ĐIỀU KIỆN QUYẾT ĐỊNH TRƯỚC KHI TU TẬP
a/ Tin sâu
nhân quả: Bất luận người nào, nếu muốn dụng công tu tập
trước cần phải tin sâu nhân quả. Nếu không tin nhân quả, thực hành càng bướng,
không những tu hành chẳng thành công mà tam đồ cũng khó tránh. Cổ đức nói:
“Muốn biết nhân đời trước hãy xem sự lãnh thọ đời nay, muốn biết quả đời sau
hãy nhìn sự gây tạo hiện tại”. Lại nói: “Giả sử đã tạo nghiệp trăm ngàn
kiếp vẫn không mất, khi nhân duyên hội
ngộ quả báo trở lại tự chịu ”. Kinh Lăng Nghiêm dạy: “ Nhân địa không ngay, quả
báo cong vạy”. Cho nên gieo nhân lành kết quả lành, gieo nhân ác kết quả ác,
trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu là đạo lý tất nhiên vậy.
Chuyện vua Lưu
Ly giết dòng họ Thích. Trước Đức Phật Thích Ca ra đời, trong thành Ca Tỳ La Vệ
có một làng chài lưới, trong làng có một cái hồ to. Khi ấy trời hạn nước cạn bao
nhiêu cá trong ao bị người làng bắt ăn hết, sau cùng còn lại một con cá rất to
cũng bị dân làng bắt làm thịt luôn. Trong làng chỉ có một đứa bé lâu nay không
ăn thịt cá, hôm ấy đến thấy con cá to, lấy cây gõ trên đầu nó ba cái rồi bỏ đi.
Sau này khi Đức Thích Ca ra đời, Vua Ba Tư Nặc rất kính tin Phật pháp,nên cưới
con gái dòng họ Thích làm vợ, sanh được một thái tử đặt tên là Tỳ Lưu Ly. Lúc
thơ ấu, Lưu Ly ở bên ngoại tại thành Ca Tỳ La Vệ học, một hôm nhân giởn chơi
trèo lên tòa của Phật ngồi, bị người họ Thích rầy mắng kéo lôi xuống, nên ôm
lòng uất hận. Đến khi Lưu Ly lên làm vua, xuất đại binh đánh thành Ca Tỳ La Vệ,
bắt hết dân cư trong thành giết sạch, chính khi ấy đức Thích Ca nhức đầu ba
ngày. Các vị đệ tử lớn của Phật cầu xin Phật tìm cách giải cứu dòng họ Thích.
Phật nói: “Định nghiệp khó chuyển”. Tôn giả Mục Kiền Liên dùng thần thông lấy
bình bát đến thâu 500 người dòng họ Thích đem để trên không trung, khi giặc
qua, Ngài đem xuống thả ra, không ngờ khi trút bát thấy tất cả đều biến thành máu. Các đệ tử đến thưa hỏi
Phật, Phật đem việc xưa dân trong làng ăn cá thuật lại. Con cá lớn ngày xưa là
vua Lưu Ly hiện nay, quân đội của vua Lưu Ly đều là những con cá nhỏ ở trong
hồ. Dân cư trong thành Ca Tỳ La Vệ bị giết đều là người ăn cá ngày xưa. Thân Phật
chính là đứa bé gõ đầu cá ba cái ngày xưa, nên hiện nay bị quả báo nhức đầu ba
ngày. Vì định nghiệp khó tránh nên 500 người dòng họ Thích tuy được tôn giả Mục
Kiền Liên cứu thoát, cũng không bảo tồn được tánh mạng. Sau này Lưu Ly bị đọa
địa ngục, oan oan tương báo không biết bao giờ hết được. Nhân quả thật đáng ghê
sợ vậy.
Chuyện Bách
Trượng độ Hồ Ly: Bách Trượng nhân một hôm vào nhà giảng, giảng xong các thính
giả ra hết, chỉ còn lại một ông già không lui đi. Ngài Bá Trượng hỏi: “Ông còn
muốn hỏi gì? ”. Ông ấy thưa: “Con là Dã Hồ Tinh không phải là người, đời trước
con vốn làm Đường đầu ( Trí Thức ) ở
đây, nhân có người học, hỏi con: Bậc đại
tu hành lại rơi vào luật nhân quả chăng?
Con đáp: Không rơi vào luật nhân
quả. Do đó, con đọa lạc làm Dã hồ tinh
đã 500 năm, không có cách nào thoát thân, mong Hòa thượng từ bi chỉ dạy cho”.
Ngài Bá Trượng bảo: “ Ngươi hỏi lại ta ”. Ông ấy bèn hỏi: “ Bạch Hòa thượng,
Bậc đại tu hành lại rơi vào nhân quả chăng?”. Tổ Bá Trượng đáp: “ Không lầm
nhân quả”. Ông già nghe câu này liền đại ngộ, ông lễ tạ thưa: “Nay nương lời
đáp của Hòa thượng, khiến con siêu thoát thân Dã hồ, con ở hang sau núi, mong Hòa
thượng lấy lễ tống táng theo nhà sư cho con”. Hôm sau Tổ Bá Trượng lại hang sau núi, lấy gậy bới ra có xác con chồn, bèn dùng lễ
theo nhà sư mà an táng.
Qua hay câu chuyện xưa này càng thấy rõ nhân quả đáng
sợ, tuy thành Phật vẫn khó khỏi quả báo nhức đầu, sự báo ứng một mảy may không
sai lạc, định nghiệp thật khó tránh, chúng ta gắng cẩn thận, gắng dè dặt chớ có
gây nhân.
b/ Nghiêm
trì giới luật: Dụng công tu hành trước nhất phải trì giới.
Giới là cội gốc của Vô thượng Bồ đề, nhân giới sanh đinh, nhân định phát huệ,
nếu không trì giới mà tu hành thì không thể được. Trong kinh Lăng Nghiêm dạy rõ
bốn món thanh tịnh, dạy rằng: “ Không trì giới mà tu chánh định, không thể
thoát khỏi trần lao, dù hiện tiền có nhiều trí tuệ, nhiều thiền định cũng rơi
vào tà ma ngoại đạo”. Đó nên biết, trì giới là trọng yếu, người trì giới Long
thiên ủng hộ, ma ngoại kính sợ. Người phá giới, bọn quỷ gọi là giặc lớn. nó
quét dấu chân của người ấy. Ngày xưa tại nước Kế Tân, gần bên đất già lam, có
một con độc long thường khi ra nhiễu hại dân chúng đại phương. Có 500 vị A La
Hán nhóm họp một chỗ dùng sức thiền định đuổi nó đi, rốt cuộc không hiệu quả gì
cả. Sau có một vị tăng không cần nhập định, chỉ đến gần con độc long nói một
câu: “Hiền thiện ! hãy tránh xa chỗ này đi ”, con độc long liền đi mất. Các vị
A La Hán hỏi vị Tăng ấy, Ông dùng thần thông gì để đuổi được con độc long? Vị Tăng đáp: “ Tôi không dùng sức thiền
định, chỉ cẩn thận đối với giới, gìn giữ giới khinh cũng như giới trọng”. Chúng
ta tưởng tượng sức thiền định của 500 vị A La Hán mà không bằng một vị Tăng
nghiêm trì giới luật.
Hoặc có người
bảo rằng: “Lục tổ nói, Tâm bình đâu cần trì giới, hạnh thẳng nào dùng tham
thiền”. Tôi xin hỏi ông. Tâm ông đã bình, hạnh ông đã thẳng chưa? Giả sử có
người con gái đẹp lõa thể đến ôm ông, ông có thể không động tâm chăng? Có người vô lý mạ nhục đánh đập ông,
ông có thể không sanh tâm sân hận chăng. Ông đã đạt được chỗ không phân biệt oán thân, thương ghét, nhân
ngã, phải quấy chưa? Cẩn thận khi làm được mới nói những lời to ấy, nếu làm
không được mà nói chỉ là nói suông.
c/ Tín tâm
kiên cố: Có ý dụng công tu tập trước
cần phải có lòng tin bền chặt. Lòng tin là đầu của Đạo, là mẹ của các công đức.
Bất luận làm việc gì không có lòng tin thì làm không xong. Chúng ta cốt liễu thoát sanh tử, điều cần thiết phải
có lòng tin bền chặt. Phật nói: “Tất cả chúng sanh đều có đức tướng trí tuệ Như
Lai, chỉ vì do vọng tưởng chấp trước không thể chứng được”. Phật dạy các thứ
pháp môn để đối trị tâm bệnh của chúng sanh. Chúng ta nên tin lời Phật nói
không hư dối, tin chúng sanh đều có khả năng thành Phật. Sở dĩ chúng ta chưa
được thành Phật, đều do chưa triệt để dụng công như pháp mà thôi. Ví như ta tin
đậu nành làm thành đậu hủ được, nếu ta
không ra công xay nấu đậu hủ, thì đậu nành tự nó không thể biến thành đậu hủ
được. Nếu chúng ta nấu đậu hủ mà không để thạch cao không đúng lượng, đậu hủ
cũng không thể thành. Nếu ta nấu đúng pháp, đổ thạch cao đúng lượng quyết định
sẽ thành đậu hủ. Người tu hành cũng như thế, không dụng công tu tập cố nhiên
không thành Phật, dụng công không đúng pháp, Phật cũng không thể thành. Nếu
người tu hành đúng pháp không lui không thối, quyết định người này sẽ thành
Phật. Cho nên chúng ta cần phải tin chính mình xưa này là Phật, lại tin sâu y
giáo pháp Phật dạy tu hành quyết định sẽ thành Phật. Vĩnh Gia thiền sư nói: “
Chứng thật tướng không nhân pháp, sát na diệt hết nghiệp A tỳ, nếu dùng lời vọng dối chúng
sanh, tự chuốc địa ngục trần sa kiếp”. Ngài Vĩnh Gia vì lòng từ bi, cốt định
chắt lòng tin cho người đời sau, nên phát nguyện rộng lớn như vậy.
d/ Quyết định
pháp môn tu hành: Lòng tin đã đủ, lại
nên chọn một pháp môn để tu trì, cần phải không được sớm Tần chiều Sở. Bất luận
niệm Phật cũng tốt, trì chú cũng tốt, tham thiền cũng tốt, điều cần thiết là
nhận định một pháp môn thẳng đó tiến tu hằng không lui sụt. Ngày nay chưa thành
công, ngày mai vẫn tiến hành như thế,
năm nay chưa thành công, năm tới vẫn tiến hành như thế, đời nay chưa
thành công, đời sau vẫn tiến hành như
thế. Quy Sơn Lão Nhân nói: “ Đời đời nếu không lui sụt, quả Phật quyết định có
ngày ”. Có số người làm mà không chú ý quyết định, ngày nay nghe vị thiện tri
thức này nói niệm Phật hay, liền niệm Phật được vài ngày, ngày mai nghe vị
thiện tri thức kia nói tham thiền hay lại tham thiền vài ngày. Sang Đông tìm
Tây, suốt một đời kiếm tìm đến chết mà không được một chút kết quả rất uổng
thay.
2- Phương
pháp tu: Pháp môn dụng công tuy nhiều mà chư Phật, Tổ
sư đều cho tham thiền là vô thượng diệu môn. Trên hội Lăng Nghiêm Phật dạy Bồ tát Văn Thù chọn môn viên thông, Ngài Văn
Thù chọn môn nhĩ căn viên thông của Bồ Tát Quán Thế Âm là bậc nhất hơn cả.
Chúng ta cần “Phản văn, văn tự tánh” (xoay cái nghe nghe tự tánh), chính là
tham thiền. Trong thiền đường này nên giảng một pháp môn tham thiền.
a/ Tọa thiền nên biết: Bình thường nhật dụng đều là hành đạo, như
vậy chỗ nào không phải là đạo tràng. Cần gì thiết lập thiền đường, cũng không
phải tọa thiền mới là thiền. Nói thiền đường, nói tọa thiền chẳng qua vì chúng
ta là chúng sanh trong thời mạt pháp, chướng sâu huệ cạn mà thiết lập.
Tọa thiền cần
hiểu rõ cách điều dưỡng thân tâm. Nếu không khéo điều, hại nhỏ là sanh bệnh,
hại to là bị ma, thật đáng tiếc vậy. Trong thiền đường đi kinh hành, hoặc tọa
thiền chỗ dụng ý chính là điều thân tâm, phương pháp điều thân tâm rất nhiều,
nay chọn lọc những điều cần yếu lược nói.
Khi ngồi kiết
già phải theo thứ tự, giữ tự nhiên và ngồi ngay thẳng. Không được để ý ểnh lưng
thẳng lên, nếu ểnh thẳng lưng hơi nóng xông lên tụ lại lâu ngày, con mắt sanh
nhiều ghèn, miệng hôi, đầu nóng, không muốn ăn uống, quá lắm đến thổ huyết. Lại
không được để lưng cong đầu cúi nhiều, nếu vậy dễ sanh hôn trầm. Như biết khi
hôn trầm tới, mở mắt to ra, ểnh lưng một cái và động nhẹ nhẹ hai bên hông, hôn
trầm tự nhiên tiêu diệt.
Nếu dụng
công cấp bách quá, khi nghe trong lòng bức rứt nên bỏ hết mọi việc và xả luôn
cả dụng công, dừng nghỉ độ năm mười
phút, dần dần thư thái, nhiên hậu đề khởi dụng công. Nếu không như vậy, dồn
chứa lâu ngày biến thành tánh nóng nảy dễ sân,
thậm chí phát cuồng bị ma. Tọa
thiền khi có chút thọ dụng ( thấy cảnh giới lạ ) cảnh giới phát hiện rất nhiều
nói không thể hết, chỉ ta không chấp trước cảnh giới ấy thì nó không làm trở
ngại ta được. Lời tục nói: “ Thấy quái ta không quái, quái tự mất”. Trông thấy
yêu ma quỉ quái đến nhiễu hại ta, ta không cần quan tâm đến nó, cũng không sợ
nó hại. Chính thấy đức Phật Thích Ca đến rờ đầu thọ ký, ta cũng không quan tâm
đến, chẳng sanh vui mừng. Kinh Lăng Nghiêm nói: “ Không khởi tâm cho mình chứng
thánh là cảnh giới lành, khởi tâm cho mình chứng thánh tức lạc quần tà ”.
b/
Hạ thủ công phu: Biết chủ và
khách. Khách và trần dụ vọng tưởng, chủ
và hư không dụ tự tánh. Người chủ thì thường ở, không phải như khách hoặc đi
hoặc đến, đó là dụ tự tánh thường trụ vốn không theo vọng tưởng chợt sanh chợt
diệt. nên nói: “ Chỉ tự vô tâm với vạn vật, ngại gì vạn vật thường nhiễu loạn
”. Tính chất vi trần tự diêu động vẫn
không làm ngại được cái yên lặng của hư không. Dụ vọng tưởng tánh nó sanh diệt
vẫn không làm ngại được tự tánh như như bất động. Nên nói: “ Một tâm không sanh
muôn pháp chẳng lỗi lầm”.
Trong đây chữ
Khách so phần thô, chữ Trần so phần tế. Người mới phát tâm trước nhận rõ chủ và
khách, tự không bị nó kéo lôi, tiến lên nhận rõ ràng không và trần, vọng tưởng
không thể làm chướng ngại. Nên nói: “
Biết được, không phải oán”. Người hay xét kỷ lãnh hội được chỗ này, sự dụng
công tu hành rất chóng tiến.
- c/ Tâm thiết
tha vì sanh tử cùng phát tâm lâu dài:
Tu hành rất
cần tâm thiết tha vì sanh tử và phát tâm
lâu dài. Nếu đối với sự sanh tử không thiết tha thì nghi tình không phát, công
phu khó đạt. Nếu không phát tâm lâu dài một nóng mười lạnh thì công phu cũng
không thành phiến. Chỉ cần có tâm tha thiết lâu dài thì huệ tâm mới phát. Khi
huệ tâm phát thì trần lao phiền não không dứt cũng tự trừ. Khi thời tiết nhân
duyên đến tự nhiên nước tu thành ngòi.
Câu chuyện về
thiết tha cái chết ( sợ chết ) Đời nhà
Thanh bên Trung Quốc năm Canh Tý, Liên quân tám nước vào kinh đô, vua Quang Tự
và Từ Hy Thái Hậu phải bỏ thành chạy trốn giặc. Giữa đường gặp một đoạn phải chạy bộ về Thiểm Tây, mỗi ngày chạy mấy mươi
cây số, luôn mấy ngày không cơm. Trên đường gặp một ông già đem dâng cho vua
Quang Tự một miếng khoai rừng, ăn xong vua hỏi người ấy: “ Thứ gì ăn ngon lắm
vậy”. Chúng ta thử nghĩ, Hoàng đế ngày thường rất kiểu cách, rất oai phong, đâu
từng đi bộ hơn mấy bước, chưa từng đói quá nữa bụng, chưa từng ăn hết một miếng
khoai rừng. Đến lúc này, kiểu cách chẳng có, oai phong không còn, lội bộ cũng
được, bụng đói cũng chịu, ăn rễ rau cũng ngon, vì sao mà ông bỏ hết được? Vì Liên quân đuổi bắt ông, ông nhất tâm chạy chết. Đến sau được nghị hòa, ông ngự giá về kinh,
kiểu cách lại khởi, oai phong lại hiện, đi bộ không nổi, bụng đói không được,
cái gì không ngon thì nuốt không trôi. Sở dĩ như thế, tại khi này ông buông
không hết, vì Liên quân không còn đuổi bắt ông. Ông không có tâm chạy chết. Giả
sử ông thường đem cái tâm chạy chết ấy mà tu hành thì thế nào không thành công,
đáng tiếc ông không có cái tâm lâu dài, gặp thuận cảnh thì thái độ củ lại bộc
khởi.
Người tu luôn
luôn cảnh giác. Bọn quỷ vô thường luôn theo đuổi sanh mạng chúng ta. Quỷ vô
thường ( quỷ chết ) là loại quỷ không
mời mà đến, không bao giờ chị “nghị hòa”. Chúng ta cần phải phát tâm tha thiết
lâu dài để giải thoát vòng sanh tử. Người tu cần phải khắc định ngày thành
công, giống như người rơi xuống giếng sâu ngàn trượng, từ sáng đến chiều, từ
chiều đến sáng muôn ngàn tư tưởng chỉ chăm một việc mong ra khỏi giếng, trọn
không có niệm thứ hai. Người thực hành như vậy, trước sau cũng triệt ngộ.
Dụng công: Cái thông bệnh của người sơ dụng tâm là vọng tưởng, tập
khí không buông hết, vô minh, cao mạn, tật đố, chướng ngại, tham, sân,si, ái
luyến, lười biếng, ăn ngon, phải quấy,
nhân ngã đầy bụng làm sao tương ưng với Đạo? Như có người đã từng là công tử
hay ca sĩ mà tu học thì tập khí khó quên, một chút khổ nhọc chịu không nổi, một
miếng không ngon nuốt chẳng vô, làm sao dụng công tu hành. Người này không
tưởng nhớ đức Bổn Sư Thích Ca là hạng nào đi tu mà chịu khó khổ như vậy?
Hoặc có người biết chút ít văn tự bèn tầm chương trích cú đem những lời nói cổ
nhân ra phân tích rồi cho mình là hoàn toàn hiểu biết sanh đại ngã mạn, nhưng
đến khi bệnh nặng thì rên xiết suốt ngày, hoặc đến lúc sắp lâm chung thì tay co
chân rút, bình sanh chỗ hiểu biết không thực hành được một điểm, đến khi hấp
hối an năng sao kịp.
Hoặc
có người có chút đạo tâm lại không hiểu rõ chỗ hạ thủ công phu. Có người sợ
vọng tưởng cố trừ mà trừ không được, trọn ngày buồn rầu bực tức tự hận nghiệp
chướng nặng nề, nhân đó thối thất đạo
tâm. Hoặc có người quyết cùng vọng tưởng chiến đấu, chăm bẳm chống tay xông hơi,
ưởn ngực trừng mắt giống vẻ hầm hầm của tên gám sát, quyết cùng vọng tưởng một
còn một mất, họ đâu biết như vậy, vọng tưởng đã đuỗi không được, trở lại mang
bệnh thổ huyết,phát cuồng. Hoặc có người khởi tâm cầu ngộ, ngờ đâu cầu ngộ đạo
mong thành Phật đều là đại vọng tưởng, cát không phải là cơm, cầu bao nhiêu năm
quyết định cũng không ngộ. Hoặc có người chợt được yên tịnh một vài cây hương
bèn sanh vui mừng, ấy chỉ là con rùa đen mù tìm bộng cây, ngẫu nhiên đụng nhằm
chẳng phải là công phu thật, mà vui mừng sớm đã nhập vào tâm vậy. Hoặc có người
trong chỗ yên tỉnh biết được thanh tịnh
rất thích trong chỗ động thì mất thanh tịnh, nhân đó tránh chỗ ồn náo
tìm chỗ yên tịnh, ấy là đã sớm thành quyến thuộc của hai thứ ma vươn động tỉnh.
Các người như vậy thật rất là nhiều. Kẻ sơ dụng tâm không thấu rõ đường lối tu tập thật là khó.
Có giác mà không chiếu thì tán loạn không thể “ đến nhà ”, có chiếu mà không
giác lại ngồi chết chìm trong nước chết.
b/ Dụng công tuy nói khó, nhưng hiểu rõ đường lối lại
rất dễ: Tị sao sơ dụng tâm là dễ? không có gì khó, buông hết liền được. Buông
hết cái gì? Buông hết tất cả vô minh phiền não. Làm sao buông hết được? Chúng
ta coi thân này như chết vậy. Ông thử chữi thây chết bao nhiêu câu nó cũng
không phát giận, đánh mấy gậy nó cũng không chống cự. Lúc sống ưa phá vô minh
bây giờ cũng không phá, lúc sống ưa danh lợi khi này cũng không màng, lúc sống
nhiều thứ tập nhiễm khi này không có, cái gì cũng không phân biệt, cái gì cũng
bỏ hết, chư vị đồng tham thiền. Chúng ta mang xác thân này một phen hơi thở ra
không trở lại bèn thành thây chết, chúng ta sở dĩ buông không hết, chỉ do xem
thân này là trọng, sanh nhân ngã phải quấy, thương ghét, thủ xả. Nếu nhận định
thân này như thây chết, không quý trọng nó, không chấp nó là ngã thì cài gì
buông không hết? Chỉ cần buông được hết, trong 24 giờ đi đứng nằm ngồi động
tịnh rãnh rang, bận rộn, toàn thân trong ngoài chỉ là một niệm nghi, bình thản
không dứt niệm nghi, không chen niệm nào khác. Một câu thoại đầu như ỷ thiên trường kiếm, ma đến ma chết, Phật đến
Phật chết, không sợ vọng tưởng thì có gì phá hại ta được? Có cái gì phân động
phân tịnh, cái gì chấp hữu chấp không? Như quá thật sợ vọng tưởng, ấy là chồng
thêm một lớp vọng tưởng. Biết mình thanh tịnh, thế là đã không thanh tịnh. Sợ
rơi vào không, chính đã rớt trong có. Tưởng thành Phật, đã vào đường ma. Nên
nói bửa củi gánh nước đâu không phải diệu đạo, cày ruộng cuốc đất đều là thiền
cơ, không phải trong khi ngồi kiết già
mới gọi là dụng công tu hành,/,
Khi lúa chín, đầu bông lúa nặng trĩu nên cong oằn
xuống, khi lúa chưa chín thì đầu ngọn đứng thẳng. ( kẻ hiểu đạo, tu hành thành
thục, thì hạ thấp mình xuống, còn kẻ mới tu đạo, thì lúc nào cũng tự cao, không
biết uốn mình).
{]{
Làm việc đạo với cái tâm đời, tức là tâm danh lợi thì
việc đạo biến thành việc đời. Còn làm việc đời với cái tâm đạo, tức cái tâm vì
lợi ích cho đạo và của chúng sanh, thì việc đời cũng biến thành việc đạo.
Chớ
chê khinh điều thiện
Cho
rằng chưa đến mình
Như
nước nhỏ từng giọt
Rồi
bình cũng đầy tràn
Người
trí chứa đầy thiện
Do
chất chứa dần dần
{
{ {
Chớ
chê khinh điều ác
Choa
rằng chưa đến mình
Như
nước nhỏ từng giọt
Rồi
bình cũng đầy tràn
Do
chất chứa dàn dần./.
Theo đạo Phật,
dù là nghiệp nơi ý, nơi lời nói hay nơi thân, căn bản là ở chỗ dụng tâm, ở chỗ
chúng ta tu tập tâm hằng ngày, khiến cho tâm ta trở thành thuần thiện, không
nghĩ việc ác chỉ nghĩ điều lành. Một người biết tu tập tâm như vậy, tuy rằng
chưa đạt đến đích giác ngộ và giải thoát như các bậc thánh, Phật hay A La Hán,
nhưng có thể nói là đã trên con đường thẳng dẫn đến đích giác ngộ và giải thoát
tối hậu rồi. Hơn nữa, trên bước đường dẫn tới mục đích tối hậu đó, con đường
thiện nhất định sẽ không bị đọa vào cõi ác./
{]{
Không có phước mà siêng tu thì khó mà chứng ngộ, muốn
chứng ngộ phải vừa tu vừa độ.
{]{
Cười là giọt nước mắt đau không lệ
Người ta cười vì trần thế quá đau thương
Nụ cười vẫn nở trên môi tím
Chon chặt niềm thu qua hận sầu.
{]{
Thánh nhân
cầu tâm chẳng cầu Phật.
Ngu nhân cầu
Phật chẳng cầu tâm.
Trí nhân điều
tâm chẳng điều thân.
Ngu nhân điều
thân chẳng điều tâm
Kinh Phật nói: “Tội từ tâm sanh lại từ tâm
diệt”, thế nên biết, tất cả thiện ác đều do tâm mình, do đó nói tâm là căn
bản. Nếu người cầu giải thoát trước phải
biết căn bản. Nếu chẳng đạt được lý này, luống uổng nhọc công từ nơi tướng bên
ngoài mà cầu, thật không thể được. Kinh Thiền môn nói: “Từ nơi tướng bên ngoài
mà cầu, dù trải qua nhiều kiếp trọn không thể thành. Từ giác quán bên trong mà
tu, bằng khoản một niệm liền chứng Bồ đề.”
{]{
Người học đạo cần yếu phải nghĩ: “mình vì đại sự nhân duyên là việc
giải thoát, thảy đều chẳng dám khinh người chưa học, kính người mình học như Phật, chẳng đề cao đức của mình, chẳng đố
kỵ điều hay của người, tự xét nét hạnh của
mình, chẳng dòm dò lỗi của người ”, thì ở tất cả chỗ đều không bị chướng
ngại, tự nhiên được khoái lạc.
Kệ rằng:
Nhẫn nhục đạo thứ nhất
Trước phải trừ ngã nhân
Việc đến không thọ nhận
Là thân chân Bồ
đề.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét