ÁNH SÁNG TRONG CÕI TỊNH ĐỘ
Trong lịch sử tôn giáo nhân loại, đã từ lâu ánh sáng vốn là
một biểu tượng rất quan trọng và thiêng liêng. Với những quan điểm và chủ
thuyết khác nhau trên phương diện tín ngưỡng và triết lý, ánh sáng được các
truyền thống tôn giáo mô tả với nhiều sắc thái, biểu hiện màu sắc, hình dáng,
nội dung và ý nghĩa khác nhau. Thông thường, ánh sáng được các truyền thống này
mô tả trên ba phương diện, đó là: 1/ Hiện tượng tự nhiên của vũ trụ. 2/ Một
nguồn sáng, hoặc một năng lượng mầu nhiệm mà chỉ có những hành giả tâm linh mới
cảm nhận được và thể nghiệm được. 3/ Một yếu tố siêu hình, vượt khỏi tầm nhận
thức thông thường của loài người.
Khi tiếp cận với ánh sáng, người ta có thể cảm nhận ra một cấu
trúc kỳ diệu của thiên nhiên và vũ trụ. Bằng sự quán chiếu thâm sâu của các
hành giả tâm linh, ánh sáng trở thành một biểu tượng mang tính siêu nhiên và bất tử, một hình ảnh thánh
thiện vô cùng. Trong số các hiện tượng thiên nhiên, ánh sáng là một trong những
yếu tố quan trọng khởi nguồn cho những trãi nghiệm tâm linh thâm sâu và dần dần
ánh sáng có thể giúp cho hành giả đi từ thế giới lý trí phàm tục thuần tuý thâm
nhập vào cảnh giới tâm linh huyền diệu, tạo nên sự phong phú, đa dạng của nền
văn minh nhân loại.
Trong truyền thống Tịnh độ Tây phương, biểu tượng ánh sáng có
một vai trò quan trọng. Sự thấu hiểu được ý nghĩa của biểu tượng này sẽ giúp
cho chúng ta có thêm kiến giải, tạo thêm động lực tu tập cho những ai đang hành
trì theo truyền thống này.
Biểu tượng ánh
sáng trong Phật giáo Nguyên Thuỷ:
Trong truyền thống Phật giáo
Nguyên Thuỷ có đề cập đến nhiều loại ánh sáng kỳ diệu, siêu việt hơn ánh sáng
mặt trời, mặt trăng. Trong đó có ba loại ánh sáng tiêu biểu nhất: Ánh sáng
phước đức, ánh sáng trí tuệ và ánh sáng chánh pháp.
Ánh sáng phước đức và đức hạnh của bậc thánh được thành tựu là
do công năng huân tu nhiều đời của các vị ấy. Đức Phật Thích Ca xuất hiện ở đời
với 32 tướng tốt, thân của Ngài màu vàng ròng toả sáng, biểu hiện cho đức tướng
cao quý của một bậc đại nhân. Dù chuyển Luân Thánh vương cũng có 32 tướng tốt
nhưng không thù thắng bằng tướng tốt của Phật, vì tướng tốt của Phật là diệu dụng
lưu xuất từ pháp thân thanh tịnh của Ngài. Kinh Tâm Địa Quán nói rằng: Đức Thế
Tôn có trăm phước tướng chói sáng trang nghiêm khiến chúng sanh trông thấy liền
phát tâm kính mến hoan hỷ. Nhiều bậc đại đệ tử của Phật như tôn giả Đại Ca
Diếp, Trưởng Giả Cấp Cô Độc ... dù chưa nghe Phật thuyết pháp, chỉ nhìn thấy
kim dung của Phật liền phát tâm quy y.
Trên con đường hoằng pháp, đôi khi đức Phật thị hiện toả ánh
hào quang trong suốt để tuỳ duyên hoá độ chúng sanh. Trong khi truyền bá chánh
pháp, đức Phật cũng đã nhiếp phục rất nhiều kẻ ác lẫn kẻ thiện qua đức tướng
trang nghiêm của mình. Như Đề Bà Đạt Đa từng xúi sáu tên cướp đi hại Phật,
nhưng kim dung của Phật phát ra ánh sáng oai đức đã chinh phục được sáu tên
cướp này. Ngay cả các loài chúng sanh như khỉ vượn, chim chóc đều quy ngưỡng
trước kim tướng chói sáng đầy từ ái của đức Phật.
Ánh sáng trí tuệ của đức Phật được toả chiếu khi đức Phật chứng
đắc Tam Minh hay ba loại tuệ giác siêu thế: Túc mạng minh, Thiên nhãn minh và
Lậu tận minh trong đêm thành đạo. Túc
mạng minh là loại trí mà nhờ đó đức Phật nhớ biết vô số kiếp của Ngài trong quá
khứ với tất cả mọi chi tiết về danh xưng, chủng tộc, dòng họ, thọ mạng và ngay
đến cả việc thọ dụng thực phẩm, những cảm thọ sinh khởi v.v... Thiên nhãn minh
là trí nhận biết, thấu rõ hành nghiệp nhân quả trong vòng sanh tử của vô số
chúng sanh. Lậu tận minh chính là trí tuệ viên mãn, có khả năng đoạn trừ mọi phiền
não nhiễm ô, tận diệt vô minh thành tựu sự giác ngộ và giải thoát toàn triệt.
Quá trình chứng đắc Lậu tận minh được xem như một quá trình chuyển hoá tâm thức
từ mê sang giác, từ khổ sang lạc. Một khi đã vượt thoát mọi hệ luỵ khổ đau, tâm
của hành giả cảm thấy như thể được tái sanh trong một cảnh giới thuần tịnh
trong sáng, và chính trạng thái thuần khiết đó tâm đã kết tụ trong con người vị
ấy một tri kiến như thật về vạn hữu. Khi đức Phật thành đạo dưới cội Bồ đề Gaya một vần hào quang toả
chiếu trong suốt để ấn chứng về sự giác ngộ vô thượng, thành tựu trí tuệ vô
biên của Ngài. Ánh sáng trí tuệ được xem là một trong những biểu tượng vô cùng
quan trọng trong đạo Phật.
Loại ánh sáng quan trọng thứ ba trong đạo Phật, đó là ánh sáng
chánh pháp hay là ánh sáng chân lý. Tâm thức của con người bên trong hay vạn
hữu ở thế gian bên ngoài một khi còn bao phủ bởi bóng tối vô minh thì vẫn còn
mờ mịt, khổ đau. Khi đức Phật thắp sáng ngọn đèn chánh pháp tại vườn Lộc Uyển
và ánh sáng ấy được loan toả khắp mọi phương trời của vũ trụ, cả thế giới như
bừng tỉnh sau những đêm dài đầy mộng mị của đêm trường sinh tử. Từ khi tiếp
nhận nguồn ánh sáng chánh pháp, đã biết bao người mới chợt tỉnh, rằng xưa nay
vốn có mắt như mù, có tai như điếc, không thấy được chân lý, không nghe được
bao âm thanh mầu nhiệm. Một khi đã hiểu chánh pháp con người ta sẽ chuyển sáu
căn ô nhiễm, tội lỗi thành sáu căn thanh tịnh, công đức. Trong kinh tạng thường
thuật lại rằng khi đã thấm nhuần được ánh sáng chánh pháp, các bậc hành giả
thường cảm khái rằng: “Thật vi diệu thay. Như người dựng đứng lại những gì bị
quăng ngã xuống, phơi bày những gì bị che kín, chỉ đường cho những người đi lạc
hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối để cho những ai có mắt có thể thấy sắc.
Cũng vậy, chánh pháp đã được Thế Tôn dùng nhiều phương tiện trình bày giải
thích”. Quả thật nếu thiếu ánh sáng chánh pháp chúng sanh không thể nào vượt
thoát mọi khổ đau để có niềm vui chân thật.
Trong đạo Phật, thông thường ánh sáng phát ra từ thân Phật và
Bồ tát, được gọi là sắc quang, thân quang, ngoại quang. Còn ánh sáng của trí
tuệ có công năng soi thấy chân tướng của sự vật, nên gọi là tâm quang, trí
quang, trí tuệ quang (hay nội quang) Chánh pháp của đức Phật có diệu dụng soi
sáng tâm thức chúng sanh nên được gọi là pháp quang.
Trong truyền thống tông Tịnh độ, biểu tượng ánh sáng được đề
cập nhiều nhất, và cụ thể qua hình tượng tôn thờ đức phật A Di Đà dùng hào
quang tiếp dẫn chúng sanh.
Danh hiệu của đức Phật A Di Đà vốn xuất phát từ thuật ngữ
Amita trong Phạn ngữ, có nghĩa là Vô Lượng. Chữ Vô lượng này có nghĩa là rốt
ráo, cứu cánh, viên mãn, rộng lớn vô biên, đầy đủ các công đức lành, viên mãn
trí tuệ, viên mãn thọ mạng, viên mãn nguyện lực, thần thông, phước đức v.v...
Danh xưng A Di Đà là cách gọi tắt của Vô Lượng Thọ, và Vô Lượng Quang hoặc Cam Lộ
(Mật Tông gọi Phật A Di Đà là Cam Lộ Vương) .
Theo kinh A Di Đà, sở dĩ đức Phật này có danh xưng như thế là
vì ánh sáng của Ngài chiếu khắp cả 10 phương mà không bị chướng ngại (Bỉ Phật quang minh vô lượng chiếu thập
phương quốc độ vô sở chướng ngại thị cố hiệu A Di Đà) Theo kinh Vô Lượng
Thọ: “Oai thần và quang minh của Phật A Di Đà tối tôn đệ nhất, quang minh của chư
Phật khác chẳng sánh kịp. Quang minh ấy chiếu khắp hằng sa cõi Phật ở phương
Đông, Tây , Nam, Bắc, trên dưới và bốn phương phụ
cũng lại như vậy. Hào quang trên đảnh chiếu xa 1, 2, 3, 4 do tuần, hoặc trăm,
ngàn vạn ức do tuần. Hào quang các đức Phật khác hoặc chiếu đến một hai cõi
Phật, hoặc trăm ngàn cõi Phật, chỉ có hào quang đức Phật A Di Đà chiếu khắp vô
lượng vô số vô biên cõi Phật.
Như vậy cả hai bản kinh trên đều đề cao sự vi diệu của hào
quang đức Phật A Di Đà. Đó là một loại ánh sáng đặc biệt có khả năng chiếu đến
vô số quốc độ, cảnh giới mà không bị chướng ngại. Vậy thì, vì sao riêng đức
Phật A Di Đà lại có được loại ánh sáng hy hữu như thế?
Căn cứ vào hai kinh Bi Hoa và kinh Vô Lượng Thọ, hai trong số
các tiền thân của Phật A Di Đà trong quá khứ đã từng là Chuyển Luân Thánh Vương
Vô Tránh Niệm và vua Thế Nhiêu. Vua Vô Tránh Niệm ra đời gặp đức Phật Bảo Tạng,
được vị Phật này giáo hoá nên phát những đại nguyện thậm thâm, còn vua Thế
Nhiêu Vương ra đời gặp đức Phật Thế Tự Tại Vương, đã xuất gia làm Tỳ kheo Pháp
Tạng và phát 48 đại nguyện. Như thế khởi đầu để đức Phật A Di Đà có được hào
quang kỳ diệu như thế là vì trong quá khứ, Ngài đã nhận chân được giá trị và
tiếp nhận được ánh sáng hạnh nguyện hay ánh sáng đại nguyện của chư Phật trong
ba đời. Ánh sáng đại nguyện đó cũng chính là ánh sáng Bồ đề tâm. Đức Phật Thích
Ca cũng như đức Phật A Di Đà khởi đầu sự tu tập, dấn thân vào con đường giác
ngộ cũng là vì nhận chân được nổi thống khổ của mình và vạn loại chúng sinh để
từ đó phát khởi năng lượng từ bi và hạnh nguyện, tiếp nối đại nguyện của chư Phật. Nếu một hành giả phát khởi hạnh
nguyện nào đó từ một thiện tâm bình thường, từ một tình thương bình thường phàm
tục thì hạnh nguyện đó vẫn còn giới hạn và nhỏ bé. Còn như khi vị ấy phát
nguyện trên nền tảng của Bồ đề tâm thì nguyện đó sẽ lại đại nguyện lớn lao. Do
vậy, phát Bồ đề tâm cũng chính là sự phát khởi đại nguyện cao thượng nhất của
một hành giả tu tập Phật giáo.
Sự thù thắng của ánh sáng đức Phật A Di Đà kết quả tự nhiên
đúng với lời nguyện thứ 12 khi Ngài đang tu nhân: “Lúc tôi thành Phật mà quang
minh có hạn lượng, ,tối thiểu chẳng chiếu thấu trăm ngàn van ức na do tha các
cõi Phật thì chẳng thành ngôi chánh giác ”. Nếu thử tìm hiểu đại nguyện của các
đức Phật trong kinh điển Đại Thừa như Phật A Súc, Phật Dược Sư thì những đại
nguyện của Phật A Di Đà có nhiều điểm khác biệt. Riêng lời nguyện thứ 12 của
Ngài là một minh chứng cho bổn nguyện kết duyên rộng khắp với chúng sanh trong
mười phương để chỉ đường dẫn lối họ trở về với tự tánh thanh tịnh trong tâm
mình.
Thông thường ánh sáng hay quang minh của Phật có hai loại: Nội
quang: Ánh sáng trí tuệ bên trong và ngoại quang: ánh sáng nơi thân bên ngoài.
Ánh sáng nơi thân của Phật bao gồm ba loại như sau:
1- Bổn quang: Quang minh của Pháp thân chiếu khắp, rộng lớn, viên dung,
chẳng có hạn lượng.
2- Trí quang: Quang minh của Báo thân cũng chiếu khắp pháp giới.
3- Thân quang: Quang minh của Ứng thân. Quang minh Pháp thân và Báo thân
của chư Phật đều giống nhau. Riêng Quang minh của Ứng thân của mỗi vị Phật thì tuỳ
bổn nguyện mà có khác nhau. Có vị chiếu quang minh một do tuần, có vị chiếu
trăm dặm hay ngàn dặm, có vị chiếu trăm ngàn thế giới, có vị chiếu cả nghìn thế
giới. Thân quang lại chia làm hai loại: Thường quang (ánh sáng thường toả ra từ
thân) và phóng quang (ánh sáng chiếu ra từ một nơi nào đó trên thân, do nhân
duyên đặc biệt nào đó). Như thế ánh sáng của đức Phật A Di Đà mà những đoạn
kinh trên diễn tả chính là ánh sáng Ứng thân của Phật A Di Đà.
Điểm
đặc biệt trong ánh sáng Ứng thân của Ngài chiếu khắp không bị chướng ngại (vô
sở chướng ngại), nghĩa là chiếu một cách triệt để, xuyên núi, thấu đến đáy đại
dương, tột cùng nơi sâu kín, xuyên suốt chốn tối tăm. Trên thế gian này, ánh
sáng mặt trời là kỳ vĩ nhất. Dù mặt trời chiếu khắp vũ trụ nhưng vẫn bị mây
đen, sương mù che khuất. Mặt trời cũng chẳng thể nào chiếu thấu khoảng dưới đáy
chậu úp, không thể xuyên qua chướng ngại vật hay những vật giấu trong nhà tối.
Như vậy, chẳng những quang minh của mặt trời có hạn lượng mà còn bị chướng ngại
nữa. Nếu đem so sánh với Phật quang, thật chẳng khác đem vi trần sánh với núi tu
di.
Loại ánh sáng thứ hai của đức Phật A Di Đà là ánh sáng trí
tuệ. Trong bản kinh Vô Lượng Thọ bản dịch của Pháp sư Khang Tăng Khải, diễn tả
về ánh sáng tí tuệ của đức Phật A Di Đà, bản kinh có đoạn: “Ánh sáng oai thiêng
của đức Phật Vô Lượng Thọ cao quý bậc nhất, ánh sáng của các đức Phật khác đều
không thể sánh kịp, ánh sáng đó toả sáng khắp tất cả thế giới các cõi Phật cũng
không sánh kịp. Vì thế đức Phật Vô Lượng Thọ, có những tên hiệu là Vô Lượng
Quang Phật, Vô Biên Quang Phật, Vô Ngại Quang Phật, Vô Đối Quang Phật, Diệm
Vương Quang Phật, Thanh Tịnh Quang Phật, Hoan Hỷ Quang Phật, Trí Tuệ Quang
Phật, Bất Đoạn Quang Phật, Nan Tư Quang Phật, Vô Xưng Quang Phật, Siêu Nhật
Nguyệt Quang Phật.
Nếu
có chúng sanh nào gặp ánh sáng ấy thì ba nghiệp cấu (tham, sân, si) đều tiêu
tan hết, thân tâm nhẹ nhàng, vui mừng hớn hở, phát lòng Bồ đề. Dù họ đoạ nơi ba
đường (Địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh) vô cùng đau khổ mà thấy ánh sáng ấy đều
được nghỉ ngơi không còn khổ não. Sau khi chết cũng nhờ đó mà được giải thoát.
Như Lai nói ra ánh sáng oai thiêng của đức Phật Vô Lượng Thọ cao xa và mầu
nhiệm khác thường dù cho trọn kiếp cũng
chưa thể hết được.
Đoạn
kinh trên diễn tả rất cụ thể về ý nghĩa danh hiệu Vô Lượng Quang của Phật A Di
Đà. Trong các loại ánh sáng, ánh sáng trí tuệ là thứ ánh sáng vi diệu nhất, vì
nó có công năng làm tiêu tan bóng tối của vô minh phiền não. Đoạn kinh trên chỉ
ra rằng khi chúng sanh gặp, giao thoa, sống trong ánh sáng của đức Phật A Di Đà
thì ba phiền não căn bản liền tiêu tan. Để có thể hội ngộ và giao thoa
được ánh sáng này, hẳn nhiên mỗi hành giả không chỉ niệm suông danh hiệu
của Ngài mà phải sống đúng chánh pháp, tu học chân chính. Khơi mở tuệ giác và
học theo hạnh nguyện của Ngài. Ánh sáng trí tuệ vốn chiếu khắp ở trong mọi lúc,
nhưng nếu bản thân mỗi người không khơi mở tâm trí mình thì cũng chẳng thể nào
tiếp nhận được. Cũng ví như mặt trời mặt trăng luôn tỏa sáng, người mù và kẻ
chỉ thích nhắm mắt thì không thấy được ánh sáng mặt trời mặt trăng thì đó chẳng
phải lỗi của mặt trười mặt trăng.
Xét
về tính chất ánh sáng trí tuệ của đức Phật A Di Đà, đoạn kinh trên trong kinh
vô Lượng Thọ, kể tới 12 danh hiệu liên hệ với ánh sáng trí tuệ. Vì Phật A Di Đà
được giải minh bằng 12 danh hiệu ấy, nên cũng gọi là Thập Nhị Quang Phật, tức
đức Phật của 12 thứ ánh sáng. Nếu cộng thêm danh hiệu Vô Lượng Thọ Phật, đức
Phật A Di Đà có 13 danh hiệu, mà thuật ngữ Trung Quốc gọi là A Di Đà Phật Thập
Tam hiệu.
Để
hiểu rõ hơn về ý nghĩa Vô Lượng Quang, ta cùng tìm hiểu về nội dung của 12 danh
hiệu của đức phật A Di Đà trong kinh Vô Lượng Thọ.
- Vô Lượng Quang: Ánh sáng trí tuệ chơn
thật. trí tuệ quang minh của Phật A Di Đà chẳng thể lường được, nên gọi là Vô
Lượng Quang.
- Vô Biên Quang: Ánh sáng trí tuệ không có ngằn
mé, xa lìa mọi đối đãi nhị nguyên, thuận lý trung đạo, hiển bày khả tánh bình
đẳng tuyệ đối, đưa hành giả chứng nhập sự giải thoát rốt ráo.
- Vô Ngại Quang: Ánh sáng này thể nó như hư
không, không hề bị chướng ngại, tự tại vô ngại, tất cả hữu tình đều có thể thấm
nhuần diệu dụng của ánh sáng này, nên nó được xem là khó thể nghĩ bàn được.
- Vô Đối Quang: Ánh sáng này không có gì
sánh bằng (vì không còn đối đãi), thù thắng vô cùng.
- Diệm Vương Quang: Ánh sáng, sáng chói bậc
nhất, là tối thắng.
- Thanh Tịnh Quang: Ánh sáng chiếu từ thiện căn
vô tham, vô nhiễm của Phật làm tiêu tan mọi tâm tham uế nhiễm, tội lỗi của
chúng sanh.
- Hoan Hỷ Quang: Ánh sáng chiếu từ thiện
căn vô sân của Phật làm tiêu trừ tâm sân
hận, ganh ghét của chúng sanh, khiến họ cảm thấy an vui, hoan hỷ.
- Trí Tuệ Quang: Ánh sáng có công năng phá
trừ vô minh tăm tối. chiếu thấu bản tánh các pháp.
- Bất Đoạn Quang: Ánh sáng thường chiếu sáng
trong mọi lúc, chẳng bao giờ dứt.
- Nan Tư Quang: Ngoại trừ Phật, không một
ai có thể suy lường, nghĩ bàn được ánh sáng này.
Vô Xưng Quang: Ánh sáng vượt ngoài sự diễn
tả bằng ngôn ngữ thế gian, chẳng thể gọi tên ánh sáng này là gì.
- Siêu Nhật Nguyệt Quang: Ánh sáng vượt hẳn cả mặt
trời mặt trăng, chiếu cả ngày lẫn đêm. Mặt trời tuy chiếu vạn vật, nhưng chỉ
chiếu ban ngày, bị ngăn trở bởi chướng ngại vật, cũng chẳng thể chiếu rõ tâm
thức của chúng sanh hoặc chỉ chiếu vật hữu hình, không thể chiếu vô hình, còn
quang minh của Phật A Di Đà chiếu khắp mọi vật, mọi chốn, mọi nơi, nên gọi là
siêu vượt cả mặt trời và mặt trăng.
Như
thế, 12 danh hiệu của Phật A Di Đà nêu bậc những đặc tính siêu việt của ánh
sáng trí tuệ của Ngài. Sở dĩ kinh Vô
Lượng Thọ nói rằng, ánh sáng của Ngài chiếu đến đâu thì chúng sanh ở nơi ấy,
ngay cả trong lao tù, địa ngục cũng được tiêu trừ phiền não, chướng nạn là muốn
ngầm chỉ cho diệu dụng của ánh sáng trí tuệ trong việc xua tan bóng tối vô
minh. Như một quy luật tự nhiên và tất yếu, nơi nào có ánh sáng thì bóng tối
tan biến. Khi hành giả Tịnh Độ khởi niệm Phật, trì danh Phật, nói lời Phật, làm
việc Phật... thì ngay trong vị ấy, một ánh sáng của chánh niệm, của tỉnh thức,
của từ bi thương yêu, của minh triết, sáng soi, toả khắp, hoà nhập trong ánh
sáng trí tuệ vô biên của Phật.
Loại ánh sáng thứ ba của đức Phật A Di Đà đó là ánh sáng phước
đức và công đức được kết tụ từ nhiều đời huân tu của Ngài trong quá khứ. Với
những phẩm hạnh từ bi, bố thí, nhẫn nhục, hạnh nguyện vị tha...khi viên thành chánh
giác y báo và chánh báo của Ngài tại cõi Cực Lạc Tịnh độ tràn ngập ánh sáng
trong suốt an lành. Kinh Quán Vô Lượng Thọ đã chỉ dạy cách thức quán chiếu về
đức Phật A Di Đà như sau: “Phật Vô Lượng Thọ thân như trăm ngàn muôn ức sắc
vàng diêm phù đàn Trời dạ ma, thân Phật cao sáu mươi muôn ức na do tha hằng sa
do tuần, bạch hào giữa hai mày xoay bên hữu, uyển chuyển như năm toà núi tu di,
mắt Phật như bốn biển lớn xanh biếc và trắng phân minh. Các lỗ chân lông nơi
thân Phật phóng ánh sáng ra như núi tu di. Viên quang của Phật ấy như trăm ức
Đại thiên thế giới. Trong Viên quang ấy có trăm vạn ức na do tha hằng hà sa hoá
Phật. Mỗi mỗi hoá Phật, cũng có đông nhiều vô số Bồ tát làm thị giả. Thân Phật
Vô Lượng Thọ có tám vạn bốn ngàn tướng. Trong mỗi mỗi tướng đều riêng có tám
vạn bốn ngàn tuỳ hình hảo. Trong mỗi mỗi tuỳ hình hảo còn có tám vạn bốn ngàn
quang minh, mỗi mỗi quang minh chiếu khắp thập phương thế giới, nhiếp lấy chúng
sanh niệm Phật chẳng bỏ sót. Quang minh tướng hảo và hoá Phật ấy chẳng thể nói
đủ hết, chỉ nên nhớ tưởng khiến tâm nhãn được thấy”.
Những
diễn tả về sự lưu xuất ánh sáng từ kim thân của đức Phật A Di Đà như trên cho
thấy sự viên mãn về phước đức vô lậu của một bậc giác ngộ. Sự thành tựu thân
tướng đoan nghiêm cũng như sự toả sáng trong vô số Ứng thân của Ngài là một
minh chứng cho sự trang nghiêm của một quốc độ thanh tịnh, nơi ấy không những
chỉ vị giáo chủ mà chư Bồ tát, thánh chúng, trời, người và thế giới y báo cũng
đều toả sáng dung thông.
Khi
mỗi hành giả đến với Phật pháp và chọn cho mình một pháp môn tu tập, trau dồi
giới, định, tuệ thực hành các hạnh nguyện lợi tha là ta đã gieo những hạt giống
đang thắp lên những ánh sáng phước báu, ánh sáng của đức hạnh, ánh sáng của
lòng từ bi, của chánh pháp...trong cuộc sống này. Người Phật tử khi phát tâm
niệm Phật, học hỏi chánh pháp, chuyển hoá ba nghiệp, mang Phật pháp đến cho bao
người khác là đang thắp lên ánh sáng trí tuệ. Khi vị ấy biết bố thí cúng dường,
chia sẻ phước báu mình cho những mãnh đời bất hạnh là đang thắp lên ánh sáng
của từ bi, của phước đức. Khi vị ấy biết dấn thân vào đời dùng chánh pháp soi
sáng những tà kiến mê tín là đang thắp thắp lên ánh sáng chánh kiến...tất cả
những phước nghiệp đó trong đời này sẽ kết tụ thành phước báu toả sáng của các
vị ấy nơi cảnh giới Cực lạc Tây phương.
Thế
giới Tây phương sở dĩ thù thắng hơn các thế giới khác là vì các hành giả sanh
về đó không phải do nghiệp dắt dẫn mà là do nguyện lực mà thành. Ánh sáng cõi
Tịnh độ Tây phương là ánh sáng của những tâm nguyện vị tha vĩ đại, của những
trái tim tràn đầy tình thương chân thật, của những khối óc chan hoà trí tuệ
mênh mông, của những âm thanh vi diệu an lành, của pháp giới thanh tịnh vô
biên, của chơn tâm sáng ngời hằng hữu.
Với
ánh sáng mặt trời, mặt trăng, và ánh sáng nhân tạo điện đèn của khoa học phần
nào đáp ứng nhu cầu về đời sống sinh hoạt cho con người, về đời sống vật chất,
nhưng không thể nào thoả mãn lòng tham tăm tối vô hạn của chúng sanh. Biểu
tượng ánh sáng trong cõi Tịnh độ của đức Phật A Di Đà khơi nguồn và soi sáng
cho mỗi sứ giả tâm linh về vai trò của mình trong việc mang lại ánh sáng tâm
linh cho cuộc đời, xua đi bóng tối vị kỷ, nhỏ nhen, tranh chấp, si mê. Sự tương
quan trong thuyết chánh báo và y báo của đạo phật sự toả sáng thù thắng, trang
nghiêm của cõi Tịnh độ như là một thông điệp cho chúng ta, rằng mỗi người cần
phải thắp sáng lên trong cuộc đời mình ánh sáng của trí tuệ, của hạnh nguyện,
của phước đức hữu lậu và vô lậu, để mỗi giây phút, mỗi ngày, mỗi năm và trọn
đời mình được sống chan hoà trong ánh sáng chánh niệm , ánh sáng đức hạnh, ánh
sáng vị tha, ánh sáng từ bi, ánh sáng trí tuệ, ánh sáng của hạnh phúc chân
thực.. chỉ khi nào những ánh sáng này toả chiếu trong trái tim mỗi người, thế
giới này mới có được những giây phút bình yên, tỉnh thức và an lạc thật sự và
cho dù đang sống giữa một thời đại đầy trở ngại, thử thách chông gai và cảm dỗ,
nhưng nếu những ai biết thắp lên ánh sáng của phước đức, của hạnh nguyện của chánh
kiến thì cuộc đời mình vẫn luôn tràn đầy niềm an tịnh, hỷ lạc vô biên ./.
Trích
Bài của Thích Đồng Thành (Hương Pháp 6
Chùa Hoằng Pháp)
0 nhận xét:
Đăng nhận xét