NIỆM PHẬT CÓ THỂ CHUYỂN HÓA TẾ BÀO UNG THƯ
Ung thư là căn bệnh nguy hiểm, mang trên người căn
bệnh này được coi như mang trên người một bản án tử hình. Nhiều người đã chạy
chữa nhiều nơi Đông Y, Tây Y, tốn nhiều tiền của vẫn không hết bịnh. Vậy mà có
nhiều trường hợp chỉ cần chuyên tâm niệm danh hiệu Phật A Di Đà, lại có thể
chữa lành bệnh ung thư. Từ những công trình nghiên cứu về kết tinh của nước,
của Tiến sĩ Masaru Emoto, chúng ta có thể thấy đó là hoàn toàn sự thật, và có
cơ sở khoa học, chứ không phải là điều mê tín. Chuyên tâm cầu nguyện, niệm Phật
thực sự có thể chuyển hóa căn bệnh ung thư.
Chúng ta có
thể thấy rõ ràng từ thí nghiệm về tinh thể nước rằng thiện niệm làm mọi thứ đẹp
lên và ác niệm làm mọi thứ xấu đi. Hầu hết cơ thể con người và mọi thứ khác
trên thế giới này đều được cấu thành từ nước. Chính vì vậy thiện niệm của chúng
ta có sức mạnh cải biến ngoại cảnh và chính bản thân chúng ta.
Tiến sĩ David
Hawkins là một bác sĩ rất nổi tiếng ở Mỹ, ông cho biết những người bệnh vì sao
bị bệnh, bởi vì trên cơ thể người bệnh không bao giờ tìm thấy chữ “ yêu thương”
chỉ thấy chữ “Khổ hận, phiền muộn” bao bọc cơ thể họ. Rất nhiều người bệnh vì
không được yêu thương, ở họ chỉ thấy khổ và phiền muộn, tần số rung động chính
là từ tường mà mọi người hay thường nói.
Ông cũng phát hiện ra rằng, những người
bệnh thường hay có suy nghĩ tiêu cực. Tần số rung động của người trên
200 sẽ không bị bệnh, ở người bệnh tần số này thường thấp hơn 200. Tần số rung
động của những người thấp hơn 200 là những người hay oán giận, chỉ trích, hận
thù người khác, tần số của họ chỉ là 30 – 40. Quá trình trách móc người khác sẽ
làm tiêu hao rất nhiều năng lượng trong họ, vì thế tần số rung động sẽ giảm
thấp hơn 200 và những người này có nguy cơ mắc nhiều chứng bệnh. Chỉ số rung động
cao nhất là 1000, thấp nhất là 1. Ông nói, trong cuộc đời ông từng gặp người có
tần số rung động cao nhất là 700, năng lượng trong cơ thể anh ấy rất dồi dào.
Khi những người này xuất hiện, họ sẽ làm ảnh hưởng đến từ trường của cả khu vực
xung quanh. Khi người có năng lượng cao xuất hiện, từ trường của họ sẽ làm cho vạn vật trở nên tươi đẹp hơn. Còn với
người có suy nghĩ tiêu cực, không những chỉ tổn thương bản thân họ mà còn làm
cho từ trường chung quanh cũng bị xấu đi. Những người có tần số rung động trên
200, là những người có tâm hướng thiện, quan tâm đến người khác, giàu lòng từ
bi nhân ái, hướng thiện, bao dung, độ lượng. Đây là những đức tính có tầng số
rung động rất cao, đạt đến mức 400- 500. Ngược lại người có tính căm ghét, phẫn
nộ hay chỉ trích, trách móc, đố kỵ, đòi hỏi người khác, luôn tự lợi cá nhân,
ích kỷ, không màng đến sự biết ơn người khác sẽ có tần số rung động thấp nhất.
Tần số rung động thấp là nguyên nhân dẫn đến các bệnh ung thư, bệnh tim mạch
v.v... Từ góc độ y học ông cho rằng, ý niệm có ảnh hưởng vô cùng to lớn đến sức
khỏe con người và môi trường chung quanh.
Bản chất của
cuộc sống là tình yêu thương. Căn nguyên của bệnh tật là trong cơ thể người
bệnh thiếu lòng yêu thương. Bệnh tật được đẩy lùi vô điều kiện là nhờ yêu
thương và được yêu thương. Khi tâm trạng vui tươi, yêu đời, lạc quan, lòng
tràng ngập tình yêu thương, cơ thể con người tiết ra chất hóa học Endorphines
và Enkepphalins giúp tăng sức mạnh làm tăng hệ thống miễn dịch, ngăn chặn được
sự xâm nhập của bệnh tật. Ở Việt Nam có câu “Một nụ cười bằng 10 thang thuốc bổ
”. Ngược lại do trạng thái lo lắng, âu sầu, căng thẳng, giận dữ, sẽ khiến cho
cơ thể tiết ra chất độc tố làm tăng thêm nguy cơ bệnh tật.
Nghiên cứu
của Tiến sĩ Masaru Emoto đã chứng minh sự tác động của âm thanh mạng thông tin
tích cực và tốt đẹp đến sự kết tinh của nước. Đây là lý do tại sao nhiều người
niệm Phật A Di Đà và cầu nguyện mà khỏi bệnh ung thư. Khi chúng ta niệm Phật,
làn sóng tâm niệm Phật và làn sóng âm thanh niệm Phật khiến toàn thân chúng ta
dao động một cách vi diệu, dường như xoa bóp cho tất cả tế bào. Việc xoa bóp
này rất nhẹ êm, tinh tế, khiến cho các tế bào trong trạng thái dễ chịu có thể
phát huy công năng tốt nhất, khôi phục lại cấu trúc bình thường của chúng. Sự
rung động tinh tế, vi diệu này chỉ có khi nào thân tâm mình buông xả, thư thái
mới có thể cảm nhận được tương đối rõ
ràng.
Sức mạnh của cầu nguyện và
niệm Phật A Di Đà có thể chuyển một tế bào xấu thành tế bào tốt. Nó như một thứ
nhạc có công năng chữa bệnh rất kỳ diệu. Tại viện ung thư Hoa Kỳ âm nhạc đã
được đưa vào để giúp chữa bệnh ung thư, âm nhạc trị liệu là sự dùng âm nhạc
khác nhau phù hợp cho từng loại bệnh để nâng cao hệ miễn dịch giúp giảm đau,
giảm căng thẳng, giảm các triệu chứng buồn nôn v.v thúc đẩy quá trình chữa bịnh
và nâng cao chất lượng cuộc sống cho bệnh nhân. Tại trường y một âm nhạc trị
liệu cũng được đưa vào thành một môn học như các môn khoa học khác.
So với các âm nhạc khác mà
chúng ta từng nghe, câu niệm A Di Đà Phật
vi diệu hơn rất nhiều, bởi vì trong danh hiệu Phật đã hàm chứa tâm từ bi
vĩ đại và trí tuệ thâm sâu cứu độ chúng sanh của đức Phật. Chính vì câu A Di Đà
Phật hàm chứa tâm từ bi, yêu thương hoan hỷ, nên trong danh hiệu Phật A Di Đà
còn gọi là Phật Hoan Hỷ Quang.
Hoan Hỷ Quang
Như Lai có khả năng làm cho chúng sanh hoan hỷ khi nghe đến danh hiệu của Ngài
mọi buồn phiền đau khổ đều lắng diệu nên gọi là Hoan hỷ. Vì vậy, nên thế giới
của Phật còn gọi là An Dưỡng Quốc Cực Lạc giới Di Đà Hải Hội, Hoan Hỷ Quang Như Lai. Ở thế giới đó
thọ hưởng nhiều điều vui không có khổ đau. Người thường niệm danh hiệu Ngài sẽ
giúp cho tâm được hoan hỷ, yêu thương, lạc quan tạo thêm sức miễn dịch giúp khử
trừ mọi bệnh tật. Đức Phật A Di Đà còn
được xưng là Vô Thượng Y Vương, tức là vị vua của các thầy thuốc, vì thế thành
tâm hoan hỷ thường niệm danh hiệu Phật A Di Đà, chính là liều thuốc bổ tốt
nhất. Khi chúng ta cảm thấy hoan hỷ và có tâm niệm tốt lành, toàn thân chúng ta
cảm thấy thư thái dễ chịu. Chúng ta niệm Phật
chính là đem tâm niệm của mình đặt vào trong năng lượng cao nhất, từ bi
hỷ xả thanh tịnh nhất. Trạng thái tâm niệm này sẽ sinh ra hiệu quả an ủi và
khích lệ từng tế bào một trong cơ thể. Không những chỉ có khả năng chữa khỏi
bệnh ung thư, cầu nguyện và niệm Phật, còn được ứng dụng vào việc chữa trị căn
bệnh thế kỷ HIV. Ở Việt Nam từ năm 2006 giáo sư Tiến sĩ Phan Thị Phi Phi (
Trường Đại học Y Hà Nội ) Trung tâm nghiên cứu tiềm năng con người đã áp dụng
phương pháp niệm Phật để chữa trị cho những người bị HIV/ AIDS. Các nhà khoa
học đã tiến hành nghiên cứu trên 28 bệnh
nhân nhiễm HIV, trong đó có 20 trường hợp nhiễm bệnh sớm và trung gian, 8
trường hợp muộn mới xét nghiệm. 23 bệnh nhân đầu tiên đều được xét nghiệm hai
lần ( trước và sau niệm Phật) các chỉ số miễn dịch tế bào liên quan đến bệnh
như TCD3, TCD4, TCD8, tỷ lệ TCD4 trên TCD8. Tại trung tâm phòng chống AIDS viện
vệ sinh phòng dịch quân đội. Qua 6 tháng dùng phương pháp niệm Phật hỗ trợ điều
trị HIV/ AIDS, kết quả bước đầu cho thấy đa số các bệnh nhân đều tăng các chỉ
số tế bào miễn dịch chống HIV, đặc biệt họ không chuyển sang giai đoạn AIDS.
Sức khỏe của họ tốt hơn trước đó. Kết quả này đã được báo cáo tại Hội nghị
“Năng lượng sinh học và sức khỏe ” do trung tâm nghiên cứu tiềm năng con người
tổ chức tại Hà Nội.
Theo Giáo sư
Phi, xét về Tây y, nguyên nhân gây bệnh là do các khiếm khuyết di truyền (gen )
và các yếu tố môi trường. Kinh Phật nói rằng: “ Bệnh tật con người là do nghiệp
gây ra, nếu tu dưỡng tốt, tụng kinh niệm Phật A Di Đà có thể thay đổi nghiệp,
có nhiều bệnh sẽ khỏi ”. Vì vậy, phương pháp trì niệm danh hiệu Phật A Di Đà để
trị bệnh đã được áp dụng tại nhiều quốc gia.
Từ những kết quả nghiên về sự ảnh hưởng tích cực của việc cầu
nguyện và phát thiện niệm đối với sự kết
tinh nước, chúng ta có thể nhận ra rằng: Niệm danh hiệu Phật A Di Đà chính là
phương pháp trị liệu bằng âm ba vi diệu nhất nhằm khai phát khả năng trị liệu
tự nhiên của Phật tánh trong mỗi con người ( khả năng tự chữa lành ).
Điều này có
thể giải thích vì sao nhiều người càng niệm Phật da dẻ càng hồng hào, tươi tắn,
khỏe mạnh. Chính khi tâm an vui thanh tịnh, lòng tràng ngập tình yêu thương cơ
thể sẽ tiết ra chất hóa học Endorphins và
Enkeppholins giúp tăng sức mạnh để chiến thắng bệnh ung thư, vì vậy đối
với tế bào bị hỏng như tế bào ung thư, nhờ sức mạnh của cầu nguyện và câu niệm A Di Đà Phật, sức mạnh
của tâm yêu thương mà các tế bào ung thư có thể chuyển hóa thành tế bào khỏe
mạnh. Phật là người đã khai phát và hiển
lộ năng lượng Phật tánh của mình đến mức viên mãn. Niệm danh hiệu Phật A Di Đà
cũng giúp con người khai phát ánh sáng và năng lượng công đức Phật tánh vốn sẵn
có nơi chúng ta. Năng lực công đức này đương nhiên cũng bao gồm năng lực trị
liệu tâm bệnh và thân bệnh.
SỨC MẠNH CỦA CẦU NGUYỆN VÀ NIỆM PHẬT CÓ THỂ THAY ĐỔI THẾ GIỚI
Từ nghiên cứu
về tinh thể nước, chúng ta có thể nói bốn đại: Đất, Nước, Gió, Lửa đều có bản
năng: thấy, nghe, hiểu, biết như chúng ta vậy. Trong kinh Hoa Nghiêm Phật nói:
“ Tất cả chúng sanh ( hữu tình vô tình )
đều đồng một bản thể chơn nguyên, đều có tính thấy, nghe, hiểu, biết như
nhau ”. Hoàn cảnh chung quanh xấu hay tốt, thiện hay ác đều do tâm niệm của
chúng ta..
Ông Masaru
Emoto đã xuất bản cuốn sách đặc biệt mang tựa đề: “ Thông điệp từ nước” ghi lại
những điều ông đã khám phá suốt quá trình nghiên cứu từ nước trên khắp thế
giới.
Ông Emoto đã
khám phá ra hàng loạt sự khác biệt rất kỳ thú trong cấu trúc tinh thể của các
nguồn nước khác nhau, thu thập từ nhiều nguồn đa dạng và ở điều kiện môi trường
khác nhau trên trái đất. Nước từ con sông dòng suối tươi nguyên bắt nguồn từ
các khe núi sẽ cho chúng ta thấy cấu trúc tinh thể hết sức cân đối và tuyệt
đẹp, trái lại nước đã bị ô nhiễm ở các khu công nghiệp, môi trường ô nhiễm và
nước tù đọng trong cống dẫn hay đập ngăn nước thì chỉ tìm thấy cấu trúc phân tử
có dạng méo mó, vẹo vọ và hiếm khi tạo thành cấu trúc tinh thể.
Những hình ảnh
chụp các loại nước khác nhau cho chúng ta thấy sự tương phản thật khó tin của
nước, sự tương phản sống động và có phản ứng rất nhạy trước những tâm tư tình
cảm của con người. Có điều hết sức rõ ràng nước lưu lại được những sự rung động
và năng lượng từ môi trường mà nó đang tồn tại, bất kể đó là môi trường độc
hại, ô nhiễm hay môi trường tự nhiên tinh nguyên.
Những thí
nghiệm này có thể gợi ý cho chúng ta thấy lý do tại sao ngày nay có nhiều thảm
họa thiên nhiên đến như vậy. Trên thế giới có 7 tỷ người, nếu tư tưởng của một
tỷ người là xấu xa thì không chỉ hành vi của họ tàn phá thế giới mà ngay cả suy
nghỉ của họ cũng gây thảm họa cho thế giới. Bởi vì, ý nghĩ của chúng ta có thể
thay đổi môi trường và thực tại, do đó, khi chúng ta có những suy nghỉ tốt đẹp,
nói chuyện ân cần, làm những việc tốt và sống bằng những tư tưởng chính trực và
nhân từ, thì chúng ta có thể thay đổi cả thế giới này.
Khi nghiên cứu
này đem ra phát biểu tại Liên Hiệp Quốc đã có rất nhiều người cảm động, thế
giới này có hy vọng thay đổi, vạn vật có thể chung sống hòa hợp, với tiền đề là
tâm con người nhất định phải thay đổi, chỉ cần tâm con người hướng thiện, thì
tất cả thiên tai đều có thể hóa giải được.
Ngày nay, những
giá trị sai lầm của con người đã đưa lòng tham, sự sân hận, ngu si, ngạo mạn và
hoài nghi từ trong nơi sâu thẳm của tâm đi đến cực điểm. Khi thiên tai bất ngờ
xảy ra, con người luôn đặt ra câu hỏi “Tại sao xảy ra nhiều thiên tại như vậy
mà không hề có chút dự báo nào?”. Thực
ra sóng thần, bảo lớn, động đất, lũ lụt, hạn hán, lỡ đất và dịch bệnh, và nạn
đói.v.v.. đều là những dự báo, nó cho chúng ta thấy rõ cảnh tượng và môi trường
đáng có những thay đổi theo chiều hướng xấu ngày càng cao. Có thể thấy tâm con
người đã dần trở nên độc ác và nguy hiểm như thế nào. Bởi vì con người có nội
tâm như thế nào, thì sẽ có hoàn cảnh và môi trường như thế ấy. Cổ nhân có câu “
Trời đất và chúng ta cùng gốc, vạn vật và ta một thể ” Cho nên con người và vạn
vật vũ trụ tương dung tương thông, liên quan chặt chẻ với nhau, vinh cùng vinh,
tồn thì cùng tồn. Cố nhân đã phát hiện ra chân lý của con người và vũ trụ và
cảnh báo với thế hệ con cháu của muôn đời sau rằng: “ lòng tham, oán hận, ngu
si, ngạo mạn, nghi hoặc là độc hại. 5 loại tâm thái có độc này chính là nguồn
gốc của tất cả thiên tai xảy ra”.
Trong cuộc sống, nếu chúng ta bảo trì thiện niệm,
chúng ta sẽ tịnh hóa cơ thể chính mình, trở nên đẹp đẽ và khỏe mạnh. Nếu chúng
ta bảo trì được thiện niệm, chúng ta sẽ tịnh hóa được môi trường và những người
chung quanh chúng ta.
Điều quan trọng hơn là chúng ta phải bảo trì thiên
nhiên mọi lúc mọi nơi, vì mỗi niệm đều ảnh hưởng đến cơ thể và mọi thứ xung
quanh chúng ta. Nếu như thân tâm không
cải biến thì không có cách nào cải biến nước và hoàn cảnh xung quanh được. Có
thể nói rằng sự thuần tịnh của hoàn cảnh sống phản ảnh sự thuần tịnh của tâm
linh chúng ta. Muốn cải biến toàn bộ cục diện hoàn cảnh thì chỉ có một cách là làm cho thân tâm hướng
thiện đạo đức thăng hoa. Lời nói, suy nghĩ có ảnh hưởng nghiêm trọng đến vật
chất xung quanh
0 nhận xét:
Đăng nhận xét