cầm một cái lồng vàng, trong nhốt một con chim nhỏ cực kỳ xinh đẹp, điều
kiện ăn ở của con chim này cực kỳ ưu việt, hằng ngày luôn có thức ngon, cái
lồng còn được trang trí bằng hoa tươi xinh đẹp, song con chim lúc nào cũng nhớ
đến thế giới bên ngoài, rất khát khao được tung cánh tự do… Thế nhưng do chủ
nhân quá sủng ái, nên ông quyết định số mệnh nó “suốt đời phải bị nhốt trong
lồng này”.
Con chim thời cổ đại, đời nay là mẹ Tiêu
Hồng. Còn Tiêu Hồng chính là vị vương tử thời xưa đó”.
Do kiếp xưa nàng đã hành xử bằng tình chấp trói
buộc nên đời này phải lãnh lại quả báo y hệt vậy, cũng được mẹ cực kỳ quan tâm
chăm sóc giữ chặt bên mình, dù tuổi hơn 30 nhưng nàng vẫn không có tự do. Con
bạch mã chính là phụ thân Tiêu Hồng. Theo như lời Tiêu Hồng xác nhận: hồi nàng
còn nhỏ phụ thân luôn cam tâm tình nguyện để nàng cưỡi trên lưng trên bụng, còn
cảm thấy rất hạnh phúc vui vẻ…
Sau khi nghe tôi giải thích rõ ngọn nguồn rồi,
Tiêu Hồng đã hiểu minh bạch: Hiếu dưỡng cha mẹ chính là, ngoài việc quan tâm
chăm lo đời sống và tùy thuận (không bội phản luật nhân quả) ra, còn phải hướng
dẫn cha mẹ đến với Phật pháp, tin sâu nhân quả, chánh tín với đạo, dứt ác hành
thiện, bước vào con đường học Phật giải thoát. Đỏ mới là đại hiếu chân chánh.
Giải thích thêm: Thời bắc Tống,
Âu Dương Tu có làm một bài thơ “Chim Họa Mi” như sau: Trăm ngàn tiếng hót véo
von. Bỗng trầm cao thấp vượt ngàn núi sông. Giọng buồn khi ở trong lồng. Đâu
vui bằng lúc phiêu bồng bay cao. Vì sao tiếng chim hót trong lòng không hay
bằng hót giữa rừng cây? Bởi vì chim mất tự do, nên tiếng hót u buồn, không vui.
“Nhân như thế thì quả như thế”, con chim nhỏ đời
quá khứ hiện nay không những sinh làm người mang thân nữ, lại còn làm mẹ của vị
vương tử ngày xưa từng yêu thương sủng ái nhốt nó mãi mãi trong lồng. Mẹ yêu
con là đạo lý đương nhiên, nhưng người con gái tuổi đã hơn 30 lại bị tình chấp
đó trói buộc không có chút tự do.
Tham ái là nguồn gốc sinh tử, thuở đầu do vương
tử phát ra tâm tham ái và dùng nó để trói buộc, không cho phép chim nhỏ được tự
do… thì đời nay, chim nhỏ cũng dùng tâm tham ái, chiếm hữu… đối xử y như vậy
cùng vương từ.
Trong kinh 42 chương, Phật dạy:
Do ái sinh lo,
Do ái sinh sợ,
Nếu lìa tham ái,
Nào lo nào sợ…
Kinh Viên Giác thì nói: “Nên biết, ái là cội rễ
sinh tử luân hồi”.
Có thể thấy, đời đời kiếp kiếp chúng sinh luân
phiên trói buộc nhau không ngừng nghỉ, chỉ vì tham ái, tình chấp. Tu hành giống
như đi trên băng mỏng, phải cẩn thận nghiêm trì giới luật, viễn ly tham ái và
chấp trước, mới có thể giải thoát.
36. MẸ CHỒNG NÀNG DÂU
Vô lượng kiếp đến nay, chúng ta sinh tử trôi lăn
trong sáu đường, vì phiền não tam độc mà kết bao oán hận cùng chúng sinh. Trong
“Lương Hoàng Sám” nói: “Tất cả chúng sinh, đều có oán thù đối nghịch, vì sao
như thế? Bởi, nếu không oán đối, ắt không có ác đạo. Hiện nay ác đạo không
dừng, tam đồ càng lớn thì biết là “oán- đối… không có tận cùng”.
Kinh nói: “Tất cả chúng sinh, đều có tâm, tâm
này có thể làm Phật, nhưng chúng sinh lại chìm mê trong sinh tử, chẳng thể giác
ngộ, chỉ vì tham đắm thế gian, chẳng chịu thoát ra, mà kiến lập gốc khổ, trưởng
dưỡng oán hận, cho nên mới luân hồi trong ba cõi, qua lại sáu đường, xả thân
rồi thọ thân không ngừng nghỉ.
Vì sao như thế? Tất cả chúng sinh, từ vô thỉ đến
nay, liên tục phân biệt mê muội, vô minh dậy mãi, biển ái đắm chìm, khởi tâm
điên đảo, làm mười hạnh ác, bản thân tự hành thập ác, (còn dạy người hành ác,
tán thán pháp ác, khen người hành ác. Như thế thân khẩu ý, trong khoảng một
niệm, mở rộng tám vạn bốn ngàn cửa trần lao, những tội khởi trong một ngày; một
tháng một năm, trải qua bao kiếp… cộng hết lại thành vô lượng vô biên tội. Vì
vậy mà oán thù tìm báo nhau, không có tận cùng. Nếu muốn hóa giải oán hận, thì
phải thâm tín nhân quả, sám hối nghiệp chướng, rộng tu công đức. Sau đây là câu
chuyện có thật liên quan đến oán kết giữa mẹ chồng nàng dâu:
Trương Lan và mẹ chồng mới đầu quan hệ tương đối
tốt. Sau đó nàng về làm dâu, cùng ở chung nhà. Được một năm, mẹ chồng thường vì
những việc vụn vặt mà mắng chửi nàng. Chồng nàng vốn hiếu thuận, những khi mẹ
nổi giận thì anh luôn làm thinh, khiến Trương Lan hết sức khổ tâm buồn phiền.
Khi mẹ chồng thoái hưu về nhà, thì lo đi chợ làm
cơm, nghĩa là các việc trong nhà đều do một tay bà quản. Mấy ngày nay mẹ chồng
thân thể không an, nên lịnh cho Trương Lan nấu cơm làm bếp. Trương Lan ngoan
ngoãn vâng lời.
Mỗi ngày nàng luôn dậy sớm, ngủ muộn: nấu nướng
làm bếp… hoàn thành tốt việc trong nhà. Hôm nay, Trương Lan lỡ thức dậy một
chút, thì mẹ chồng đã làm cơm sáng xong Không đợi Trương Lan mở miệng giải
thích bà đã mắng nàng xối xả:
– Bồn cầu nhà vệ sinh phải lo mà chùi rửa mỗi ngày,
một ngày không tẩy rửa là vừa dơ vừa thúi! Việc làm cơm giản đơn như thế mà mi
lại lúc nghỉ lúc làm, thử hỏi còn nên thân được chuyện chi nữa hả?
Cha chồng thấy vậy liền tiến đến khuyên can,
càng khiến mẹ chồng thêm kích động, nổi xung. Trước sự thịnh nộ chửi mắng của bà,
Trương Lan không dám hé môi nói tiếng nào. Nàng ráng nhịn oan khuất, song bản
thân còn phải ra ngoài công tác, cũng rất gian khổ. Bình thường nàng đối với ba
mẹ chồng một bề kính thuận, làm gì cũng ý tứ, ráng giữ cho tròn hiếu đạo. Không
ngờ hôm nay lỡ dậy muộn một chút mà bị mẹ chồng chửi mắng thịnh nộ vô lý như
vậy…
Trương Lan vừa ăn cơm vừa lau nước mắt… rửa chén
xong, nàng hướng mẹ chồng xin lỗi, rồi bỏ đi ra ngoài tìm bạn đạo tâm sự, khóc
kể nỗi oan trong lòng…
Nghe Trương Lan khóc lóc tường thuật sự việc,
tôi bảo:
– Ôi chao, thôi em đừng khóc nữa, sở dĩ hôm nay
em gặp chuyện như thế này, là do đời quá khứ giữa em và mẹ chồng đã từng có
xích mích hiểu lầm, nên mới tạo thành oan trái khó giải như hôm nay!
“Vào thời Đường, Trương Lan là một quý phi rất
được hoàng đế sủng ái. Có lần quý phi và hoàng đế đang thưởng thức ca vũ, thì
một võ tướng do xuất chinh thất bại (lại bị kẻ ác vu hại), nên hoàng đế triệu
vào bái kiến.
Lúc này quý phi ở cạnh bên, thì thầm vào tai
hoàng đế mấy câu chi đó, bên dưới không ai nghe rõ, nhưng võ tướng nhìn thấy
cảnh này thì trong lòng cực kỳ không vui, bởi ông hiểu lầm vị quý phi đang nói
xấu, ngầm ám hại mình!
Thực ra quý phi chỉ xin hoàng thượng hãy xá tội
cho ông, nhưng do hoàng thượng đã hạ quyết tâm: phải trừng tội ông để răn
chúng! Vì vậy mà võ tướng bị nhốt vào ngục và bãi bỏ quan chức. Vị tướng này
không những bị thọ cục hình tàn khốc, mà thân quyến cả nhà gồm mười mấy người
cũng bị khổ lây.
Do vậy mà oán hận trong lòng, ông trút cả vào quý
phi, trước sau ông luôn cho rằng mọi việc đều do bà ton hót sau lưng để ám hại
ông. “Và những hiểu lầm này của võ tướng, oan uổng của quý phi’’… thảy đều phát
xuất vào thời quá khứ xa xưa nữa, nghĩa là nhiều kiếp trước đó quý phi cũng đã
từng nghĩ oan, hiểu lầm cho võ tướng y hệt vậy… Cứ thế nhân quả oan oan tương
báo mãi không ngừng, đến đời này thì họ gặp nhau, lại cùng ở chung…
Võ tướng kiếp xưa nay chính là mẹ chồng của
Trương Lan, và giữa mẹ chồng nàng dâu lại diễn tiếp mối oán kết chưa giải”…
Trương Lan nhớ lại, kể:
– À, hèn gì mà dạo nọ một người bạn học của em
đến thăm. Lần đầu mới gặp, mẹ chồng em đã hỏi: “Trương Lan có nói xấu gì tôi
không?”…
Khi biết được chuyện này, Trương Lan rất bất
bình. Sau đó, mẹ chồng thường nghi ngờ nàng nói xấu sau lưng, diễn tiến tệ đến
mức bà còn chỉ ngay mặt, mắng chửi nàng…
Bây giờ Trương Lan hiểu rõ tất cả đều là quả
báo, là ác duyên lỗi lầm ẩn khuất mình từng tạo ra trong quá khứ. Thế là nàng
bắt đầu sửa đổi, quay sang tự kiểm lỗi mình, lo sám hối nghiệp chướng, phát tâm
ăn chay và tụng 49 bộ “Kinh Địa Tạng”, hồi hướng cho mẹ chồng, mong hóa giải
oán hận hai bên. Từ đó nàng nghiêm tri ngũ giới, chăm chỉ tu sửa.
Ba tháng sau, quan hệ giữa Trương Lan và mẹ
chồng đã cải thiện rất tốt. Hiện nay ba mẹ chồng thương nàng như con gái ruột
của mình. Cả nhà vui sống thuận hòa.
37. GIEO GÌ GẶT NẤY
“Reng! Reng! Reng!”… nửa đêm, chuông điện thoại
reo vang, trong máy vọng ra âm thanh cuống quýt:
– Quả Hồng ơi, tồi có chuyện cấp bách muốn hỏi
cô.
– Dì Triệu hả, đừng gấp, cứ từ từ nói…
– Con gái tôi hôm nay đi bịnh viện khám, mới hay
nó bị ung bướu ác tính nơi phổi, giờ đã phát tán khắp. Bác sĩ nói không còn hi
vọng gì nữa. Cầu xin cô giúp cho. Con gái tôi năm nay 33 tuổi, tôi thực không
biết phải làm sao!
“Cô gái này tuổi còn trẻ, vì sao lại bị chứng
bịnh quái ác như thế?”…
Trước mắt tôi bỗng xuất hiện một hoạt cảnh thật
rõ, bắt nguồn từ thế giới chiến thứ hai:
“Nơi một trại tập trung của quân Đức, có một đám
đông dân Do Thái toàn thân trần trụi, từng tốp, từng tốp bị đẩy vào những căn
phòng tối đen dơ bẩn bên trong bơm đầy khí độc, những người dân Do Thái khốn
khổ này vừa vào thì không bao lâu bị khí độc làm ngạt thở, chết tập thể”. Vị sĩ
quan Đức lùa đám nạn dân vào phòng xông hơi ngạt, chính là con gái dì Triệu
thời nay.
Đây là nhân quả báo ứng, do đời trước cô tạo ác
nghiệp, khiến chúng sinh đáng thương phổi bị hít một lượng khí độc gây ngạt thở
tử vong… thì đời nay quả báo chín mùi, khiến cô mắc phải chứng bịnh phổi ung
bướu ác tính bất trị, bị cái chết đe dọa…
Tôi nghiêm túc kể rõ chuyện này cho dì Triệu
nghe và nói:
– Muốn cứu con gái, giờ chỉ còn một cách là: bắt
cô ta phải ờ trước Phật thành tâm đại sám hối, ăn chay… Hằng ngày phải tụng
“Kinh Địa Tạng” hồi hướng cho những chúng sinh bị cô làm hại, nguyện họ sớm ra
khỏi biển khổ, thác sinh vào cõi thiện, lìa khổ được vui.
Ngoài ra con gái dì còn phải nghiêm trì giới
luật, kiên trì hành thiện, dốc sức bố thí, phóng sinh, in kinh… tạo đủ các công
đức để hồi hướng cho họ. Dì nên nhắc nhở con gái: “Phải kiên nhẫn tu trì bền bỉ,
mới có cơ may sống còn!”.
38. CON VẶT CHẾT THẢM
Ngày nọ Lộ cư sĩ và Tiểu Man dùng chay xong, từ
trong tiệm cùng bước ra ngoài thì đột nhiên nhìn thấy cách đó không xa có một
khối trăng trắng trong vũng nước, hình dáng không rõ, họ liền tiến lại gần để
xem… và sợ đến giật nẩy mình. Té ra đó là thi thể một con bồ câu, nhưng
cảnh nó chết bi thảm nhìn khiếp đến nổi da gà. Ngoại trừ chút xương trên lưng
và đôi cánh còn nguyên vẹn ra, toàn bộ đều chẳng còn gì. Hai cư sĩ sinh tâm xót
thương, bèn lấy giấy bọc thi thể nó lại, tụng chú vãng sinh xong, thì đem chôn ở
bồn hoa gần đó. Sau đó khi đến dự pháp hội, Lộ cư sĩ tình cờ nhắc đến việc này,
ai cũng bảo:
– Đây ắt là báo ứng nhân quả…
Đúng vậy, tôi bỗng nhìn thấy rõ: chiêu cảm cái
chết thảm như thế, là do nhân ác đời trước nó đã gieo, xảy ra vào thời kỳ thế
chiến thứ hai:
“Có một anh lính Đức, đảm trách việc chôn thi
thể những nạn dân Do Thái bị hại. Trong đây có một thi thể còn thoi thóp thở,
hai cánh tay cứ đưa ra cứng đờ, anh lính này nhìn thấy khó chịu, liền nghĩ ra
một cách tàn nhẫn: đổ xăng lên củi mồi lửa đốt cháy thi thể nọ, chưa đầy một
lát, cái thây kia bị thiêu hết, chỉ còn hai tay và xương đầu, trông rất thảm.
Bởi anh lính Đức lúc đó trồng ác nhân, nên sau
khi chết rồi thì đọa ác đạo, đời nay thì sinh làm bồ câu. Trong lúc đang đi tìm
thức ăn đã bị một con mèo rừng chụp bắt ăn thịt, chỉ còn chừa lại đôi cánh. Con
mèo rừng này chính là người Do Thái từng bị đốt thây trong quá khứ”.
Nhân quả chân thực không dối. Ngay đây tôi thành
thật khuyên các độc giả không nên tạo nghiệp sát sinh, cần phải giữ lòng thiện,
xót thương chúng sinh khổ, mau sớm ăn chay, học Phật, để chóng lìa khổ được
vui.
Giải thích thêm: Lưới trời lồng lộng, tuy thưa mà
khó thoát. Thiện ác cuối cùng rồi cũng báo. Chớ thấy ác nhỏ mà làm, chớ cho
thiện nhỏ mà không làm.
Nếu trong thế gian nhiều người tin Phật, học
Phật, y giáo phụng hành, thì nhân gian sẽ giảm rất nhiều tai nạn khổ đau.
39. CẢM ỨNG KHI SIÊU ĐỘ VONG LINH
Tháng 12 năm 2004, Ấn Độ Dương bị địa chấn, phát
sinh sóng thần cực lớn, tám quốc gia Đông Nam Ả số người bị nạn tử vong, mất
tích… tính ra hai mươi mấy vạn, hơn ngàn vạn người không có nhà, tổn thất trầm
trọng…
Xem ti vi, thấy các thi thể nằm chất đống trên
bãi biển, gia quyến bi thống tuyệt vọng, một trường “quốc phá gia vong”, khiến
lòng người chua xót khôn cùng. Nhìn cảnh tượng này rồi, tôi không cầm được bi
thống, liền phát nguyện tụng “Kinh Kim Cang” hồi hướng cho những người chết
trong cơn sóng thần. Tôi nghiêm túc tụng một bộ “Kinh Kim Cang”, lúc đọc đến hồi
hướng:
“Nguyện đem công đức tụng “Kinh Kim Cang” này,
hồi hướng cho tất cả những người bị nạn trong cơn sóng thần nơi Ấn Độ Dương,
nguyện chư vị có thể nghe được Phật pháp, phát tâm đại sám hối, sám hối những
ác nghiệp đã tạo trong quá khứ, sớm vãng sinh thiện đạo, lìa khổ được vui”.
Đột nhiên, cách vai trái tôi chừng hai mét, xuất
hiện một đoàn người đứng xếp hàng dài, rất trật tự, rồi từng người một tiến tới
(từ bên trái đi qua bên hữu), cung kính lễ bái trước quyển “Kinh Kim Cang”, sau
đó không thấy họ nữa. Cảnh này kéo dài khoảng mấy phút (lúc đó tôi cho rằng đây
có thể là ảo giác).
Tôi thầm nghĩ: “Nếu như vừa rồi đoàn người lễ
bái “Kinh Kim Cang” là những vị đã mất trong cơn sóng thần, thì xin hãy hiện
lại một chút”. Trong óc tôi vừa nghĩ như thế, thì đột nhiên thấy ngoài song
kính cửa sổ (bên trái phòng) xuất hiện rõ ràng những bàn tay đủ loại đủ kiểu,
có những ngón móp méo giống như bị ngâm trong nước đã lâu, còn thấy rõ cả móng
tay và nơi kẻ tay từng giọt, từng giọt nước đang thi nhau rơi xuống, cảm giác
như từ họ trong biển ngoi lên và đang bấu vào cửa kính vậy.
Do việc xảy ra quá bất ngờ, lại ngay trong đêm
tối, khiến lòng tôi có chút sợ. Nhưng đêm đó ngoài trời rất trong trẻo, không
mưa, vậy mà nơi cửa kính lại xuất hiện những bàn tay ướt sũng nước, ngoài tiên
liệu của tôi. Điều này khiến tôi tin chắc rằng trong biển hẳn có nhiều người
nhờ nghe kinh pháp mà được lợi. Thế là tôi lập tức giữ chánh niệm, nhất tâm bất
loạn tụng kinh và niệm “Nam mô A Di Đà Phật!”… bốn bề dần dần hồi phục yên tĩnh
như cũ.
Sau việc này tôi nghĩ: “Những người mất này hiện
ra như vậy cũng là báo cho chúng ta biết: họ thực sự có tồn tại, thực sự rất
cần Phật pháp giúp đỡ”. Cầu mong thế giới này sẽ có nhiều người trì giới học
Phật, lòng người đều hướng thiện, việc việc khắc kỷ, không tranh, không tham,
không cầu, không tư lợi, không vọng ngữ… được vậy thì thiên tai nhân họa sẽ
giảm thiểu rất nhiều.
Giải thích thêm: Trong “Kinh Địa Tạng”
có giảng cách siêu độ: “Đối trước tượng chư Phật Bồ-tát, chí tâm tụng kinh này,
hoặc mời người tụng… từ ba đến bảy biến. Như thế quyến thuộc trong ác đạo, khi
nghe xong đủ số biến kinh, sẽ được giải thoát…
Tụng “Kinh Kim Cang” siêu độ người mất, công
hiệu cũng giống như vậy. Trong “Cảm ứng Thiên Vựng Biên” có ghi: Danh
tướng triều Minh là Thích Kế Quang, hằng ngày tụng “Kinh Kim Cang”, ông
cũng từng tụng “Kinh Kim Cang” cầu siêu cho một thuộc hạ đã chết. Kết quả, thuộc hạ này
được đầu thai vào cõi lành, còn báo mộng cảm tạ. Hiện nay trên thế giới luôn
phát sinh tai nạn, các vong linh đồng bào tử nạn thọ khổ, rất mong chúng ta
siêu độ cho họ…
Các bạn đồng tu học Phật, xin hãy từ bi vì những
người gặp nạn này mà tụng kinh hồi hướng, cùng chung sức giúp họ một tay:
“Nguyện họ sớm thoát ly biển khổ”. Dùng một trái tim như thế mà tu thì sẽ thành
tựu. Vì đó là nhân tâm, thiện tâm, Phật tâm vậy.
40. KHÔNG NÊN ĂN MẶC HỞ HANG
Hiện nay, trên áp phích quảng cáo, báo chí, tạp
chí, các trang Web, thậm chí cả điện thoại….thường cho mỹ nữ ăn mặc hở hang để
quảng cáo sản phẩm cho họ, mà không hề biết rằng đây là một hành vi sai lầm hại
mình, hại người.
Tôi hàng ngày làm việc, thường đi tàu điện ngầm.
Hôm đó, trong lúc đợi xe, thấy một tấm áp phích quảng cáo nội y, in hình một
người phụ nữ ngoại quốc ăn mặc hở hang. Có anh thanh niên tuổi chưa tới hai
mươi, cứ đứng dán chặt mắt vào tấm hình, cách ăn mặc khêu gợi trong áp phích đã
khiến cho tâm tư anh ta vọng động….
Điều này thật đáng lo, những cậu bé trong tương
lai sẽ là rường cột quốc gia, đang độ tuổi học hành, lẽ ra phải được tiếp thu
những điều hay, lẽ phải…cần được đào tạo hun đúc nhân sinh quan, thế giới quan
chính xác. Nếu bị những hình ảnh ô nhiễm này trưng bày khắp nơi, liên tục đập
vào mắt, tâm rất dễ bị lôi cuốn sa vào nẻo sai lầm, dẫn đến hành động hại mình
hại người, thật rất đáng tiếc….
Tôi lại nhìn vào bức hình quảng cáo kia, cô gái
trong hình nhan sắc yêu kiều quyến rũ, nhưng ăn mặc hở hang như vậy sẽ khơi gợi
dục niệm trong lòng người. Thế thì tương lai, cô sẽ phải lãnh quả báo như thế
nào? Vừa nghĩ đến đây, trong đầu tôi lại lóe sáng và thấy ngay dưới tấm áp
phích to đùng, bỗng hiện màn ảnh như thế này:
“Có một cái giường sắt, dưới giường lửa cháy
hừng hực, cô gái quảng cáo này đang nằm trên đó, lưng bị đốt cháy bỏng…Bên cạnh
cô có hai vị áo đen cao to, tay cầm dao sắc bén, ra sức rạch vào bụng cô
gái…lúc này ruột, phân, nước tiểu, máu mủ hỗn độn…trào ra ngoài”. Nhìn thấy
cảnh tượng đó, tôi không ngăn được hoảng kinh, thầm nghĩ: “Đây há chẳng phải là
hình phạt “Nam ôm cột đồng, nữ nằm giường sắt sao?”. Phạm tội tà dâm, khiêu
dâm, kích dục…thì phải thọ báo ở địa ngục mà!
Đồng thời, tôi cũng cảm nhận được cô người mẫu
quảng cáo nội y này hiện thời tuy đang trẻ trung xinh đẹp, nhưng thân thể đang
mắc rất nhiều bệnh, trong đó có chứng bệnh lậu – một căn bệnh phụ khoa nan y
hiểm nghèo…Lúc này trong đầu tôi vang lên câu xác nhận: “Người phụ nữ này do
tạo tội tà dâm tất sẽ đọa địa ngục, kể cả người chụp hình và ê kíp thiết kế ấn
loát cho ra những bức ảnh gợi dục kia, thảy đều sẽ lãnh quả báo đáng sợ. Phải
đợi đến người cuối cùng trên thế gian này – người mà thấy hình chụp kia rồi nổi
tâm dâm mà đọa ác đạo, rồi từ tam ác đạo thoát ra khỏi luân hồi, trở lên tu
hành đến không còn niệm dâm dục nữa – thì cô gái này cùng nhóm người có liên
quan đến việc chụp ảnh, sản xuất hình kia mới có thể thoát khổ địa ngục, ra
khỏi ác đạo….”. “Vạn ác, dâm đứng đầu”. Thật là khủng khiếp! Họa phúc không
cửa, do người tự chiêu. Báo ứng thiện ác, như bóng tùy hình, phải biết Nhân quả
báo ứng rất đáng sợ vậy.
Xin cảnh báo thế nhân, bất kể là nữ hay nam, đều
không nên ăn mặc hở hang rồi chụp ảnh quảng cáo tự khoe lấy mình, phô diễn thân
thể, quảng cáo ảnh sex, hay diễn phim gợi dục v.v…Quý vị nếu không muốn tạo ra nhân
xấu địa ngục thì những hành vi ăn mặc, cử chỉ cần nên cao quý, đứng đắn, đoan trang,
hành vi đừng cẩu thả phóng túng. Đừng chạy theo trào lưu, khoái một chút khen
ngợi mà quả báo chính mình phải chịu.
Nếu như Quý vị thích ăn mặc hở hang để quyến rũ
nhãn quang ưa nhìn của người khác phái, thậm chí kích động họ khởi lên dâm
niệm, thì quả báo do ác nghiệp này tạo ra rất đáng sợ! Đôi khi chỉ vì một chút
vô ý của quý vị, sai lầm, thiếu hiểu biết nhất thời mà thành chiêu hận thiên
thu. Mong quý vị cẩn trọng ghi nhớ kỹ, thường cảnh giác để không tự hại mình…
Riêng hàng tu sĩ cần phải khắc ghi lời Phật dạy:
“Xa lìa cảnh khiêu dâm! Mắt chẳng nhìn, tai chẳng nghe, miệng chẳng nói lời
tà….
Người giữ giới bất dâm có năm công đức, quá khứ,
hiện tại, vị lai Chư Phật đều tán thán. Người bất dâm, hằng trụ trong uy nghi
Phật, thân tỏa hương thơm như Phật.
Các tu sĩ cần giữ mắt, tai, mũi, lưỡi tâm ý
thanh tịnh…Mắt không nhìn sắc dâm, tai không nghe khúc hát gợi tình, lưỡi chẳng
bàn chuyện thế tục, chẳng khen dâm sự, miệng vĩnh viễn chẳng ca ngợi dâm ái xúc
lạc, chẳng nói những lời làm tăng nghiệp xấu si ái vô minh. Tâm chẳng trụ cảm
giác cuồng si. Ý luôn thanh tịnh, không khởi nghĩ hay nhớ đến dâm, không tự
hành tà hạnh.
Học theo hạnh Phật, hằng trụ tâm Phật như vậy là
trụ nơi chân như, sẽ được năm công đức, thân thường thanh tịnh như hoa sen,
trinh khiết trong sạch. Thế nên, giới bất dâm rất thù thắng thanh tịnh có đầy
đủ công đức, lợi ích vô thượng…Đây là nhân giải thoát, dù tán thán ngợi khen
mấy cũng không sao nói hết. Dâm là phiền lụy trói buộc cực nặng, là tội trọng
căn bản. Kinh Lăng Nghiêm nói: “Tâm dâm chẳng trừ, trần lao khó xuất”.
Riêng quý vị tại gia, cư sĩ nên mặc y phục đứng
đắn, rộng thoáng, không nên ăn mặc hở hang thái quá. Đặc biệt là đối với các tu
sĩ trì giới tu hành, quý vị càng không nên quấy nhiễu họ. Trong Phật môn luôn
nhắc nhở: “Thà khuấy động ngàn sông, chẳng nên làm động tâm người tu”. Nếu cố
tình khiến người trì giới khởi tâm động niệm phiền não, là quý vị đang mắc tội
phá giới thanh tịnh của người, lỗi này cực lớn, mong quý vị hiểu rõ để tự bảo
vệ, răn dè (nhất là các phụ nữ khi đến chùa nên ăn mặc kín đáo trang nghiêm).
Lời người dịch:
Thoạt đầu khi đọc đến bài này, tôi cảm thấy thật
khó mà tin nổi!…Về sau, tình cờ tôi đọc phải những bài thổ lộ chia sẻ của các
nam nhân, mỹ nữ khác (Xin xem tiếp bài : “LỜI SÁM HỐI CỦA CÔ NGƯỜI MẪU” ở phần 2) Tôi bắt
đầu nghĩ lại và suy gẫm về những gì cư sĩ Quả Hồng nói.
Quả Hồng ở Trung Quốc Đại Lục, còn những người
kia thì có kẻ ở Đài Loan, họ không hề quen biết nhau song những điều họ miêu tả
lại tương tự nhau, khác chăng là họ tự thân trải qua cảnh đó chứ không phải chỉ
thấy như Quả Hồng…
Vì vậy, mà dù có ngần ngại, tôi vẫn dịch bài này
ra. Quí đọc giả có quyền tin hay không và tự do lựa chọn phương cách sống hữu
ích cho mình. Có lần đọc báo, thấy đăng tin có một đám thanh niên tuổi 15-17 đi
cưỡng hiếp tập thể một cô bé. Khi bị bắt các em khóc mếu máo khai rằng chỉ vì
xem phim ảnh sex trên điện thoại mà khởi tà tâm. Cho nên những hình ảnh xấu quả
là gây khổ lụy khôn lường!
Tôi thầm nghĩ: “Nếu như quảng bá hình ảnh phim
dĩa sex, gợi dục, đồi trụy v.v…là có tội vô cùng, thì những vị có chức quyền
chuyên đi thu gom, dẹp, hủy các thứ này ắt là cũng…được công đức vô lượng
vậy!”…
Phần
2
41. LỜI SÁM HỐI CỦA CÔ NGƯỜI MẪU
Tôi là một cô gái hai mươi mấy tuổi, thời thơ ấu
hoàn cảnh gia đình bất thường đã tạo nên tính cách hư hỏng trong tôi. Từ nhỏ
tôi rất ghen tị với những đứa bé được cha mẹ yêu thương, có bạn bè tốt. Mặc dù
đây là những điều bỉnh thường ai cũng có, nhưng đối với tôi lại quá xa vời,
vĩnh viễn khó đạt tới.
Cha mẹ tôi là người có tiền, có địa vị trong xã
hội, nhưng chẳng hề quan tâm đến tôi. Từ nhỏ tôi hay bị chỉ trích chế nhạo. Mặc
dù tôi thấy mình không làm gì sai, chỉ là tôi học tập không giỏi (dù có cố
gắng), bản tính vốn nhu nhược. Từ lúc có trí nhớ đến nay tôi luôn thấy mình
toàn thọ nhận những đối xử bất công!
Còn một việc khác nữa, do cha mẹ chẳng để ý quan
tâm, nên thời thơ ấu trong một lần đến nhà bạn chơi, tôi đã bị người cưỡng
hiếp. Niềm đau này tạo thành ảnh hưởng khó xóa phai trong tôi. Càng lớn, tôi
thường hay bị người quấy rối. Từ lớp 6 đến lớp 9, tôi luôn bị bạn học chế giễu,
hay bị người khác phái chọc ghẹo, làm phiền. Lúc đó tôi là một nữ sinh khù khờ
thực thà, tính cách nhu nhược, mặc quần áo cổ lỗ lỗi thời, nhưng không hiểu sao
vẫn luôn bị chọc ghẹo? Tôi khóc hoài. Bởi tôi hoàn toàn chằng thể giải thích,
không biết trước đây mình đã từng làm gì sai mà thế nhân đối với tôi như vậy?
Tôi chỉ muốn được làm một người bình thường!
Lên lớp 10 rồi thì đây thực sự là ác mộng của
tôi. Hồi trước tôi có bị chế giễu chi, thảy đều là chuyện nhỏ. Lên cao trung
rồi, tôi biến thành đối tượng để các bạn học trút mọi căm phẫn. Vì vậy tôi càng
trở nên suy sụp rụt rè. Đầu tóc lúc nào cũng rối bù như tổ quạ. Y phục lôi
thôi, mặt luôn đầy nước mắt. Thậm chí các bạn học có thể khạc nhổ trước tôi
không chút kiêng dè, hơn nữa còn lớn tiếng chế nhạo, lăng nhục hết mức… Các
giáo sư không những chẳng quản, còn biểu lộ vẻ rất khoái chí. Tôi không hiểu
sao mình có thể chịu đựng được? (Ngay cả bây giờ nhìn lại, chính tôi cũng khâm
phục mình, vì đã có thể sống được và vươn lên từ trong môi trường hoàn cảnh như
vậy).
Cuối cùng, tôi hoàn toàn tuyệt vọng và chẳng còn
tin vào “thiện lương” hay “chính nghĩa” nữa! Tôi cho rằng: Đây là thế giới
“mạnh hiếp yếu!” Nghĩa là “dù bạn có nhường nhịn đến mấy… thì người ta cũng
không tha bạn”… Do ôm thù hận bất mãn gần 10 năm, nên tôi đã vùng lên: kể từ đó
tôi làm gì cũng đều là lật lọng, phản bội, lừa dối… miễn là tôi đòi lại được
công bằng cho chính mình! Tôi nhất định phải chiếm ưu thế, phải… mạnh hơn thiên
hạ!
Với tôi, “thế giới này quá hắc ám!”. Khi tôi vào
đại học thì ngôi trường nảy là một nơi có quan niệm không lành (rất quí chuộng
tiền bạc), phần đông người ta ngưỡng mộ hoan nghênh những cô gái có sinh hoạt
hỗn loạn, thay bạn trai như thay áo. Tôi dám khẳng định rằng: rất ít có nữ sinh
còn trong trắng. Kế trường tôi là một dãy khách sạn, quán trọ. Hễ đến chủ nhật
hay ngày nghỉ là trong đó đông nghịt, thậm chí rất nhiều sinh viên của các đại
học nổi tiếng cũng mò đến đây vui chơi (cạnh trường chúng tôi còn có rất nhiều
đại học khác nữa).
Từ đây, tôi bắt đầu lột xác, biến thành một
người khác hẳn. Tôi luôn ăn mặc theo mode, không ngừng thay đổi thời trang lẫn
bạn trai. Tôi tuyệt chẳng ưa hay yêu thương gì bọn chúng, thậm chí có nhiều gã
tôi vừa nhìn là phát ói… Thực ra tôi chỉ lợi dụng họ để trả thù đời thôi, tôi
muốn tất cả nam nhân phải cung phụng tôi. Dù ở trong trường tôi vẫn lo củng cố
địa vị mình cho vững mạnh. Tôi luôn nghĩ: “Dù sao mình sớm đã chẳng “sạch sẽ”
rồi, thì việc tiến thân bằng nhan sắc, có lẽ là con đường của tôi! Tôi bắt đầu
lên mặt, tự kiêu vì mình xinh đẹp và chấp nhận lời mời chụp quảng cáo cho các
công ty người mẫu.
Do tôi lả người mẫu, là mỹ nữ… nên có biết bao
chàng vây quanh, nhưng tôi toàn gạt họ để lấy tiền, hoặc biến họ thành kẻ cung
cấp những thứ tôi cần, do vậy mà tôi rất kiêu ngạo. Hơn nữa tôi cỏn gạt tiền
người nhà, vì tôi và các bạn học ở túc xá giao thiệp không tốt nên tôi muốn ra
ngoài thuê phòng, tôi đã lấy lý do học tốt để gạt tiền gia đình gần cả vạn. Dù
tôi lừa tiền người trong nhà, nhưng lòng không hề hổ thẹn áy náy, cỏn cho rằng
“tại họ chẳng quan tâm lo cho tôi, nên mới bị báo ứng như vậy!”. Mặc dù đám bạn
trong ký túc xá tính tình rất dữ, nhưng ai bảo tôi ưa gây cãi với họ làm chi?
Nếu như tôi sớm nhận thức: sống phải biết giao tế khéo léo ôn hòa, thì có lẽ
không đến nỗi cãi gây ầm ĩ với bạn.
Trong thời gian này tôi quen một thanh niên cực
kỳ tử tế, đối với tôi anh rất hi sinh, tốt bụng, mặc dù ở trường tôi đã có
nhiều bạn trai cung phụng, nhưng tôi vẫn giao lưu thêm để lừa tiền anh ta. Tôi
luôn nêu đủ lý do để moi tiền của anh, nào là cần tiền ăn, tiền mua sắm y phục…
tôi luôn than thở làm ra vẻ mình túng bấn để anh xót xa mà chi tiền cho tôi,
trong khi tôi cũng có tiền, được nhiều người cung cấp, nhưng tôi vẫn moi thêm của
anh, tôi làm vậy chỉ là đề thủ thân, dự phòng cho lúc túng thiếu. Như thế, anh
đã tiêu tổn cho tôi gần cả vạn. Anh hoàn toàn không biết rõ về tôi, rất nhiều
việc, tôi đều giấu anh.
Nhưng cuối cùng tôi không chịu nổi lương tâm quở
phạt, nên tôi thú nhận với anh một phần sự thật. Tôi nói rằng: “Vì muốn lợi
dụng anh nên em mới theo bên anh, nhưng không ngờ anh là một người hiền lành
thật thà, anh đã cho em biết thế nào là sự ấm áp của tình yêu! Vì vậy em không
muốn tiếp tục lừa anh nữa”. Khi tôi cư xử thành thật, đem mọi việc thú nhận với
anh rồi, thì kết quả là: anh dứt tình và triệt để lìa xa tôi.
Lúc tôi quyết định sáng mai đi chụp ảnh quảng
cáo nội y cho một công ty, thì tối đó tôi nằm mơ thấy mình đến địa ngục, đây là
một nơi âm u đáng sợ, có lửa cháy khắp nơi, chỗ chỗ người ta rên rỉ kêu gào.
Chẳng biết là ai dẫn đường mà tôi cứ thế đi mãi… tham quan vòng quanh địa ngục.
Trong lòng cảm thấy bị áp lực và sợ hãi vô cùng.
Mặc dù sau khi thức dậy trong lòng rất không an,
nhưng tôi không cưỡng nổi hấp lực của danh vọng và tiền bạc, nên đã nhận lời đi
chụp quảng cáo (nhưng thực ra công ty đó là chỗ “treo đầu dê, bán thịt chó”)
tới rồi mới biết chẳng phải là chụp nội y như họ đề nghị, mà là chụp ảnh nude.
Trải qua một thời gian tôi mới rõ, không những
chỉ chụp khỏa thân, mà có một số nhà làm phim sex nắm được chỗ hổng của pháp
luật, thừa cơ tiến hành giao dịch tình dục. Ban đầu tôi không đồng ý chụp ảnh
quá mức, nhưng sao tôi có thể cao tay, giàu kinh nghiệm hơn đám giám đốc đó
được? Trong đây luôn có “quy luật ngầm” nghĩa là muốn tiến thân, nổi bật thì
phải “lên giường”… Bọn họ mới đầu thường ra vẻ mình là công ty chính quy, rồi
từng bước, từng bước dụ dỗ các cồ gái sa vào đọa lạc, mãi cho đến khi các cô
trở thành công cụ kiếm tiền của họ…
Giám đốc hứa hẹn mỗi tháng tôi sẽ kiếm được rất
nhiều tiền (Giờ đây nghĩ lại tôi rất hối hận vì ham kiếm tiền, mà tôi đã hủy cả
đời mình). Tôi đã từng tự an ủi: “Ráng kiếm được mớ tiền rồi, sẽ mở tiệm sinh
sống, sau đó không làm nghề này nữa”… Tôi phát hiện rất nhiều người hành nghề
giống tôi đều nghĩ như vầy, nhưng các cô ấy vĩnh viễn chẳng toại nguyện như họ
mong muốn. Tôi chuyển đổi rất nhiều công ty, nhưng luôn phát hiện người ta
không đáng tin, thậm chí có một số công ty luôn xài “quy luật ngầm”.
Tức nhiên tôi phải ngủ với nhiều người, nhiều
lần, mang danh là mỹ nữ nổi tiếng, nhưng sống toàn làm nhân tình tạm. Trong
trường tôi có rất nhiều cô gái làm tình nhân của các ông có vợ, mọi người tương
đối nể họ. Nên tôi cũng sống như vậy.
Khi ra đời, sống và làm việc, gặp nhiều giả dối
gạt lường, tôi mới nhận ra mình đã sai, do tôi đã không làm gì tốt nên mới gặp
toàn những cha nội đểu giả, xỏ lá bịp bợm…
Ngày xưa tôi bị chìm trong thù hận và chỉ biết
có kim tiền… nên từng bước, từng bước tiến thân của tôi đều là đi đến vực thẳm
(Tôi đã khiến hạnh phúc tối hậu của đời mình bị hủy trong tay tôi). Bây giờ khi
đã sa cơ tuột dốc, tôi biết không một nam nhân nào có thể ngó đến một kẻ như
tôi, tôi là kẻ không được cha mẹ yêu, không bạn bè thân thiết… cũng từng có
người yêu tôi rất chân thành, nhưng tôi đã hủy hoại tất cả…
Tôi lo là nếu như những phim quảng cáo gợi dục,
những tấm hình sex tôi chụp bị phát tán, gây tai tiếng lùm xùm… thì sẽ không
được trọng dụng nữa.
Như vậy thì tương lai của tôi xem như bị hủy
hết: mất cả vận may lẫn bản thân. Nhưng có hối hận cũng chẳng ích gì! Trước đây
tôi tưởng chụp hình vậy là được người nể, không bị ăn hiếp, nhưng đâu biết làm
vậy là mình đang bỏ gốc theo ngọn, đánh đổi cả cuộc đời để có được chút hào
quang ngắn ngủi phù du trong mấy năm mà thôi!
Sau này tôi liên tiếp mơ thấy những giấc mộng
liên quan đến địa ngục, đều là trong thời gian tôi chụp hình quảng cáo, phát
hành phim ảnh sex.
Có đi làm và đối mặt với danh trường bất hảo
rồi, tôi mới khám phá ra: “Được làm một người tốt, sống an phận thủ thường là
hạnh phúc thư thái nhất, vì tâm luôn thoải mái, không sợ cuộc sống túng quẩn,
không sợ thiếu thốn”…
Từ lúc làm phim, chụp hình nude, quảng cáo sex
và làm nhiều việc xấu đến nay, tôi không có một ngày được an vui, không một
ngày ngủ ngon. Tâm lúc nào cũng nặng nề như bị đá đè, có lúc còn thấy lòng như
bị cắt xé, đau đớn thống khổ, hoảng loạn bất an, tim luôn hồi hộp kinh sợ, đêm
chẳng thể chợp mắt.
Như tôi hiện tại đây, tinh thần luôn bị áp lực
lớn, dù kiếm được nhiều tiền thì cũng tiêu xài hết. Bởi đồng tiền không sạch sẽ
đến nhanh, thì đi cũng nhanh!
Tôi vì mê kiếm tiền, ham danh, mà đã lầm lạc hủy
hoại cả đời mình! Có lẽ sẽ có người nói: “Làm siêu mẫu cũng có cô kiếm biết bao
tiền, số đỏ, nhiều hạnh phúc”…
Thế thì tôi xin nói thực với bạn, cái nghề này
phải hi sinh rất nhiều cô gái mỹ miều rồi mới “xuất ra” được một cô người mẫu
có số đỏ, hơn nữa cô người mẫu này cũng “hồng phận” không được bao lâu… có lẽ
sẽ có nhiều cô tự cho rằng mình rất xinh đẹp, có thể làm người mẫu nổi danh,
sung sướng đủ điều… Thế thì tôi sẽ giải thích cho bạn hiểu: Tôi đã từng gặp
nhiều người mẫu đẹp hơn minh tinh, tôi cũng quen rất nhiều bạn tốt nghiệp điện
ảnh, nhưng vì sao số họ không hồng? Bọn họ không phải là chẳng biết nắm bắt
thời cơ, cũng chẳng vụng giao tế quan hệ, cũng chẳng kém học lực hay khí chất
chi…
Có rất nhiều người xinh như tiên nữ hạ phàm,
nhưng bất kể họ tận dụng hết tâm lực cơ hội, bao gồm học biểu diễn, nghệ thuật…
(rất nhiều sinh viên mê ngành này) Nhưng đã vào làng giải trí rồi, bất kể họ
làm gì, thảy đều không hồng phận. Bạn biết vì sao không? Không phải vận khí
xấu, mà là do số mệnh!
Bạn ạ, những minh tinh đang nổi, có tiếng tăm
thế lực, bất kể họ làm gì thì cái số cũng đỏ, cho dù họ có quay, có chụp, có
diễn phim sex hay tình dục…. thì số mệnh cũng vẫn hồng! (Nhưng đấy là do đời
trước họ từng tích đức, nên đời nay mới đạt được cơ may, hưởng nhiều phúc lành
như vậy. Hoàn toàn không phải do có nhan sắc xinh đẹp là đủ) Bạn đừng có ỷ vào
nhan sắc và dốc hết sức lực đầu tư vào đó rồi tưởng là… có thể một bước lên
mây! (Rất nhiều vực thẳm cạm bẫy đang chờ mà bạn không lường trước được!)…
Nhưng mà, những ngôi sao nổi tiếng có “số đỏ”
này rồi cũng sẽ tự hủy hoại minh thôi, nếu như họ chấp nhận chụp hình sex hay
diễn phim tình dục dâm uế (một khi làm vậy là chính họ đã tự hủy hoại tất cả
phúc báo của mình!)… Cũng có thể khẳng định rằng: – Nếu như họ không chụp sex,
không diễn những phim khiêu dâm, không phóng túng tình dục – thì số họ sẽ còn
rất hồng, danh trường bền lâu!
Vi vậy, tôi xin khuyên các giai nhân mỹ nữ,
những ai ưa làm người mẫu, ca sĩ, diễn viên, các vị ngàn vạn lần không nên bước
vào vòng sex, chụp hình nude, hay đóng những phim ảnh khiêu dâm và nhất là đừng
phóng túng tinh dục!…Ngàn vạn lần không nên tự ỷ mình xinh đẹp. Nếu như bạn
đang lên, mà cứ làm vậy thì cũng không bảo đảm là bạn có thể “lành lặn” để tháo
lui đâu. Cho dù bạn chỉ hát ca khúc gợi tình, chụp ảnh sex… thì cũng bị tính là
“đi vào con đường kéo mọi người “trầm mê trong u tối”, sau khi chết bạn sẽ phải
xuống địa ngục thọ khổ, đền tội không biết bao nhiêu năm… vì tôi từng mộng thấy
cảnh địa ngục, nên hiểu rất rõ điều nảy.
Còn nữa, cho dù bạn đẹp đến mấy, nhưng nghề nào
liên quan đến chụp, diễn, khỏa thân quảng cáo hoặc ca vũ ờ các quán nhằm khơi gợi
dục tình v.v…thì bạn đừng bao giờ làm.
Dục vọng con người thường không kềm chế được,
ngay lúc bạn muốn xuất thân, muốn vươn lên bằng con đường chụp phim ảnh (sex,
gợi dục) này, thì một hoàn cảnh hiểm ác đọa lạc khác rất có thể đang chực chờ
sẵn khiến bạn vô phương thoát ra, vô phương cứu vãn. (Nếu bạn không chìu ý,
không đáp ứng theo yêu cầu của đối tác thì bạn vĩnh viễn không có cơ hội để
ngoi lên (tiến thân), thế thì chi bằng vừa bắt đầu, bạn hãy ngưng, đừng thèm
làm!
Còn nữa, tôi xin khuyên các bạn mơ làm người
mẫu, ngàn vạn lần không nên lên mạng tùy tiện tìm công ty, hay nhận đi chụp
quảng cáo nội y hay ảnh sex, ảnh nude…đừng tin lời những người hứa hẹn sẽ cho
bạn đăng quang, nổi danh, kiếm nhiều tiền… nếu bạn đồng ý, sẽ có những “luật
ngầm” khiến bạn phải lên giường với người, nhưng rồi việc cũng không tốt hơn
đâu! Đừng bao giờ tin rằng mọi sự đều dễ thành như ý bạn mong muốn!
Cỏ lẽ sẽ có nhiều người bảo: “Vi tôi thuộc diện
người mẫu hạng hai nên mới không có cơ hội thăng tiến cao”… thế bạn cỏ biết
rành những uẩn khúc và hoạn nạn đoạn trường trong ngành này không?
Tôi từng là người mẫu nổi tiếng, thường trình
diễn thời trang và có nhiều cơ hội để cho ra album và phát hành các bộ ảnh
tuyệt vời, nhưng đây là con đường danh vọng đầy nước mắt mà bạn không thấu rõ…ở
Trung Quốc ta hiện có rất nhiều sinh viên tốt nghiệp điện ảnh, nhưng thảy đều
rất khó tìm việc. Họ phải bôn ba chạy vạy rất lâu, phải nhờ cậy rất nhiều mối
quan hệ, thậm chí phải ngủ với nhiều đạo diễn… (đương nhiên cũng có rất nhiều
thành phần dù xuất thân từ bùn mà không nhiễm ô, không phải tôi nói các ngành
nghệ thuật biểu diễn thảy đều xấu hết) nhưng đa số các bạn ấy thường được chia
cho vai diễn lặng lẽ vô danh…
Bạn ạ, nếu bạn không có phúc báu, không có bối
cảnh, quan hệ tốt… mà muốn đua tranh cùng người để được bước vào trường danh
lợi hắc ám này… thì chính là bạn đang hủy hoại tất cả trong tay, tự chôn vùi
hạnh phúc mình. Vì cho dù bạn có bối cảnh, quan hệ tốt… hiện đang là minh tinh
số đỏ đang lên, thì sao hả? Bạn có thể đỏ mãi hoài chăng? Bạn già rồi vẫn có
người chạy theo ư? Bạn chụp ảnh, diễn sex thì chẳng xuống địa ngục ư? Trước khi
chưa ra phim ảnh gợi dục này, chí ít vẫn bạn vẫn có thề nhờ vào cố gắng của bản
thân mà sống tốt, không nhất định phải kiếm tiền bằng việc thực hiện phim ảnh,
băng đĩa đồi trụy. Bởi vì tội lỗi (ảnh hưởng của băng đĩa bất lương này gây ra)
sẽ do bạn tự gánh, chưa kể bạn phải sa vào vòng xoáy hỗn loạn… Đã có báo đăng
các cô người mẫu xinh đẹp ra nước ngoài bị ép bán dâm, hút ma túy, (bạn lên
mạng xem sẽ rõ hết)…
Tôi biết rất rõ các công ty người mẫu, cơ bản là
đều có cho người mẫu bán dâm, đương nhiên trước đó họ không nói ra, chỉ biểu
hiện
vẻ bề ngoài là cho trình diễn “nét đẹp thân
thể” hoặc “body nghệ thuật” v.v… nhưng thực tế nội bộ sẽ có rất nhiều người mẫu
bị ngầm chụp một số phim ảnh sex. Khi album hình này xuất ra được ưa thích, thì
người chụp sẽ còn tung lên mạng để giao lưu với những đầu nậu có nhu cầu. Trung
Quốc không có luật bảo vệ việc tư riêng cá nhân, một khi những ảnh “nẩy lửa” của
mình được tung lên mạng, bạn sẽ không biết là ai phát tán, bạn không hề biết rõ
là Trung Quốc có rát nhiều trang web khiêu dâm, đều thành hình từ đây.
Còn nữa nếu các giám đốc khác lén đem hình bạn
bán cho các trang web khiêu dâm, bạn nghĩ bọn họ sẽ trình cho bạn biết ư? Vậy
đó, bạn vì muốn kiếm tiền nhiều, không ngờ tự khiến mình xuống địa ngục. Bời
chỉ khi nào phim ảnh khiêu dâm của bạn biến mất trong thế giới này, thì bạn mới
có thể thoát ra từ địa ngục. Thế thì có nghĩa là phải đợi đến ngày thể giới hủy
diệt (hình này được tiêu mất rồi) thì bạn mới có thể ra khỏi địa ngục ư?… Kiếm
tiền như vậy liệu có đáng không?
Có lẽ sẽ có nhiều người nghe kể sẽ không tin và
cảm thấy tôi rất đáng thương. Nhưng trong lúc tôi hồi tưởng tĩ mĩ nhưng hành vi
trước đây mình đã từng làm rồi, thì tôi hiểu tất cả đều là báo ứng.
Tôi lớn lên trong tủi nhục, bị người thân ghẻ
lạnh, bị bạn bè cô lập, bị ăn hiếp, khinh rẻ là vì tôi đã từng gieo nhân này.
Để tôi kể cho bạn nghe.
Tôi từng là người mẫu nỗi danh, có quyền, có
tiền trong tay, tự ỷ vào nhan sắc, mặc tình làm khổ người, đùa cợt với tỉnh.
Bởi vì tôi gạt lừa tình cảm biết bao đàn ông khiến họ phải khóc hận đau khổ,
thậm chí có người hóa điên vì tôi…
Tôi chọn thăng tiến bằng nhan sắc, do đó đã
phóng túng tình dục với nhiều nam nhân, hậu quả là bây giờ dung mạo tôi xuống
cấp, già mau, xấu xí. Do tôi do tà dâm quá độ, làm thương hại đến tinh thần,
nguyên lực bản thân. Bây giờ người gầy ốm giơ xương giống như que củi, đến nỗi
đi một đoạn cầu thang là đã thở không ra hơi, trí nhớ cũng rất tệ, không thể
học hay làm gì thêm được nữa…
Hồi xưa da dẻ tôi tươi nhuận căng hồng, bây
giờ trở nên nhăn nheo, bạn bè nhìn thấy đều bảo: trông tôi già còn hơn mấy bà
cô!
Da tôi giờ hay nứt nẻ chảy máu. Rửa tay bước đi…
đều thấy đau. Mùa đông tôi rửa tay bằng nước lạnh là muốn khóc, cảm giác đau
không ngừng, giống như bị dao cắt… Hiện giờ tuy đã thoa kem chống nứt nẻ, nhưng
vẫn cứ nhăn nheo. Tôi nghĩ là do tinh thần nguyên lực tôi bị tổn quá trầm
trọng. Tôi sống được đến giờ phải nói là kỳ tích.
Còn nữa, bởi vì tôi phóng túng tính dục với
nhiều nam nhân khiến tử cung bị xói mòn, bác sĩ từng cảnh báo tôi phải đi khám
ung bướu tử cung. Tôi cũng thường cảm thấy bụng dưới khó chịu. Có lần khi vừa
uống thuốc ngừa thai xong, tôi có cảm giác đau như bị dao cắt, đau suốt cả đêm,
khiến tôi khóc mãi.
Do tôi quan hệ nam nữ bừa bãi hỗn loạn, có lần
bị một số nam sinh dụ gạt bắt cóc tôi đến nơi hẻo lánh luân phiên hãm hiếp, dù
tôi không có làm gì đắc tội với họ.
Khi đã nếm trải đau khổ cực cùng, không còn gì
trong tay, tôi luôn hỏi trời, hỏi Phật, Bồ-tát… rất muốn biết rõ tiền nhân hậu
quả của mình. Có lẽ nhờ tôi thành tâm nguyện cầu, cuối năm 2012, tôi mơ thấy
một giấc mộng tiền kiếp:
“Tôi là một thanh niên đang đứng cùng một bà
(giống như chủ nhân mình) dưới một tòa lầu. Bà chủ tôi đang cầm sổ tính tiền,
chúng tôi cùng đi thu nợ. Xem bộ dạng tôi có vẻ là một kẻ thông minh, quỷ
quyệt; ranh ma, giỏi việc… Tôi cư xử rất được lòng chủ, khéo làm bà vui. Tôi
luôn sẵn sàng nói những câu khiến bà khoái nghe, dù đó là những lời tổn người
để thu lợi cho mình!
Tôi thấy bên trong căn phòng tồi tàn nhếch nhác,
vọng ra tiếng rên rỉ căm hờn của một cô gái: -Tao dù chết cũng không tha cho
chúng bây! Câu nói chứa đầy oán hờn căm thù, âm thanh giống như các vong hồn ở
tận vực sâu đã lâu chưa được ngoi lên, khiến kẻ từng trải cứng đầu như tôi vừa
nghe đến cũng phải kinh tâm táng đởm. Oán khí này giống như có hình tướng, mang
đầy hắc khí u ám, xuyên thấu phủ trùm cả không gian và toát ra mối hận xung
thiên. Nhưng lúc đó tôi vì muốn nịnh bợ bà chủ nên vẫn tỏ ra cay nghiệt, hách
dịch nói:
– Ai bảo mày không trả nợ…
Đại khái là cô gái này chưa thanh toán tiền thuê
phòng chi đó, cho nên tôi và bà chủ đã đến đòi và trừng phạt bằng cách nhẫn tâm
khoanh tay đứng nhìn cảnh cô ta bị hiếp dâm tập thể, tôi còn thản nhiên buông
lời độc địa, mỉa mai…
Thức dậy rồi, oán khí lạnh lẽo của cô gái đó như
vẫn bao phủ quanh tôi, tiếng kêu rên thảm thiết, đầy căm thù như vẫn còn văng
vẳng bên tai tôi. Tôi đột nhiên hiểu ra vì sao hồi nhỏ mình bị cưỡng hiếp, sau
này còn bị hiếp tập thể, rồi càng vì đó mà đọa lạc phong trần.
Lâu nay, tôi đoán rằng đời trước chắc chắn mình
gây ra tội lỗi chi đó, nên mới chiêu lấy vận mệnh bi thảm như đời này. Nhưng
tôi hoàn toàn chẳng dám tin rằng đời trước mình có cưỡng hiếp phụ nữ, bởi vì tôi
cho dù nham hiểm gian trá, lòng lang dạ sói, nhưng cũng không đến nỗi làm ra
những việc như thế kia!
Nếu như thời ấu thơ tôi không bị cưỡng dâm, thì
có lẽ cuộc đời này của tôi chắc đã sống bình thường như bao người khác, có thể
tôi đã không tự cam đọa lạc, tạo ra những tội địa ngục…
Thế là tôi phòng đoán, biết đâu chừng đời trước
tôi là chủ chứa, ma cô? Từng hại rất nhiều phụ nữ, cho nên đời nảy phải nếm qua
mùi vị bị cưỡng hiếp, cuộc sống gặp lắm nhục nhằn? Nhưng giấc mộng tôi vừa nằm
thấy (có lẽ là nhờ tôi không ngừng sám hối, hỏi trời xanh, hỏi chư Bồ-tát). Sau
đó, tôi đột nhiên hiểu rõ ra: Tất cả khổ nhục đời này là do đời trước tôi thản
nhiên khoanh tay đứng nhìn cô gái nọ bị làm nhục, còn buông lời cay độc mỉa mai
nhạo báng, rõ ràng là tôi có thể cứu cô ta, nhưng lại không lảm! Tôi chẳng
những không cứu nạn nhân mà còn xum xoe nịnh bợ bà chủ, nói toàn những lời cay
nghiệt ích kỷ, hòng kiếm lợi về cho mình.
Vì vậy mà đời này khi tôi bị cưỡng hiếp rồi, có
mách với người thân thì gặp cảnh họ dửng dưng thản nhiên, không hề nói một câu
tỏ chút lòng xót thương, ngược lại còn trách tôi: “Tự đưa đầu tới đó làm chi?”…
Cho dù tôi biết song thân chắc chắn chẳng thể
khóc lóc xót thương như những bậc cha mẹ bình thường, nhưng những câu họ nói,
những cư xử ghẻ lạnh của thâm tình khiến tôi thấy tê tái vạn bội.
Tôi luôn tự hỏi: – Rốt cuộc cô gái đời trước đã
làm gì để báo thù tôi?…
Tôi cũng từng cư xử xấu, cũng hùa với đám đông
để a-dua, cười nhạo những bạn bè bị cô lập. Và tôi cũng thấm thía khi nếm báo
ứng bị người chung quanh chế giễu cô lập, khinh khi, bài xích.
Tôi từng cười nhạo bội phản bạn bè, do sợ những
bạn bị cô lập làm liên lụy mình, nên tôi cũng hùa với đám đông hất bạn ra, thậm
chí còn nói xấu bạn nữa…
Thời đại học tôi ưa mỉa mai người, còn vẽ tranh
trào phúng “khiêu dâm liên hoàn” để châm chọc, giải trí… Mà những gỉ tôi vẽ
trong tranh, thực tế nạn nhân không hề có làm vậy, toàn là họ bị tôi hại, bịa
đặt ra…. tôi hay tặng cho người những biệt danh khó nghe và còn làm thơ trào
phúng chế giễu người, luôn muốn khoe mình thông minh, dí dỏm, có tài…
Cho nên quả báo là tôi quen toàn những bạn dối
trá không thật lòng, luôn bị người phản bội.
Hồi nhỏ tôi sát sinh rất nhiều, chuyên hành hạ
các loài vật nhỏ khiến chúng tàn tật, còn cho rằng làm vậy chẳng ăn nhằm chi.
Mặc dù có một số côn trùng là do người nhà sai tôi giết, nhưng chung quy vẫn là
tôi thực hiện, vậy tôi trốn sao cho thoát báo ứng nhân quả đây?
Tôi rất ưa ăn cá thịt, hải sản tươi sống, khó
thể ăn chay! Do vô tri thiếu hiểu biết nên tôi phạm tội rất nhiều. Loài vật
chết vì tay tôi không đếm được, nợ oan trái này tôi không biết làm sao mà trả
hết?…
Có lẽ do nghiệp lực chiêu cảm, hoặc do ác nghiệp
đời trước của bản thân tôi khó sửa, thuở ngu si, vì không biết Phật pháp nên
tôi đã tạo tội ác mù trời. Do vậy mà tôi thường mộng thấy vô số côn trùng, cũng
mộng thấy mình biến thành những con vật mà tôi từng giết ăn, hầm, nấu… Những ác
mộng này nếu không khủng bố ám ảnh đến độ tôi kinh tâm khiếp đảm, thì ắt tôi
chẳng thể nhớ rõ hết như vậy đâu!
Tôi đem cuộc đời mình kể ra cho quý vị nghe, để
chứng minh rằng: sống phóng túng, tà dục, làm ác v.v… là tự hủy hoại tất cả
những gi tốt đẹp của mình, khiến việc việc chẳng thuận lợi, vận khí tồi tệ,
quan hệ giao tế không tốt, gặp toàn bạn bất lương, gia đình không ngừng xào
xáo, sự nghiệp khó thành công…
Có nhiều, rất nhiều việc đều do tồi tự đọa lạc
mà chiêu cảm, bởi vì tôi gạt tiền rất nhiều nam sinh cho nên khi tôi chụp xong
album quảng cáo thì bị công ty lẫn khách hàng lừa!
Tôi sau này cũng không dám bàn đến tình yêu, bởi
một kẻ như tôi khó mà gặp người tốt được. “Đã làm sai thì phải dám gánh hậu
quả”. Mà hậu quả tôi phải trả chính là: tôi mất hết tất cả hạnh phúc của một
con người bình thường, không một ai có thể thương tôi và sống rất khó khăn. Bởi
do tôi kiếm tiền không sạch sẽ, tự đem phúc báu vốn có của mình huỷ diệt hết.
Cho nên tôi chỗ chỗ tìm việc đều không như ý, bây giờ muốn được làm một người
bình thường cũng khó.
Hiện tại, mỗi khi nhìn các bạn của tôi sống hạnh
phúc, tôi chỉ có thể đứng nhìn và chảy nước mắt. Tôi không có quyền mong cầu gì.
Tất cả đều do tôi mộng cao tham dữ: ham quyền uy địa vị, mới lầm lạc đến nỗi bị
báo ứng, giờ muốn làm một người bình thường cũng không được. Nếu như ban sơ tôi
không sống tệ, có lẽ tôi đã có được hạnh phúc bình dị…
Tôi hiện thời sức khỏe bị hủy hoại, trí nhớ cũng
giảm nhiều, dung mạo biến thành xấu xí, tiền đồ là một phiến mịt mờ, lúc nào
cũng sợ những việc xấu mình làm bị bại lộ. Bên cạnh tôi không có được bạn bè
thật tâm, không có người thân thương yêu, không ai thương nỗi tôi! Một kẻ sa cơ
đến bước này, mất đi tất cả mọi sự tốt đẹp nhất, còn gì thảm hơn nữa? Tôi lúc
nào cũng muốn kết thúc mạng sống dơ bẩn của minh, không những mọi người, mà
ngay cả chính tôi cũng khinh rẻ mình!
Thử hỏi: Sống mà trên thế giới này chẳng có ai
thực lòng yêu bạn, những người chung quanh khi biết rõ sự thực về bạn đều chán
ghét khinh rẻ, thì cho dù bạn đoạt được nhiều thành công đi nữa, cuộc sống này
cũng đâu còn ý nghĩa gì? Tôi nhận ra tương quan trên đời này không ngoài bốn
điều: thiếu nợ, đòi nợ, đền ân, báo oán…
Tôi tự biết mình tội lỗi sâu nặng, xin mượn áng
văn này thay cho lời sám hối, mong giảm bớt trọng tội, hi vọng được chư Phật
Bồ-tát và mọi người chúc phúc cho, khiến tôi không đọa địa ngục.
Tôi đã hủy mình bằng ác nghiệp, mong mọi người
hãy lấy đây làm gương, đừng sống như tôi. Bất kể vì cái gì, ngàn vạn lần bạn
không nên diễn sex, đừng bán hình ảnh, thân thể và linh hồn mình! Những khó
khăn rồi cũng sẽ qua đi, chỉ cần bạn chịu hành thiện thì có thể cải đổi số
mệnh. Bây giờ, mặc dù mỗi tháng tôi thu nhập chỉ có vài trăm, thậm chí còn phải
nhờ vào vay mượn độ nhật, nhưng nội tâm tôi an tĩnh tươi vui, chẳng còn bị
lương tâm quở trách. Nếu bạn hỏi tôi hiện giờ còn thấy gì khó chịu, thì chính
là những việc xấu ngày xưa tôi từng làm, tất cả đều in sâu vào tâm trí tôi,
khiến tôi chẳng thể ngẩng đầu lên làm người! Hi vọng quý vị xem bài viết về tôi
xong sẽ tỉnh ngộ, sống lành.
Người
sám hối
42. NIỀM ĐAU TUỔI NHỎ
Hồi lớp 5 tiểu học, tôi ngụ gần dòng sông Đạm
Thủy Đài Bắc, chúng tôi gồm ba đứa, cùng học chung, hai bạn tôi một đứa họ
Trịnh, một đứa họ Trần; tan học rồi thì đến bên sông Đạm Thủy bắt cua, bắt được
cua thì bẻ càng bẻ chân nó mà chơi đùa, rất là khoái chí… Cứ nghịch như thế,
cuối cùng thì dùng đá đập chết cua. Hôm đó trò chơi kết húc, ba thằng nghịch
chán rồi thì quay trở về nhà.
Hai bạn tôi đi trên đường nhựa, còn tôi thì bước
phía trong (mé bên lề cỏ), đang đi mải miết thì tôi bỗng thấy trước mặt có sợi
dây lạ rất đẹp, liền vội chạy đến nhặt lên xem… hóa ra đó là một con RẮN! Thật
đáng sợ! Tôi kinh hãi ném vội con rắn đi và lo nhảy tránh, con rắn cũng không
cắn tôi mà vội bò ra xa. Nhưng tôi lại nổi tức nên lượm cục đá lên chọi vào con
rắn…
Thằng bạn họ Trần đứng cạnh tôi nhắc nhờ:
– Gặp rắn mà không đập cho nó chết, tối về nó sẽ
tìm mày đó!
– Vậy hai đứa bây phụ tao đập nó nha!
Thằng bạn nói:
– Đập rắn phải nhắm vào đốt thứ bảy…
Tôi cho rằng đó chính là chỗ trái tim nó…đá đập
con rắn nhừ tử cho đến chết queo, Rồi dương dương tự đắc về nhà. Bạn nghĩ việc
này đến đây là xong rồi ư? Tôi cũng nghĩ vậy, nhưng nó chưa kết thúc!
Các vị, ông bà mình chết rồi, vì sao phải cúng
bái? Bởi vì họ có đời sau. Bạn hi vọng họ được siêu, không phải làm quỷ. Chúng
ta đều tin người chết rồi, còn có đời sau.
Các vị, một con thỏ, một con kiến, một con rắn,
chết rồi có đời sau hay không? Có đấy! chắc chắn là có, trăm phần trăm lận!
Nhưng ngày xưa chúng tôi không hề biết điều này, cho nên sau khi tôi đập chết
con rắn rồi, rất tự hào khoái chí mà đi về.
Nửa năm sau, tôi lên lớp sáu trung học. Tôi có
hai người anh, anh cả lớn hơn tôi hai tuổi, anh thứ lớn hơn một tuổi. Lần nọ
tôi cùng anh cả dành đồ chơi, không nhớ tôi đã mắng anh ấy câu gì mà anh nổi
cơn thịnh nộ (anh em tôi xưa nay chưa từng gây cãi hay đánh nhau) anh ném tôi
vào tường, ra tay đánh rất dã man, anh hung tợn đấm vào ngực tôi tới độ tay anh
nứt tét, lòi xương ra, lúc này anh mới sực tỉnh và hét lên một tiếng thảm thiểt
vì thấy tay mình xương cốt nứt tét. Khi đó toàn thân tôi ê ẩm, đau đớn vô cùng.
Tối đó chúng tôi về, bị mẹ vặn hỏi, cả hai đứa đều chẳng dám khai thật, đồng
nói là “bị vấp té… rồi va vào tường”. Anh đi bịnh viện, tôi cũng đi bịnh viện…
Kể từ ngày đó, ngay năm đầu trung học tôi đã bị
cơn đau hành, đau đến mấy tuổi? Xin thưa: -Tôi đau đến 35 tuổi!
Suốt thời gian này, chì cần tôi vừa nổi giận hay
uất ức (bao gồm bị cha mẹ la mắng), là tôi khởi đau liền. Mỗi lần tôi lên cơn
đau, anh tôi nhìn tôi buồn rầu, áy náy… Vì vậy anh rất ít khi nói chuyện cùng
tôi (anh cảm thấy mình rất có lỗi). Nhưng tôi hoàn toàn không hiểu nguyên nhân
cơn đau này. Mãi đến trước khi tôi xuất gia một tháng mới rõ nguồn cơn…
Tôi có một người bạn, anh ta có mắt âm dương,
nghĩa là nhìn được cả hai cõi sống và chết… anh không phải là Phật giáo đồ,
nhưng mà giỏi vậy đó. Người ta thì nhìn thấy thần, còn anh thì thấy được quỷ,
anh rất độc đáo đó nha.
Lần nọ tôi đang đi bên cạnh anh, tôi kể là tôi
sắp xuất gia và nói:
– Sau này tôi sẽ không còn đi chơi cùng anh nữa,
vì sắp cạo đầu rồi.
Anh bạn tôi có khả năng ngoại cảm, nhìn thấy
những điều mà mắt thịt chúng ta nhìn không thấu… nên anh bảo tôi:
– Ôi cha! Chú mày thường đau ở tim, nơi vùng
ngực, đau ghê lắm, phải không?
– Dạ phải!
Anh nói:
– Tôi thấy có một con rắn hung tợn đang cắn xé ở
đó. Đây chính là nguyên nhân đau
đớn của chú!
Tôi bảo:
– Anh nói nhảm rồi! Rắn nào mà cắn em chứ hả?
Đây là do hồi nhỏ anh cả đánh em, tạo thành nội thương mà!
Anh mỉm cười bảo:
– Điều này chú không biết đâu!
Tôi thầm nghĩ: “Đâu phải anh ta nói gì cũng
đúng?”… nhưng thực lạ, anh vừa dứt lời thì tim tôi bắt đầu đau. Tôi cảm thấy
rất ngạc nhiên. Bình thường phải có lý do gi đó tôi mới phát đau. Nhưng bây
giờ, anh vừa nói xong là tôi cảm thấy đau!
Anh liền hỏi:
– Trong đời, chú có từng giết qua con rắn nào
không?
– Dạ có! -Tôi vừa đáp xong thì cảm thấy tim đau
nhói lên…
Anh giải thích:
– Điều này rất dễ hiểu. Thực ra, con rắn đó sau khi
bị chú giết chết rồi, nó đọa vào cõi quỷ (vẫn mang hình hài rắn).
Ngực tôi liền đau kinh khủng (nghe anh giải
thích như thế, thì cuối cùng tôi cũng hiểu ra). Con rắn đó từ lúc vô duyên vô
cớ bị tôi đập chết đi rồi, thì nó liền đầu thai vào cõi quỷ (Nếu như nó đầu
thai làm rắn, thì nhiều nhất là gặp tôi nó mổ cho một phát, nếu đầu thai làm
chó, thì nó gặp sẽ cắn tôi, kết ác duyên cùng nhau). Nhưng con rắn này vừa đầu
thai vào cõi quỷ, ngay lập tức đã có thể báo thù. Nó báo thù thế nào ư?
Tức là hồi năm đầu trung học, như tôi đã kể, anh
tôi vì một chuyện vặt vãnh nhỏ xíu, mà đánh tôi một trận nhừ tử (theo như lời
anh bạn tôi giải thích: thì đó là do hòn quỷ con rắn ấy đã gá vào tay phải anh
tôi), bởi hồi ban sơ chính tôi đã dùng tay phải cầm đá đập con răn chết, tôi
đập bao lần thì khi báo thù – con rắn đã mượn (tay phải) anh cả tôi – dồn “lực
hận” vào đó rồi “quánh” cho tôi ăn đòn lại. Nó đã khiến anh cả đấm vào ngực tôi
đến tay anh nứt tét (mà bản thân anh cũng không hề hay biết), vì vậy mà tồi bị
nội thương.
Lý do vì sao tôi bị đau suốt hai mươi mấy năm,
cuối cùng cũng đã hiểu rõ. Sau khi minh bạch sự việc rồi, tôi liền quỳ xuống,
anh bạn ở bên cạnh cũng phụ giúp tôi lập cách siêu độ con rắn, nhưng không có
tác dụng gì. Thế là tôi lại quỳ xuống và quán tưởng như có con rắn đang ở trước
mặt mình, tôi cúi đầu trước nó, thốt lời ăn năn xin lỗi như thế này:
– Thưa bạn, tôi không hề biết là bạn đã đau đớn
nhiều như thế, không hề biết là khi tôi giết bạn rồi, bạn trở thành thống khổ
như thế, tôi hiện cũng rất khổ tâm vì lỗi lầm thời thơ ấu ngu si… đã làm hại
bạn! Giờ phút này, tôi xin cúi đầu thành tâm nhận lỗi trước bạn, ngày xưa tôi
dùng đá đập bạn bao nhiêu lần, thì ngày nay tồi xin khấu đầu trước bạn ngần ấy
cái…
Tôi khấu đến đầu sưng lên chảy máu. Sau khi tôi
dập đầu tạ tội xong, tôi liền phát nguyện:
– Kể từ nay trở đi tôi tuyệt đối không bao giờ
sát sinh hại mạng, kể từ nay trở đi tôi tuyệt đối không bao giờ nổi giận (lúc
đó tôi cũng vừa sắp xuất gia, nên tôi phát thệ như vậy).
Khi đó tôi chỉ biết tụng Bát Nhã Tâm Kinh và hồi
hướng. Xong xuôi, tôi đứng dậy, thì bỗng thấy trọn cả lồng ngực và con tim trở
nên mát mẻ dễ chịu, hết đau, thoải mái cực kỳ… Kể từ ngày hôm đó đến nay, tôi
hoàn toàn không còn bị hành đau đớn gì nữa…
Chư vị, đối với tôi mà nói. Một lỗi lầm tưởng là
cỏn con này, không ngờ lại có ảnh hưởng trầm trọng, gieo đau đớn cho xác thân
tôi suốt mấy mươi năm, chỉ vì lỗi giết một con rắn. Có đáng sợ không? Rất đáng
sợ! Vì vậy quý vị hãy cẩn thận, đừng tạo nghiệp sát sinh nhé.
Tôi xin kể thêm một chuyện nữa:
43. ANH BẠN KHÓ THỞ
Tôi có một người bạn, một năm thì bị khó thở hết
sáu tháng, đi bịnh viện khám, chữa chạy đông y tây y đủ hết cũng không bớt.
Có lần đang trò chuyện anh bị sặc sụa, nghẹt
thở, bèn hỏi tôi:
– Có cách gì trị chăng? Chắc đây là nghiệp
chướng của tôi.
Tôi bảo: – Nếu là nghiệp chướng thì cũng phải tìm
cho ra nguyên nhân. Nhất định là có nguyên nhân. Anh hãy nhớ kỹ lại xem, trong
đời này anh có giết qua loài vật nào không và đã giết bao nhiêu?
Anh nói:
– Có, hồi đó tôi ở quê, nhà rất nhiều
chuột. Ba mẹ tôi phải bẫy chuột và bắt được rất nhiều. Biết tôi ưa nhận nước
chuột nên họ giao tôi đem cả lồng chuột ra dìm xuống sông, tôi đã khiến chuột
sặc sụa khống thở được và chết đuối cả… mà hễ chuột chưa chết thì tôi nhất
quyết chẳng chịu lấy lồng lên…Có lẽ vì vậy mà giờ mới bị báo ứng như thế này! Anh
bạn tôi hằng ngày luôn vị sặc, nghẹt thở… đến dở chết dở sống. Chư vị thấy có
đáng sợ hay không?
Tôi kể ra câu chuyện này không phải đề dọa các
vị, mà là muốn các vị hiểu rõ để không sát sinh và đừng kiếm sống bằng những
nghề sát sinh. Mong quý vị hãy tự bảo vệ tốt cho mình!
Tự thuật của Sư Hải Đào
Lời người dịch: Khi dịch đến
chỗ Sư Hải Đào sám hối, xin lỗi con rắn, tôi thật cảm động. Nhất là hai
lời nguyện lớn: “Không bao giờ sát sinh” thì tương đối dễ rồi, còn “Không bao
giờ nổi giận”? Với tôi đây là lời nguyện rất dũng mãnh, vì nói được làm được,
đòi hỏi rất nhiều lực tỉnh giác!
Tôi chỉ biết sơ về Sự Hải Đào, việc làm nổi bật
nhất là sư phóng sinh rất mạnh, tôi từng đọc một bài báo tường thuật sư hướng
dẫn người phóng sinh (rất ấn tượng), vì buổi phóng sinh có đông người tham dự,
cực kỳ trang trọng và vĩ đại. Trong số thủy tộc được thả còn có các động vật
hoang dã và một con bò có mang. Khi được phóng sinh, nó đã hướng về sư, quỳ xuống
cảm tạ… Tôi thấy hình chụp cũng thật cảm động. Ngoài ra sư còn viết, biên soạn
rất nhiều sách về báo ứng phóng sinh. Mong rằng mẫu chuyện nhỏ tôi dịch về Sư
Hải Đào, sẽ đem lợi ích lớn đến cho bạn đọc.
44. DỨT ÁC TU THIỆN
Từ ba mươi ba tuổi tôi bắt đầu giảng kinh, đến
nay đã bảy mươi hai tuổi, tính ra tôi đã giảng kinh thuyết pháp trên bốn mươi
năm rồi. Nhưng hiện tại, tôi bị rất nhiều người hủy báng, tôi vui lòng chấp
nhận hết, tại sao thế? Bởi ngay trong đời này thôi, hồi chưa biết Phật pháp tôi
đã từng tạo khẩu nghiệp rất nặng!
Hồi chưa biết đạo tôi thường hủy báng Phật pháp,
còn ngông nghênh tuyên bố rằng: “PHẬT GIÁO LÀ MÊ TÍN!”. Lúc đó tôi chỉ tin đạo
Thiên Chúa và Hồi Giáo, vì tôi từng có hai năm ở trong Cơ Đốc Giáo, một năm nơi
Hồi Giáo, nên ấn tượng của tôi đối với hai đạo này rất tốt, họ có những điều
khiến tôi nể phục.
Còn Phật giáo thì tôi chưa có cơ hội tiếp xúc
cũng chưa từng nghe ai giảng pháp Phật cho, nên tôi đâu biết gì! Bởi là kẻ bàng
quan, lại mù trất về Phật pháp, nên tôi mới miệt thị “Phật giáo là mê tín”, mà
đã xếp loại như vậy rồi thì tất nhiên tôi phải phá trừ mê tín… do đó mả tôi tạo
ra những ác nghiệp rất nặng.
Nói theo nhà Phật thi tôi từng phạm trong ngũ
nghịch (làm thân Phật ra máu) là tội đọa địa ngục Vô Gián. Hồi nhỏ ngu si vô
trí, lúc đó nhằm thời kháng chiến chống Nhật, trường học có rất ít nên chúng
tôi phải học trong chùa (vì chính phủ tịch thâu chùa làm trường học, đem chánh
điện làm lễ đường, còn gian kế bên thì làm lớp học).
Do vậy người ta gom hết tượng Phật, Bồ Tát… bỏ
vào một gian phòng dành làm nhà kho, bên ngoài dán giấy phong kín lại, họ làm
thế kể cũng tốt. Nhưng bọn con nít chúng tôi đâu có chịu bỏ qua? Nghe nói trong
ấy có rất nhiều tượng lạ thì rất muốn vào lấy để chơi đùa…
Thế là chúng tôi bèn phá cửa sổ chui vào, lấy
tượng Phật làm đồ chơi, chơi chán thì vứt đi, còn phá hư hết… Do hiếu kỳ nên
tôi còn bửa tượng Phật bằng gỗ ra, để xem thử… có gì ờ trong chăng? Khi tạo
những tội này, lúc đó do chúng tôi còn nhỏ chẳng biết… Mà thầy giáo cũng chẳng
hề răn dạy chi… Mà thú thật, nếu ông có khuyên bảo thì chưa chắc chúng tôi
nghe, vì tôi rất thích tạo nghiệp hủy báng Phật pháp…
Sau này học Phật rồi, tôi mới hiểu, mình tạo lỗi
ấy là phạm tội đọa địa ngục Vô Gián. Đến nay tôi giảng kinh thuyết pháp đã hơn
bốn mươi năm, vẫn còn bị người hủy báng, sỉ nhục… Tôi vui lòng nhận lại quả hủy
báng… cũng đáng lắm! Ngẫm ra tôi tạo tội nặng, nhưng chỉ lãnh quả nhẹ thôi…
Còn nữa, thuở còn đi học, tính tôi rất ngỗ
nghịch, ương bướng… Tuy được thầy giáo rất thương yêu, nhưng khó mà dạy dỗ uốn
nắn tôi. Trí nhớ của tôi cực kỳ tốt, học rất mau hiểu, nhớ dai… Bài vở tôi chỉ
cần đọc qua một lần là có thể thuộc lòng, thế nên chẳng cần cố công ráng sức
làm chi, tôi cứ học tà tà, vừa học vừa chơi, học cốt để đối phó với thi cử mà
thôi…
Mười phút trước giờ thi chỉ cần tôi chịu xem qua
bài, ôn sơ một lượt, thì chắn chắn là thi đậu. Vả lại, có thi cử chỉ tôi cũng
muốn đạt cỡ sáu mươi điểm thôi, có thêm một điểm nữa tôi cũng chẳng thèm! Tôi
chẳng ham tranh danh, đoạt lợi, song luôn là kẻ đem bài nộp trước nhất. Các
thầy giáo khi coi xong đều lắc đầu… vì họ thấy tôi có thể tiến tốt, thừa sức
đoạt điểm cao hơn nữa, nhưng vì sao tôi lại không chịu?… Bởi vì tôi rất ham
chơi. Tôi học chỉ cần mỗi năm đều đều lên lớp là ồn rồi, vậy là xem như đã đạt
mục đích! Thầy giáo và người nhà cũng chẳng có yêu cầu gì cao, nên tôi rất dễ
làm cho họ hài lòng.
Cũng như bao người, tôi thích làm những việc
mình ưa. Tôi đọc rất nhiều sách, đọc vượt xa chúng bạn, nhờ vậy kiến thức của
tôi cực kỳ phong phú. Từ lớp ba cấp tiểu học tôi đã bắt đầu đọc những tiểu
thuyết xưa của Trung Quốc, đọc đến năm thứ nhất của bậc Trung Học thì ngưng, bởi
chẳng còn gì để đọc tiếp nữa. Những tiểu thuyết hay hầu như tôi đã xem qua tới
bốn, năm lần, chẳng hạn như bốn bộ truyện lớn: “Tây Du Ký, Tam Quốc Diễn Nghĩa,
Thủy Hử, Hồng Lâu Mộng”… bộ nào tôi cũng đọc năm-sáu lần. Hơn nữa những bộ sách
dầy như vậy, tôi xem rất mau, chưa đầy một tuần là đã “ngốn” hết. Tiểu thuyết
cổ điển đọc hết rồi thì lên lớp sáu tôi chẳng thèm đọc chi nữa. Tôi sống rất
phong lưu, ban ngày xem truyện, ban đêm coi kịch. Thời học sinh của tôi rất thú
vị, các thầy giáo và hiệu trường đều biết danh tôi. Vì tôi luôn lý luận với họ:
- Trường học hiện nay chẳng qua chỉ là chỗ để
kiếm bằng cấp, học vị mà thôi, song những gì học xong đa phần đều chẳng dùng
được, dù tôi có học những thứ này thì tương lai có dùng được bao nhiêu đâu?
Hiệu trường và các thầy nghe tôi nói vậy đều lắc
đầu, hết y kiến. Kể chuyện xưa để quý vị thấy tôi rất có “thành tích” và tạo
nghiệp quá nhiều. Nhưng tôi cũng có một chút thiện căn là chẳng hại người,
không hề gây hại cho xã hội, thế nhưng tôi lại hại… vật!
Lúc còn trẻ chưa biết Phật pháp tôi rất ưa ăn
thịt, tạo tội nặng hơn người ta rất nhiều. Vì vào thời kháng chiến chống Nhật
tôi thường đi săn bắn, sau khi đọc kinh Địa Tạng rồi, tôi rất sợ hãi – thật sự
lo sợ – nên bắt đầu ăn chay trường, chẳng dám ăn thịt nữa, tự biết tội mình đã
tạo rất nặng.
Hồi nhỏ đâu biết tội phước gì, cha tôi ưa săn
bắn nên tôi thường theo ông lên núi săn, ngày nào cũng đem những con thú bắn
được về nhà. Tôi đi săn ba năm, mười sáu tuổi bắt đầu săn bắn, cho tới hết mười
chín tuổi. Vì vậy tôi bắn rất cừ, bắn không cần phải nhắm mà vẫn trúng trăm
phần trăm. Mỗi ngày tôi xài ít nhất hai mươi viên đạn, lúc chẳng đi săn thì lo
luyện tập bắn súng…
Cha tôi vốn là quân nhân, lúc đó nhằm thời chiến
tranh chống Nhật, ông làm quản lý vũ khí (bao gồm khí giới, súng ống, thuốc nổ…),
do vậy nhà tôi có rất nhiều súng, thành là cơ hội để chúng tôi tạo nghiệp…
Mỗi ngày tôi đều luyện tập, có đứa con nít nào
mà không ưa chơi súng, ống? Tuyệt hơn nữa là được chơi súng thiệt. Tôi bắn súng
rất chuẩn là nhờ mỗi ngày luyện tập mà thành, vậy mới có câu: “văn ôn võ luyện”
chứ? Bạn không luyện đâu được, phải luyện mới thành tài! Nhờ tập luyện trong
thời gian dài, mà tài bắn súng của tôi thành ra cự phách, do vậy mà nghiệp ác
gây tạo cũng quá nặng, nhưng lúc đó tôi còn chưa hiểu biết. Sau này học Phật,
khi đọc đến kinh Địa Tạng, tôi sợ đến lông tóc dựng đứng… Bởi chính mắt tôi
nhìn thấy cảnh tượng cha mình chết giống y như “Kinh Địa Tạng” đã cảnh báo! Trong
“Kinh Địa Tạng” quyển thượng có ghi: “Nếu gặp kẻ săn bắn buông lung thì
Ngài dạy: sẽ bị quả báo kinh cuồng, mất mạng”…
Thời xưa người ta dùng cung tên, hoặc dùng lưới…
thì số lượng thú bị giết không nhiều, còn khi dùng lưới bắt cá, thì một mẻ lưới
quăng ra cũng giới hạn… Nhưng thời nay khi chúng tôi đi săn, thi dùng súng,
chất nổ… nghĩa là hành sự rất độc ác: vì sau khi quăng thuốc nổ rồi, hằng ngàn,
hằng vạn con cá chết nổi lềnh bềnh trên mặt nước, chúng bị nổ chết lẫn bị chấn
động mà chết… bạn nói tội này nặng bao nhiêu? Chuyện săn giết thú tính ra vẫn
ít hơn so với việc dùng thuốc nổ để giết cá… chúng tôi đã tạo sát nghiệp quá
nhiều, đã tạo ác vô cùng. Quả báo của sự sát sanh là đoản mạng, vì vậy mà cha
tôi mới bốn mươi lăm tuổi đã qua đời.
Đọc đoạn kinh Phật đã nêu, khiến tôi nhớ lại báo
ứng của cha tôi là đúng y như vậy. Phụ thân tôi vào năm bốn mươi lăm tuổi “bị
kinh cuồng mà mất mạng”, chính tôi nhìn thấy tận mắt quả báo ông phải trả ngay
trong đời này!
Khi cha tôi phát bịnh hóa điên, tuy thân thể ốm
giơ xương, nhưng sức lực rất mạnh, mạnh tới nỗi mấy người cũng không ngăn cản
nổi ông. Hễ gặp chỗ có nước thfi ông lao đầu xuống, còn gặp núi thì cắm đầu
chạy lên, đây chính là quả báo của việc săn bắn.
Khi tôi đọc “Kinh Địa Tạng” xong, thì tỉnh ngộ,
bèn phát tâm ăn chay, vì biết rằng tội sát sinh của mình rất nặng, hơn nữa còn
đích thân chứng kiến… nên cảm xúc vô cùng sâu đậm… kể từ đó tôi nỗ lực đoạn ác
tu thiện.
Sau này tôi học Phật rồi, các bốc sư danh tiếng
đều xem và nói mạng tôi sống chẳng qua bốn mươi lăm tuổi, tôi rất tin. Thế nên
tôi càng học Phật rất tinh tấn vì thọ mạng đã được định bốn mươi lăm tuổi rồi.
Quả nhiên đến năm bốn mươi lăm tuổi tôi bị bịnh
nặng, tôi chẳng đi bác sĩ, chẳng uống thuốc… vì nghĩ rằng: “Mạng mình sắp hết,
mà bác sĩ thì chỉ có thể chữa bịnh chứ đâu thể chữa mạng?”. Bởi vậy nên suốt cả
tháng trời tôi dốc tâm chuyên nhất lo niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ, niệm được một
tháng thì bịnh tự nhiên hết.
Thực ra, tôi chỉ hồi tâm chuyển ý, nguyện đem
chút trí huệ, khả năng, thân tâm này hiến dâng hết cho Phật, Bồ Tát, xin nguyện
làm việc cho Phật, Bồ Tát, chẳng còn sống vi mình nữa. Nhà Phật thường có câu:
“Nương theo nguyện trở lại” (thừa nguyện tái lai), có thể nói tôi đã chuyển
nghiệp thành nguyện, khi tôi “thay đổi” tâm rồi thì hiệu quả tốt cực kỳ…
Tôi là kẻ chẳng có phước báo, tiền bạc cũng
không nhiều. Để chuộc lỗi sát sinh khi xưa, hễ có chút tiền cúng dường, thì tôi
đem phóng sinh, tặng bịnh viện (lo tiền thuốc men cho người nghèo) cứu giúp
bịnh khổ và in kinh bố thí. Sau này, năm nọ tại pháp hội Nhân Vương ờ Đài Loan,
tôi gặp “Phật sống” Cam Chu (là một người bạn cũ của tôi), ông tỏ vẻ rất hoan
hỷ, nói:
– Mấy năm nay thầy giảng kinh thuyết pháp công
đức rất lớn, thầy vốn chẳng có phước báo, số phải đoản mạng, vậy mà bây giờ không
những thầy có phước báo mà còn sống lâu nữa… đều là nhờ thầy hoằng pháp lợi
sinh nên phước lành hiển hiện…
Quả thực tôi chẳng cầu sống lâu, vì hiểu: “Nếu
tĩnh giác rồi, thì chẳng nên vì mình nữa, mà tất cả đều vì Phật pháp, vì chúng
sinh”. Nhờ vậy mà được cảm ứng.
Đối với bản thân, tôi chẳng lưu luyến gì thế
gian. Thân này còn lưu lại… đó là phước của chúng sinh, vì hễ chúng sinh cần, đạo
pháp cần, thì tôi ở lại thêm vài ngày; khi nào chúng sinh không cần, Phật pháp
cũng không cần nữa thì tôi sẽ ra đi lập tức, chẳng lưu luyến gì. Đây là tâm
trạng và thái độ hiện nay của tôi, tôi rất hoan hỷ sớm được ra đi thân cận đức
Phật.
Tôi kể chuyện mình tạo nghiệp thọ báo, để quý vị
thấy tôi cũng xấu, cũng ác rất nhiều. Nếu tôi chẳng tu học theo Phật thì chắc chắn
phải thọ tội trong địa ngục. Tôi đã chứng minh cho quý vị thấy rồi đó. Tôi: từ
một kẻ nhiều lầm lỗi, tạo lắm ác nghiệp, mà có thể tu sửa, đổi thành tốt… thì
quý vị cũng làm được, quan trọng là quý vị có chịu làm hay không mà thôi.
Tự thuật của Đại Sư Tịnh Không
45. LÒNG TỪ CỦA BỒ TÁT ĐỊA TẠNG
Công đức Bồ-tát Địa Tạng chân thật không dối.
Tôi xin đem câu chuyện xảy ra trong gia đình mình kể cho mọi người nghe làm
bằng chứng: Tháng tư năm ngoái cha tôi bịnh tim phải mổ. Mổ xong thì tạm hồi
phục, nhưng đến mùa đông năm ngoái, bịnh tình chuyển biến đáng lo, dần dần bịnh
tim càng trở nặng, ngay cả xoay mình mặc áo… những việc nhỏ nhặt nhất cha tôi
vẫn cần người phụ giúp, ông lại còn hay bị chóng mặt hoa mắt, thân thể bịnh
hành nghiêm trọng. Tối ngủ rất ít, thường mất ngủ lại hay gặp ác mộng, cảm thấy
toàn thân luôn đau đớn.
Tôi và vợ không ở chung với cha mẹ, cho nên việc
chăm sóc phụ thân hằng ngày do mẹ tôi gánh vác hết, mấy tháng gần đây bà gầy đi
rất nhiều. Do thân đau đớn, tinh thần cha tôi cực kỳ bi quan suy sụp, ông
thường nói những lời buồn chán, khiến cả nhà lo sợ. Có đến bịnh viện khám, bác
sĩ cũng không biết làm sao, chỉ cho thuốc tăng sức khỏe và nói:
– Không còn cách nào tốt hơn, cầm cự được ngày
nào hay ngày đó!
Khi ấy cả nhà chúng tôi cảm thấy tuyệt vọng,
thậm chí phụ thân bắt đầu dặn dò mẹ việc hậu sự. Tôi xuất thân từ y học, chứng
kiến tình huống hiện thời của cha mình, cũng biết tình cảnh này hiện thời y học
không còn giải quyết được. Bèn nghĩ đến Phật pháp (Thật xấu hổ, nhờ từng đọc
nhiều sách thượng sư Nam Hoài Cẩn, nên sực nhớ lại).
Thế là tôi bắt đầu tụng chú Chuẩn Đề hồi hướng
cho cha, đồng thời cũng khuyên và bày ông cách tụng chú Chuẩn Đề, nhưng đối với
người hay chóng mặt hoa mắt như cha tôi thì rất khó tiếp thu và sẽ thấy chú quá
dài. Cho dù ông ráng học thuộc cũng rất chậm, Khi nghe tôi nói: “Chú này phải
tụng từ hai mươi đến bốn mươi vạn (bốn trăm ngàn) biến, mới có hiệu quả”… thì
sắc mặt phụ thân lộ vẻ thất vọng ủ ê, vì ông học thuộc chậm rì như vậy, biết
năm nào tháng nào mới tụng xong được? Thế là tôi nghĩ cách khác, tôi bày phụ
thân niệm A Dí Đà Phật! Nhưng cả đời cha tôi hầu như không có tín ngưỡng gì,
nên thực hành pháp Phật theo cách nảy ông cũng chẳng quen. Khi nào tôi về nhà
đốc thúc, thì ông mới chịu niệm một hai câu Phật, mà hễ tôi vừa đi khỏi, là ông
quên hết trơn… thiệt là rầu!
Trong lúc rối ren hết cách, tôi chợt nhớ đến đại
nguyện của Bồ-tát Địa Tạng, liền đi thỉnh hai cuốn “Kinh Địa Tạng” về, một cuốn
giao cho phụ thân, một cuốn tự mình đọc (lại xấu hổ lần nữa, vì trước đây cũng
từng nghe danh Bồ-tát Địa Tạng nhiều rồi, nhưng chuyện lật kinh xem thì đây là
lần đầu).
Tôi khởi sự tụng, rồi mặc tưởng thầm, hồi hướng
công đức cho phụ thân, cho oan thân trái chủ nhiều đời nhiều kiếp của ông.
Nhưng do cơ quan tôi việc nhiều, về nhà còn phải chăm sóc thằng bé hơn một
tuổi, nên tối đến tôi mệt đừ, tụng hai ngày là hết kiên trì, mà chú Chuẩn Đề (có
thể do tôi tụng số quá ít), nên chỉ chiêu được cảm ứng nhỏ, nghĩa là bịnh phụ
thân tuy có chuyển tốt, nhưng lúc nặng lúc nhẹ, không rõ ràng…
Cha tôi một là, do đầu váng mắt hoa, hai là đối
với kinh điển không thông hiểu nên thấy ngán, khó khởi nhiệt tình, ông chỉ tụng
độ mười mấy trang là hết lật nổi nữa…
Thứ sáu vừa rồi tôi về thăm phụ thân, do hồi hôm
ông không ngủ được, nên sức khỏe rất tệ, ông nắm tay tôi than thở:
– Chắc ba không xong rồi, ngủ chẳng được, bịnh
trở nặng thêm, chóng mặt cảng nhiều, chắc là qua không nổi…
Mẫu thân và tôi một bề khuyên dỗ trấn an, cũng
không thể đem lại cho ông niềm tin và hi vọng vào cuộc sống. Đột nhiên tôi nhớ
phụ thân từng than là xem “Kinh Địa Tạng” ông không hiểu, cho nên tụng không
nổi.
Tôi bèn giải thích ý nghĩa trong kinh cho ông
nghe (Mô Phật, tôi chỉ là xem kinh nhiều hơn phụ thân chút đỉnh thôi, nhưng may
nhờ từng đọc qua bài viết của thượng sư Nam Hoài cẩn, nên cũng có được chút
hiểu biết thô sơ đối với Phật pháp). Thế là tôi đọc kinh cho ông nghe, vừa đọc
vừa giải thích, đem những thấy biết hạn hẹp của mình về kinh Phật, giải cho phụ
thân nghe. Có thể nhờ tinh phụ tử dễ cảm thông, phụ thân nghe cũng “lọt lỗ tai”
và hiểu được đôi chút, tôi cảm thấy ông đối với Phật pháp và bản “Kinh Địa
Tạng” này đã tạm hiểu và phát sinh chánh tín.
Chỉ một phẩm đầu tiên thôi mà đến 12 giờ trưa,
tôi mới giảng xong… Lúc này thì tôi đã khan cổ khô họng, còn phụ thân thì nghe
đến… bắt thèm ngủ! Đến nổi ông bỏ không ăn trưa và đi ngủ luôn, ông làm một
giấc hơn hai tiếng, rất an bình, không hề ngáy. Sau khi thức dậy, phụ thân còn
hỏi tôi:
– Nãy giờ ba có ngủ không hả? Sao có cảm giác
như vừa mới nằm xuống là thức dậy rồi?
Tôi và mẹ đều cười. Nghe ông hỏi mà mừng, vì đây
là việc mấy tháng nay chưa hề có được. Sau khi thức dậy, thấy phụ thân có vẻ
phấn chấn, ông cũng cảm giác bịnh nhẹ đi rất nhiều. Tiếp đến ông còn làm một
việc khiến cả nhà kinh ngạc: trong lúc chúng tôi đang ngủ trưa tiếp, thì ông tự
xuống lầu đi cắt tóc. Mẹ tôi là người đầu tiên đi tìm và phát hiện ra chuyện
này, bà thấy ông đứng ngoài cổng vui vẻ trò chuyện cùng người, nét mặt rất hớn
hở, so với thải độ bi quan trước đây hoàn toàn khác hẳn..
Chỉ mới đọc một phẩm đầu trong “Kinh Địa Tạng”
thôi mà công đức như thế ư? Thú thật, tồi quả có ngạc nhiên vì sự thần kỳ không
thể lường của Bồ-tát Địa Tạng! Kế đó, những rối rắm trong hãng xưởng cũng được
người giúp dàn xếp xong, khiến cha tôi càng thêm vui.
Từ hôm đó, phụ thân, hằng ngày đều siêng năng tự
nguyện tụng “Kinh Địa Tạng”, chẳng màng là có hiểu hay không, ông cứ chăm chỉ
tụng. Ông còn bảo tôi dạy ông tụng chú Chuẩn Đề và tự cầm bản chú lên, kiên
nhẫn học thuộc từng chữ. Lúc này ông đã ngủ được rất ngon, ít mộng mị, tinh
thần cũng hết bi quan. Những biến chuyển này khiến tôi vô cùng xúc động.
“Kính lễ Bồ-tát Địa Tạng, cảm tạ Ngài đã siêu độ
những oan gia trái chủ từng hành hạ phụ thân con, khiến cha con được an ổn. Cảm
tạ Phật lực đã từ bi gia bị, hộ trì phụ thân được hồi phục khang kiện”.
Muốn tạ ân Bồ-tát thì phải học theo hạnh nguyện
của Ngài, cách noi theo Ngài tốt nhất, là phải tu tâm sửa tính và tụng “Kinh
Địa Tạng”, hồi hướng cho thân nhân, cho tất cả chúng sinh… nguyện họ tiêu trừ
ác nghiệp và được biết đến Phật pháp…
Liêm-Minh
46. LÝ
DO TÔI ĐẾN VỚI ĐẠO
Năm 2004 tôi 32 tuổi. Trước khi tự thuật chuyện
mình, dưới tòa mười phương chư Phật, Bồ-tát… cùng tất cả chúng sinh, tôi xin
thành tâm sám hối.
Tôi hiện ngụ tại thành phố Mai Châu, từng cắp
sách tại Trung Học Liên Hợp. Hồi đó tôi không chăm học, chuyên kết bè lập đảng,
đánh lộn đánh lạo gây rối trong xã hội không ngừng. Thầy giáo và người thân
khuyên mấy tôi cũng không sửa đổi, cuối cùng phải bỏ học, đi làm thuê. Tôi làm
đủ công việc trong xã hội, nhưng công tác không đều, bữa đực bữa cái (lúc làm
lúc nghỉ) cứ thế mà sống qua ngày và không chừa bỏ thói hư tật xấu, vẫn thường
cùng đám bạn bè (tự cho là thân hữu đồng chí) đi trộm gả bắt chó, gây chuyện om
sòm, tạo ra ảnh hưởng cực xấu…
Ngày xưa đối với tiền tài, vật chất tôi tham mê
lắm, nên thường dối gian, tạo nghiệp trộm cắp; tính tàn nhẫn ưa giết hại loài
vật, thêm nết sân giận ác khẩu, chửi tục không ngừng, tôi huân toàn thói quen
cực xấu, đã vậy còn kết bè lập đảng với bọn bất lương khiến tập khí ác ngày
càng tăng trường sâu nặng, vì vậy mà tôi thường xuyên bị bắt vào đồn công an,
các bót đông, tây, nam, bắc khắp phố Mai Châu, thảy đều vì phạm pháp mà tôi bị
nhốt vào đó.
Kể đến đây, tôi thầm sám hối với tất cả chúng
sinh từng bị tôi cố ý hoặc vô tình làm thương hại, nguyện chẳng còn tái phạm
lỗi xưa…Những nhân xấu ác chiêu vời quả khổ tôi xin nhận lấy, nguyện mười
phương Tam bảo, Bồ-tát Địa Tạng Vương gia trì tất cả được giải thoát, sớm đắc
vô thượng Bồ đề…
Giờ đây hồi tưởng lại những việc ác tôi đã làm
(sau này tạo thành họa ương), khiến tôi công tác lẫn sức khỏe gì cũng không ổn,
hay gặp rủi ro, tất cả đều là báo ứng! Vì “trồng dưa được dưa, trồng đậu được
đậu”… Tồi tự gây quả khổ thì bản thân phải gánh lấy, không ai chịu thay. Sau
đây xin kể về nhân duyên học Phật của tôi:
Mùa thu năm 2000, tôi đã chứng kiến một cảnh
tượng kinh hoàng khiến trọn đời nhớ mãi, cho dù có trải qua trăm ngàn vạn kiếp
cũng khó mà quên! Giờ xin thuật lại để mọi người cùng cảnh giác.
Lúc đó tôi chưa kết hôn. Một đêm nọ đã khuya lắm
tôi vào giường ngủ, chốc lát đã thiu thiu vào mộng. Trong mơ, tôi thấy mình
cùng hai người bạn đi tới một vùng âm u đáng sợ. Bỗng gặp trận đại hồng thủy,
chúng tôi chạy trốn không kịp, nên bị hồng thủy cuốn phăng… cả ba giẫy giụa
trong đó, “kêu trời gọi đất vang rần” nhưng thảy đều vô dụng.
Giống như bình thường mình xem phim vậy, trong
chớp mắt mộng đổi sang cảnh khác. Tôi thấy mình nằm trên cái giường nhỏ hẹp,
cảm giác cực kỳ khó chịu, liền giẫy để thoát ra, nhưng càng giẫy càng cảm thấy
đau đớn, thống khổ đến nổi phải kêu rên không ngừng. Đột nhiên tôi thấy chung
quanh mình rộng không bến bờ, xuất hiện vô số cái giường đơn, có vô số người ở
trên giường, kêu rên, giẫy giụa thống khổ khó kham, thật đáng sợ…
Chớp mắt, lại đổi sang cảnh khác, tôi và vô số
người bị vây trong một thành cao không thấy đỉnh, có giám ngục hình dáng to đen
như quái vật canh gác chung quanh thành, tướng mạo họ rất đáng sợ, tay cầm
đủ khí giới: côn, thương, chĩa ba… đang áp giải tra khảo, đánh người.
Lúc đó tôi cảm thấy thống khổ đến không muốn
sống. Thầm nghĩ: “Phải mau mau chạy thoát khỏi chốn này”. Thế là tôi dốc toàn
lực trèo lên thành để vượt ngục bôn đào. Cùng lúc ấy nhiều người bị áp giải
hành hình chung quanh… cũng đồng vượt ngục giống tôi. Tình hình khi đó đại
loạn, những quái vật kia liền hét to, ra oai: chúng vung côn, chùy, chĩa ba
rượt theo truy đuổi… Tôi chạy bán mạng… cuối cùng cũng leo lên được trên đỉnh
thành, nhìn ngoài thành thấy bên dưới là vực sâu hun hút như không có đáy,
chẳng mấy chốc quái vật đã đuổi tới sát bên, nhanh nhẹn chộp bắt tôi…
Tôi vội tung mình và… nhảy! Cảm giác như hồn bay
phách tán, tôi rơi thẳng xuống vực sâu hun hút nọ, cuối cùng chân cũng chạm
đất… tôi lồm cồm ngóc dậy chạy trốn tiếp, ở phía sau quái vật vung
binh khí lên thét to:
– Khâu Kiện Hào! Không được chạy! Mau bắt giữ
Khâu Kiện Hào lại…
Bị chúng truy đuổi quá hăng, tôi mệt mỏi kiệt
sức, tay chân phát run, kinh sợ hoảng loạn cực độ, đột nhiên tôi nghe lưng mình
nhói đau thống thiết, té ra quái vật đã phóng chỉa ba ghim vào lưng tôi, còn
thét to:
– Bắt nó lại! Bắt nó lại!
Tôi té nhào trên đất, bị quái vật trói gô lại và
cắm vào lưng tôi tấm thẻ bài to có hàng chữ: KHÂU KIỆN HÀO THỌ TỬ! Rồi chúng
trói tôi vào cột, tôi thấy chung quanh mình cũng có một dãy người cùng thọ hình
giống vậy. Tiếp đến một quái vật giơ thùng sắt lên trước mặt tôi, hét to:
– KHÂU KIỆN HÀO THỌ HÌNH!
Và y nghiêng thùng, xối vào chân tôi…
Chu choa, tôi thấy trong thùng chảy ra chất lỏng
gì rất lạ, nó đang sôi lụp bụp vang thành tiếng, khói trắng bốc cuồn cuộn, tôi
nghe đau đớn khủng khiếp (giống như bị tưới acid hay nước đồng sôi vào người
vậy). Lúc đó đột nhiên tôi khởi nghĩ: “A, ta chẳng thèm đề ý tới nữa, ta sẽ
niệm “Lục Tự Đại Minh Chú”.
Thế là tôi vội niệm chú không ngừng: “‘Án ma ni
bát di hồng”… “Án ma ni bát di hồng”… câu chú vừa niệm, lập tức tôi chẳng còn
biết gì đến màn khủng bố trước mặt, tôi càng niệm càng nhanh, càng lớn tiếng,
bởi vì phần thân dưới tôi đã tiêu mất… gần đến ngực rồi.
Lúc này đột nhiên trước mặt tôi vang lên âm
thanh (niệm Đại Minh Chú) thật to, tôi quay đầu nhìn thì thấy phía trước, có
hơn 5 đứa bé mặt y phục xinh đẹp, chúng nắm tay nhau đứng thành hàng, thân tỏa
hào quang chiếu về phía tôi, cùng đọc “Lục Tự Đại Minh Chú”, âm vang trầm hùng,
nghe rất hay, rất thích (nhìn bộ dạng thì hình như là chúng đến đề giúp tôi?).
– Án ma ni bát di hồng! Án ma ni bát di hồng! Án
ma ni bát di hồng!…
Phần ngực tôi không còn nữa, rồi cổ cũng
tiêu mất, chỉ còn một khối khí trắng sôi lụp bụp vang thành tiếng. Sắp tiêu đến
đầu rồi… tôi liều mạng dốc tận lực niệm chú, nhưng không còn giọng niệm nữa, mà
là tiếng rên: -“Án ma ni bát di hồng”…
Đột nhiên một câu “ÁN MA NI BÁT DI HỒNG!” phi
thường hùng hậu, vang dội, trang nghiêm… vọng đến tai tôi, trước mắt tôi bỗng
hiện ra một luồng hào quang sáng chói: có một vị đầu trọc thân mặc y phục
trắng, hai tay chắp lại đang ở phía trên đỉnh… đầu giường của tôi. Ngài
hiện bán thân, hơi nghiêng về hướng tôi, dáng vẻ cực kỳ trang nghiêm (tôi kể
thì rất chậm, nhưng tình hình lúc đó cực kỳ nhanh), thanh âm hùng hậu vẫn vang
to, lúc đó tôi cảm giác từ đầu trở xuống… (xem như phần thân vừa bị tiêu mất đã
được hồi phục nguyên trạng trở lại) và tôi cảm thấy toàn thân khinh an dễ
chịu khôn tả. Một sức sống sung mãn, đầy năng lượng phủ khắp toàn thân tôi.
Tôi thức dậy, nhận ra mình đang ngồi trên
giường, liền đưa tay bật đèn. Đèn sáng. Lúc này tôi vô cùng chấn động, nhưng
không hề có cảm giác sợ hãi khủng hoảng sau cơn ác mộng, mà chỉ có niềm cảm
kích, xúc động tri ân… vì mình đã được sống lại, hồi sinh từ cõi chết! Tôi xúc
động đến toàn thân phát run, vị bạch y đã biến mất tiêu rồi, hoàn toàn không
thấy đâu nữa… nhưng trực giác tôi cảm nhận rất rõ là nhờ vị bạch y đó, “người
đầu trọc” đó… đã cứu tôi! Chính ông ta có sức mạnh uy thần rất diệu kỳ, đã ban
cho tôi sinh mạng mới…
Tôi ráng kềm chế bản thân và lấy lại bình tĩnh,
sau đó chỉnh trang y phục, hướng về chỗ hòa thượng áo trắng vừa xuất hiện ban
nãy, quỳ xuống lễ ba lễ (lúc đó vị trí đầu giường tôi nằm ở hướng tây).
Kể đến đây ắt sẽ có người hỏi:
– Vì sao anh biết niệm chú? Anh bình thường có
thờ Phật không? Chẳng phải anh toàn làm việc xấu ư? Vì sao anh có thể tin Phật
và biết niệm chú ngay trong mộng chứ?
Chà, nói đến đây không thể không giải thích, quả
tình tôi có nhân duyên cực kỳ sâu với “Lục Tự Đại Minh Chú”. Mười năm trước,
tôi tình cờ nghe được đĩa nhạc xướng tụng chú này, lập tức sinh tâm ưa thích
cực kỳ, vì vậy mà suốt bao năm nay hữu ý vô ý gì cũng niệm, cũng ngâm nga chú
này hết.
Dù tôi hoàn toàn mù tịt về Phật pháp, song tôi
cảm nhận chú này có hiệu quả rất tốt, bằng chứng là lúc tôi ra ngoài làm việc,
mấy lần bị bịnh nặng cấp tính khó hiểu (chẳng hạn như tim bị đau thắt như có vô
số mũi kim châm vào, hoặc toàn thân co rút, phát run lập cập)… nhờ nhất tâm
niệm chú này mà tôi thoát khỏi cơn đau. Do vậy mà bình thường bất kể ngày đêm,
tôi luôn niệm chú này, quanh năm không gián đoạn (Những ai biết đạo chắc hiểu
rõ uy lực thần diệu của chú này hơn tôi).
Quay lại chuyện hồi nãy, sau sự việc đó, tôi rất
muốn tìm hiểu vị bạch y xuất hiện trong mộng hiển linh cứu tôi đó, là Bồ-tát
nào? Bồ-tát Quan Thế Âm thì không phải rồi, vì tượng Ngài tôi đã từng thấy qua,
nếu là Phật? Cũng không giống!? Tôi suy nghĩ mãi vẫn không lý giải được, liền
hỏi người nhà, nhưng ai cũng chế nhạo, chê cười tôi. Họ nói do tôi bịnh nên
thấy ác mộng và không thèm đếm xỉa gì đến lời tôi, hễ tôi có bàn nhắc gi thêm
nữa, thì họ nói tôi điên!
Lúc đó tôi rất khổ tâm vì không ai thèm tin
mình. Đành âm thầm tìm tòi, tôi nghĩ: “Bồ-tát xuất hiện tại hướng tây”… mà phía
tây là hướng chùa Phật Quang… Đúng lúc đó ở địa phương kêu gọi giúp đỡ chùa
Phật Quang đang xây dựng, tôi từng ghé qua chỗ này rồi, nên quyết định đến đó
xem, hi vọng tìm được đáp án…
Thế là hôm ấy tôi cùng người bạn đi chùa Phật Quang,
gặp lúc các thầy lên điện tụng kinh. Tôi nghĩ: “Mình phải lên tụng theo họ”…
Lúc đó nhằm buổi chiều, các sư dâng hương xong thì bắt đầu tụng cuốn kinh rất
dày, tên là “Địa Tạng Bồ-tát bổn nguyện kinh” tôi cũng tụng theo.
Xưa nay tôi chưa tụng qua kinh này bao giờ, nên
đọc rất vất vả, khó khăn… nhưng tôi nghĩ mình phải kiên nhẫn, miệng tôi khô
khốc khó thể tụng…. Tôi đành nhìn theo kinh tụng thầm… và tôi hết hồn khi thấy
cảnh tượng trong kinh tả giống hệt như cảnh mộng mà tôi từng thấy qua.
“Trong địa ngục có giường, biến đầy khắp nơi,
một người thọ tội, tự thấy thân mình nằm chật giường, ngàn vạn người thọ tội,
cũng thấy thân mình chật cả giường”.
Trời ơi! Tụng đến đây tôi hết sức kích động,
toàn thân phát run không kìm được, tôi ý thức rằng điều mình khổ công truy tìm
sắp có kết quả. Đột nhiên tôi nhớ lại ngày hôm đó khí trời phi thường nóng nực,
nhưng toàn thân tôi cứ xuất mồ hôi lạnh, bởi vì thấy kinh văn miêu tả quá giống
với cảnh mộng của mình!
Có thể là do quyển kinh quá dày (hay còn
nguyên nhân nào khác nữa mà tôi không biết) vì các thầy tụng được nửa tiếng thì
tuyên bố tạm nghỉ. Lòng tôi hoang mang lo sợ, không biết phải làm gì, bèn bỏ ra
đứng xớ rớ trước cổng chùa. Thấy gần cổng có một hòa thượng đang trò chuyện với
một số hương khách, tôi thu hết can đảm bước đến thưa hỏi:
– Bạch thầy, trước đây con có mơ thấy một ác
mộng, cảnh tượng giống y như trong kinh đã tả về địa ngục vậy, nhưng mà sau đó
có một vị sư xuất hiện đến cứu con, lúc đó con niệm “Lục Tự Đại Minh Chú”, hòa
thượng ấy cũng niệm chú này, vậy những chuyện đó có thật không ạ?…
Vị sư nhìn tôi, bảo:
– Đây không phải là chuyện giỡn chơi! Anh chớ
nên nói đùa như thế!
Tôi vội hỏi:
– Thưa thầy, vị sư cứu con là Bồ-tát nào vậy?
– Thời đến thì anh sẽ tự hiểu thôi!…
Sư chỉ đáp như vậy. Lúc này bên trong hồi trống
vang lên, tôi nghe mọi người nói: “Đến giờ tụng kinh rồi”.
Tôi cảm thấy rất mờ mịt, nhưng vị sư kia đã bỏ
đi vào trong, không nghe tôi hỏi gì nữa. Do nghiệp chướng sâu nặng, hôm đó tôi
không được đáp án nhiều, nhờ tụng “Kinh Địa Tạng” mà biết cảnh địa ngục trong
kinh tả giống y như cảnh mộng của tôi thôi. Tôi cũng không biết gì về “Kinh Địa
Tạng”, cũng chẳng rõ Bồ-tát Địa Tạng là ai? Nhưng tôi đoán “có lẽ là Bồ-tát Địa
Tạng cứu tôi”, nhưng rốt ráo là sao thì tôi vẫn chưa minh bạch.
Được một thời gian, Hồng cư sĩ gọi điện thoại
cho tôi, nói:
– Hào nè, tôi có một cuốn “Kinh Địa Tạng”, chú
có muốn tới xem không?
Tôi vội đến chỗ anh. Anh đưa tôi một cuốn “Kinh
Địa Tạng” in rất tinh xảo và nói:
– Bên trong có hình Bồ-tát Địa Tạng đẹp lắm!
Tôi mở sách ra xem, “A! Đúng là ông này nè, đúng
là ổng rồi!”… ôi chao! Hòa thượng tôi mơ thấy… tướng mạo giống hệt như vầy nè…
“ôi!…Nam mô Địa Tạng Bồ-tát!”. Tôi cảm động quá, cung kính để sách lên đầu và
chí thành niệm danh Bồ-tát Địa Tạng.
Tôi nói với Hồng cư sĩ:
– Cho tôi thỉnh về nhà xem nha?
Hồng cư sĩ ưng thuận.
Sau khi cáo từ Hồng cư sĩ, về đến nhà, tôi
mở sách ra, bắt chước trong chùa tụng kinh. Bắt đầu từ đó trở đi, tôi và
Hồng huynh thường cùng nhau đến chùa Phật Quang thỉnh kinh về xem. Tại đây tôi được
nhiều cư sĩ hướng dẫn chỉ bày thêm, dốc sức học tập Phật pháp.
Hồng cư sĩ lớn hơn tôi hai tuổi, chúng tôi cùng
nhận thức sâu xa rằng, chỉ có học pháp, tu theo Phật dạy mới là con đường tốt
nhất cho cuộc sống. Chúng tôi dốc sức tham gia các hoạt động Phật sự, siêng
tụng kinh, phóng sinh… lo bồi dưỡng thiện căn, tiêu trừ nghiệp chướng, chăm chỉ
tu hành.
Hồng cư sĩ đời trước vốn đã trồng thiện căn sâu
dày. Mới đầu anh nói: “Muốn học Phật trước tiên phải qui y Tam bảo, xây dựng
niềm tin căn bản cho tốt”… anh rủ tôi cùng qui y, nhưng tôi không chịu, nên anh
đi qui y trước.
Dưới sự chỉ đạo của Hồng huynh, cộng thêm bản
thân không ngừng học tập, niềm tin Phật pháp tăng mạnh, tôi phát tâm qui y.
Nhật nguyệt xoay vần như thoi đưa, thời gian qua
mau như tên bắn, kiếp nhân sinh ngắn ngủi nhưng nhiều khổ đau, mạng sống vốn vô
thường… Đức Phật vĩ đại đã chỉ con đường tu hành xán lạn cho chúng ta. Đây là
con đường hạnh phúc, là may mắn cực lớn cho chúng sinh. Chúng ta cần phải trân
quý, tinh tấn không lười. Phải niệm niệm tu hành, để thành tựu trí huệ vô
thượng, hầu báo đáp Phật ân. Trước khi dừng bút, tôi xin trích dẫn những lời
Phật thuyết dặn dò cứu độ nhân thiên…. trong Kinh Địa Tạng:
…”Chúng sinh chí tánh bất định, quen thói ác… Dù
có phát thiện tâm nhưng trong chốc lát liền thối thất mà hễ gặp ác duyên thì
niệm xấu tăng mau. Vì thế nên ta phải phân ra làm trăm ngàn vạn ức thân, tùy
theo căn tánh chúng sinh mà hóa độ.
Này Địa Tạng! Nay ta ân cần đem chúng trời,
người giao phó cho ông. Đời vị lai, nếu có hàng trời, người cùng thiện nam,
thiện nữ nào, ở trong Phật Pháp mà trồng chút thiện căn chừng bằng mảy lông,
hạt bụi, hạt cát, giọt nước… thì ông nên dùng đạo lực ủng hộ, giúp họ tu Đạo Vô
Thượng lần lần, chớ để thối thất.
Nếu có trời, người, phải theo nghiệp thọ báo,
đọa vào ác đạo; khi vừa đến ngưỡng cửa, mà những chúng sanh này có thể niệm
được danh hiệu một đức Phật, một vị Bồ Tát, hay tụng đọc một câu kinh, bài kệ
của kinh điển Đại Thừa, thì ông hãy dùng thần lục, phương tiện cứu vớt, hiện
thân vô biên ở chỗ những người đó, vì họ phá tan địa ngục, làm cho họ được
hưởng vui thù thắng vi diệu”.
Đọc đoạn văn này xong, chúng ta cùng tĩnh tâm
suy gẫm, ắt sẽ hiểu vì sao tôi được cứu và cũng rõ được uy thần thệ nguyện
Bồ-tát Địa Tạng. Ngài rất từ bi, có đại thần lực, có biện tài bất khả tư nghị!
Bồ-tát một bề ở bên chúng ta, hộ niệm ta, xưa nay chưa bao giờ quên thệ nguyện
của Ngài.
Nếu như đời này tôi không thành tâm qui y Tam
bảo, qui y Bồ-tát Địa Tạng, quyết lòng tu sửa, hành theo đạo vô thượng… thì căn
cứ theo ác nghiệp mình gây tạo, sau khi mãn thân người rồi, chắc chắn tôi sẽ
đọa địa ngục vô gián vạn kiếp khó ra, vì những tội lỗi tôi đã làm, đáng phải
chịu báo như thế!
Mấy tháng cuối năm nay, tôi vui học đạo cùng
đông đảo chúng cư sĩ. Nhờ các pháp lữ dạy khuyên, khi thực hành cùng tập thể
pháp lữ tại gia, tôi thầm cảm nhận được sức gia trì hộ vệ của đoàn thể phi
thường mạnh mẽ và tốt lành, càng cảm động và thầm mừng cho phố Mai Châu có được
đạo tràng tốt. Dưới sự hướng dẫn thông tuệ của thầy trụ trì Minh Huệ, ngài hóa
độ tứ chúng nỗ lực tinh tấn tu không lười. Người khắp nơi đổ về viếng chùa lễ
bảo tháp Thiên Phật trang nghiêm, lắng nghe đại sư khai thị, tiếp thu chánh
pháp, tịnh hóa tâm linh, tẩy sạch trần cấu, hiển lộ Bồ-đề.
Tôi từ một kẻ hung dữ tục tằn không biết đạo,
nhờ Phật pháp mà chuyển hóa mà thay đồi cả cuộc đời theo hướng tốt.
Mong quý vị đọc chuyện của tôi thu được nhiều
lợi ích.
Khâu
Kiện Hào
Nguyện
đem công đức này,
Trang
nghiêm cõi nước Phật
Trên
đền bốn ân nặng.
Dưới
cứu khổ muôn loài.
Nguyện
những ai đọc, xem…
Đều
phát tâm Bồ-đề,
Mãn
một bảo thân này,
Đồng
sinh cõi hạnh phúc.
CHÚ THÍCH
1. Tứ trọng quyết
định thanh tịnh minh hối.
2. Bị ách nạn vây bùa
khốn đốn, khổ sở.
3. Liễu: có nghĩa là
“hiểu, dứt, giải quyết, thanh toán, trả xong”.. vì vậy tôi giữ nguyên không
dịch, để quý vị tự giải hay hơn.
4. Là cả nhà đồng tu,
công phu sớm tối, ăn trường trai, học theo hạnh Phật, nghiêm trì ngũ giới, giữ
gìn thân khẩu ý… phát triển trí, bi, làm lợi minh, lợi người, y theo pháp Phật.
5. TAM TỊNH NHỤC: Tam tịnh
nhục là ba món thịt nằm bong ba điều:
1. Mắt chẳng thấy người
giết
2. Tai chẳng nghe người
giết
3. Chẳng phải là giết cho
mình ăn.
6. Đại Từ Ân Tự Tam Tạng
Pháp Sư Truyện
7. Tức là báo ứng đang
trả còn nhẹ, chỉ mới chớm ra hoa. Đen khi phải trả đúng “quả” thì rất nặng!
8. Bản Hán văn
trang 167
9. Quỳ sứ âm cung.
Tác giả không biết nên gọi là quái vật.
10. Cảnh trong mộng
luôn biến chuyển, vì vậy mà tác giả thấy Bồ-tát hiện trên đầu giường.
11. Quyển hạ, Phẩm
Chúc Lụy trang 130 bàn Hán văn.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét