Thứ Năm, 27 tháng 10, 2016

SAU KHI CHẾT CÒN HAY MẤT VÀ ĐI ĐÂU ?

SAU KHI CHẾT CÒN HAY MẤT VÀ ĐI ĐÂU ?

      I. Lời nói đầu:
    Sau khi chết còn hay mất ? Và sẽ đi  đâu ? ấy là những câu hỏi từ xưa đến nay, ngoại trừ Phật pháp , chưa có tôn giáo học thuyết nào giải đáp một cách rốt ráo và làm cho người hỏi được thoả mãn. Vì thế, mà có nhiều người đã bảo'' Việc sống không lo, đi lo việc chết ''
   Chúng ta không đồng ý với câu nói ấy. Thiết nghĩ nếu không tìm ra câu trả lời cho hai câu hỏi trên thì chúng ta không thể nào có một  đời sống có ý nghĩa  cao đẹp.
     Vì hiện nay trừ những người Phật  tử chân chánh, phần đông nhân loại đang sống trong hai cảnh huống cực đoan: Truỵ lạc kiêu sa và mù quáng không tưởng.
     Chúng ta hãy tìm hiểu nguyên nhân sâu sắc gây nên trạng thái sinh họat của hai hạng người ấy và xét đoán có hợp với chân lý không ?
    II. CHẾT LÀ MẤT HẲN ?
     Có một số người đã tự hào đã tìm được chân lý của nhân sinh: Sự sống của con người khởi điểm từ những tế bào do tinh cha huyết mẹ tạo nên và chấm dứt trong quan tài sau khi thịt máu tan thành bùn, đất . Quan niệm này phát sanh từ lý thuyết '' Tinh thần là con đẻ  của vật chất vô tri ''.
     Nên biết lý thuyết này không thể đứng vững với lý luận của những triết gia duy tâm Tây phương chứ khoan nói đến đạo lý giác ngộ của đức Phật.
     Sự thật đâu mà giản dị như thế ? Tế nhị mà xét thì chính vật chất tạo thành thân xác con người  nó không mất hẳn. Nó chỉ biến chuyển từ  hình thái này sang hình thái khác, thân xác của ta gồm có bốn nguyên chất C, H, O, N ( Chất than, khinh khí, dưỡng khí, chất đạm ) . Sau khi chết bốn chất ấy tan thành nhiều chất khác. Một phần  đạm khí bốc lên không, một phần biến thành chất khác (Mêtan v.v.. ) ở duới đất mùn, lại nuôi cây, chất đạm hoà tan trong không khí bị người ta hít vào phổi để nuôi thân, quanh quẩn cũng chừng ấy chất đạm chứ không mất đi đâu cả, ba chất kia cũng thế, huống chi cái tâm linh thấy nghe hay biết của ta mà lại mất hẳn được sao ?
      Điều đáng nói hơn hết là quan niệm '' Chết là hết '' đã làm loạn và gây khổ cho nhân loại không biết bao nhiêu mà kể. Nó làm cho nhiều người chỉ biết sống với hiện tại, không nghĩ đến ngày mai, không tin nhân quả, không sợ tội báo, say mê điên cuồng trong vật dục thấp hèn, gấp rút hưởng thọ, không cần tu dưỡng nên dễ thành những kẻ độc ác và truỵ lạc. Hiện trạng sinh hoạt của nhân loại ngày nay chứng minh điều đó.
     III. CHẾT RỒI CÒN MÃI ?
     Một số khác tin tưởng con người sau khi chết, xác thân tan rã nhưng linh hồn bất tử. Nếu khi sống biết kính thờ quỷ thần thì được sanh lên cõi trời và hưởng khoái lạc đời đời. Nếu có tội và nhất là trái ý quỷ thần thì phải đoạ đày trong địa ngục đau khổ mãi mãi.
     Kể ra quan niệm này tương đối có đạo đức hơn nhưng vẫn chưa chí lý . Vì rằng chỉ đơn độc có linh hồn  mà thiếu giác quan làm sao an hưởng khoái  lạc và chịu hình phạt. Phải có giác quan hoặc là nhẹ nhàng, tốt đẹp hoặc là thô kịch, xấu xa. Theo đạo Phật trừ những cảnh trời thuộc về vô sắc giới, còn những cõi trời ở sắc giới và dục giới đã có hoàn cảnh vật chất thì người sanh lên đó cũng phải có xác thân, mà có xác thân tức là luân hồi vậy.
      Quan niệm trên lại trái với lý nhân quả, một đạo lý công bằng không thiên vị. Pháp luật trần gian cũng chưa bao giờ có những điều thưởng phạt bất công như thế, lỗi lầm không tin một kiếp mà phải muôn đời chịu khổ mãi mãi, và những người làm thiện suốt đời  không thờ kính quỷ thần thì sẽ sanh về đâu?
     Không những thế mà quan niệm trên rất trái với sự thật. Vì đã cố định sự vật một cách chủ quan. Sự vật chung cả tâm linh con người đều chuyển biến sinh diệt không ngừng nghỉ. Tâm niệm con người trong một đơn vị thời gian ngắn nhất- Sát na- có 4500000 lần sinh diệt, trong một phút có 4.500.000 sát na . Herachite  cũng đã nói '' Tất cả đều vô định'' . Dẫu như ông Uất đầu lam Phất, sanh lên cõi trời phi phi tưởng, sống hàng triệu năm đi nữa, khi hết phước báo cũng phải đoạ lạc, làm thân chồn bay huống chi sanh lên cõi trời thấp hơn. Có sanh lên thì có đoạ xuống, ấy là định luật. Chỉ khi nào thoát ngoài vòng luân hồi mới sống trong trạng thái chơn thường được.
     Có người lại tin: Sống trong hiện tại, là sống tạm, đời sau mới là đời sống thật của mình( Sinh ký, tử quy) . Tin tưởng sai lầm như thế nên người ta đã bỏ quên khả năng tiến bộ của mình, hoàn toàn nương cậy ở quỹ thần hay người đại diện để nhờ ơn cứu vớt trong đời sau, không khác gì những người mù quáng nhắm mắt tin theo các ông thiên tử trong đời phong kiến và bỏ mất hiện tại là nền tảng tiến bộ rồi phải lẩn quẩn trong vòng luân hồi không khi nào ra khỏi.
      IV. TÌM LỜI GIẢI ĐÁP.
     Là người sáng suốt muốn  tìm hiểu chân lý chúng ta không thể thoả mãn với hai quan niệm trên được. Chúng ta cũng không nên nuôi lại những thắc mắc trong lòng để rồi lại phải than lên những tiếng than của Aristote '' Tôi sinh trong mê muội, sống trong hồi họp, chết trong hoài nghi '' ( Je suis ne' dans I'inneertitude, je meurs dans le doute)  Chúng ta phải tìm một lối thoát cho chúng ta  và cho những người chung quanh chúng ta bằng cách tìm hiểu đạo lý luân hồi để có những lời giải đáp  minh xác cho hai câu hỏi trên.
     A. Đạo lý luân hồi
     Luân hồi ( Samarara ) nghĩa là chuyển biến như bánh xe lăn tới mãi. Sanh mạng của chúng sanh chuyển biến theo Luật nhân quả từ giai đoạn này sang giai đoạn khác.
     Đạo lý luân hồi là một đạo lý quan trọng trong giáo lý của đức Phật. Đạo lý này làm nguyên lý căn bản cho sự tu hành và toàn bộ Phật pháp đều thiết lập trên đạo lý đó. Luân hồi không phải sự tái sanh vì ngay sanh mạng đang sống đây đạo Phật cũng xác định là chuyển biến sinh diệt không dừng huống là sanh mạng trong một kiếp sau. Sanh mạng được phát sanh đều có nguyên nhân của nó. Quả sanh thì nhơn diệt nghĩa là cái nhơn đã biến thành quả, sanh mạng của đời sau không phải là sanh mạng của kiếp này dù có sanh lại cùng một loại( như người sanh lại làm người cũng không giống nhau ).
    Sữa có tính chất  biến thành pho mát, khi trạng thái pho mát đã hiện ra thì sữa không còn nữa. He'rachite đã nói '' Chúng ta không bao giờ tắm hai lần cùng một dòng sông.''
          a) Sanh mạng là gì ?
          Muốn thấu rõ toàn diện của vấn đề phải hiểu biết sanh mạng là gì đã. Có hiểu biết chân tướng của sanh mạng mới thấy được sự chuyển biến của nó.
       Danh từ sanh mạng chỉ có một giá trị ước lệ. Người chỉ có thể cắt nghĩa sanh mạng là danh từ , chỉ cho những hiện tượng có sanh hoạt đặc biệt  của các sinh vật như người, cầm thú... khác với các sự vật như sắt, đá.v.v..
      Theo sự giải thích của Phật giáo thì sanh mạng là một hợp thể của tâm lý và vật lý, đức Phật đã dạy : '' Con người là do ngủ uẩn hợp thành ''.
      b) Sanh mạng do đâu mà có ?
      Sanh mạng của con người hay của con thú không phải do năng lực của một đấng thiêng liêng nào, cũng không phải ngẫu nhiên mà có. Và cái nhân của một hài nhi không phải là cha mẹ. Mặc dù thể xác và tâm trí của cha mẹ có ảnh hưởng rất nhiều đến con cái. Nếu con cái hoàn toàn do cha mẹ sanh ra thì cha mẹ không thể còn sống được, cũng như cây lúa thành hình thì hạt lúa tiêu mất.
      Theo Phật giáo thì có ba yếu tố để hình thành cho cái thai : Tiểu noãn của người đàn bà ( cái trứng ) cùng sự phối hợp tinh trùng của người đàn ông và thần thức (của con người sau khi chết, hoặc con thú được chuyển thành người ).
        ( Thân người =  trứng + tinh trùng + nghiệp thức ).
     Khi chết cũng gọi là nghiệp lực hết. Như thế, cha mẹ chỉ giúp phần vật chất cần thiết cho sự cấu tạo nên sinh mạng. Sinh mạng được tồn tại và phát triển là do sự tương tục của thọ ( Sự hoạt động của cơ thể ). Noãn ( Nhiệt khí, hô hấp ) . Thức ( Sự duy trì và phân biệt của tâm thức ) .
    Theo sự giải thích trên, không những sanh mạng trong hiện tại mà sanh mạng trong các đời sau cũng như thế cả.
 c) Sinh mạng chuyển biến theo nhân quả.
    Sinh mạng của chúng ta đang chuyển biến trong từng đơn vị thời gian ngắn nhất  của thời gian Sát na vô thường, sự chuyển biến trong từng sát na chất chứa và gây thành chuyển biến trong từng giai đoạn tức là sự chuyển biến từ đời này qua đời khác , như nước biến thành hơi, hơi biến thành mây. v.v..gọi là nhất kỳ vô thường.
     Herachte đã nói: '' không có cái gì tồn tại, cái gì cũng đang trở nên cái khác''. Sinh mạng biến chuyển trong trạng thái thứ nhất thì sát na trước là nhơn, sát na sau là quả, trong trạng thái thứ hai thì đời trước là nhơn, đời sau là quả .  
     Đã chia thời gian thành quá khứ, hiện tại và vị lai, nên nhìn về trước thì hiện tại là quả, ngó về sau thì hiện tại là nhơn, nhơn quả nối tiếp nhau qua thời gian, cho nên căn cứ vào quả ta có thể biết được nhơn, nhìn vào nhơn ta biết được quả, Đức Phật dạy : '' Muốn biết nhơn đời trước, hãy nhìn sự lãnh thọ đời nay, muốn biết quả đời sau hãy nhìn vào nhơn đời này ''. Tất cả những nghiệp nhơn hiện tại là thiện, tốt nhất định sẽ là động lực tạo thành những sự hưởng thọ tốt đẹp ở phía sau. Nghiệp nhân xấu xa hiện tại sẽ là động lực gây nên những kết quả khổ sở trong đời sau.
      Sinh mạng chuyển biến không ngừng nhưng không ra ngoài định luật nhơn quả.
      d. Sự liên quan giữa thân trước và thân sau :
      Có sự liên lạc rất mật thiết giữa sinh mạng trong giai đoạn trước và sinh mạng trong giai đoạn sau. Nhưng với nhãn quan tầm thường của chúng ta khó mà thấy rõ được. Ta có thể suy luận mà biết trong sự chuyển biến vô cùng của sinh mạng, và sinh mạng bị chi phối bởi nghiệp lực tương tục , thì thân sau chính là kết quả của tất cả nghiệp nhân mà thân trước đã tạo.
       Thế hệ sau là con đẻ của thế hệ trước. Cây lúa bây giờ tuy khác với hạt lúa ngày trước, nhưng chính hạt lúa ngày trước đã tạo thành cây lúa ngày nay. Cho nên dầu muốn dầu không người ta cũng phải hưởng hay chịu lấy cái kết quả mà do chính mình đã gây tạo nguyên nhân. Câu nói  '' Dầu có luân hồi nhưng thân sau có phải là ta bây giờ đâu mà sợ, là câu nói liều lĩnh của những người không thấy được sự tương quan tương duyên của sự vật. Sở dĩ chúng ta không biết được những giai đoạn sinh mạng trước của chính chúng ta là bởi những lý do sau :
    1. Con người mất trí nhớ trong khi lọt lòng mẹ, vì khi ấy đứa trẻ bị ép mạnh quá.
    2. Con người sinh ra và hiện sống đây không phải hoàn toàn giống cái sinh mạng đời trước, chỉ có tâm thức và nghiệp quả là của thân trước mà thôi, còn tất cả đều hoàn toàn mới.
     3. Khi nhỏ thì dại khờ, nhưng lớn lên thì lại bận rộn với bao nhiêu công việc: ăn chơi, làm lụng và mãi chạy theo ngoại giới ít khi quan sát nội giới .
      Tuy nhiên cũng có một vài người đặc biệt có tư chất thông minh và trí nhớ xuất sắc đã nhớ được kiếp trước của mình như cô Shanti Devi ở Ấn độ, mới 9 tuổi mà biết chồng con trong kiếp trước, đã làm cho các nhà bác học thời ấy không sao hiểu nổi. Câu chuyện ấy được đăng tải trên báo  ''Le po-pulaise '' ra ngày 20-8-1935. Lại một chuyện em bé 4 tuổi ở Cao Miên, nhắc chuyện sanh tiền ở quá khứ không sai một mảy may nào, đăng trong báo '' Cách mạng quốc gia '' số 72 ngày 7-10-1955. Gần đây ở Mỹ có cô Puch -Rimonh đã nói lại những việc đời trước do các nhà thôi miên điều khiển, và người đầy tớ của bác sĩ Derakey ở đảo Maurice ( Pháp ) đầu thai làm con của chị ông, đăng trong báo Paris Mach, và những vị thần đồng như Pascal 8 tuổi thông giỏi về kỷ hà học. Đoàn thị Điểm 5 tuổi biết làm thơ. Mạc Đỉnh Chi mới 2 tuổi đang còn bồng trong tay đã đọc được chữ Hán, em Thi-Thi người Việt ở Pháp 11 tuổi đã là nhạc sĩ trứ danh về đàn Piano, Michel Arafeloff mới 12 tuổi đã là hoạ sĩ bên bờ biển Anges, đều là những thật trạng chứng minh giữa thân trước và thân sau có sự liên lạc rất chặc chẽ.
     đ. Sanh mạng chuyển biến theo hai chiều :
     Sanh mạng chuyển biến theo chiều mê mờ và khổ não thì gọi là luân hồi và chiều chuyển biến này được thay thế bằng chiều giác ngộ và an lạc thì gọi là giải thoát, như một giòng nước nhưng khi đục gọi là nước đục, khi trong gọi là nước trong, chứ không phải không còn giòng nước. 
      Theo chiều thứ nhất thì một chúng sanh nào khi chết lòng còn tham sống, quyến luyến cuộc đời và còn tình dục là còn luân hồi sanh tử, và tuỳ theo tính chất của nghiệp lực thiện cao hay thấp mà được sanh các cõi trời, A tu la, người, và cũng tuỳ theo tính chất của nghiệp cực ác nặng hay nhẹ mà sanh làm súc sanh, ngạ quỷ, địa ngục và cứ mãi mãi xuống lên trong sáu đường và mang lấy một sinh mạng trong bốn loài, sinh đẻ bằng thai, bằng trứng, từ nơi ẩm thấp và hoá sanh. Danh từ luân hồi chỉ để gọi sự chuyển biến của sanh mạng theo chiều mê mờ và khổ não mà thôi, chứ không dùng để gọi khi chiều ấy đã được thay thế bằng chiều giác ngộ và an lạc. Nghĩa là khi người tu hành đã diệt trừ được sự chấp ngã và những tâm lý xấu xa phiền não và được ra ngoài sự ràng buộc của ba cõi ( Dục, sắc, vô sắc giới ) thì chứng được các thánh quả ( thánh quả có cao, thấp khác nhau: A la hán, Duyên giác, Bồ Tát, Phật ) ,  chứng được thánh quả tức là sống  với những sanh mạng giác ngộ, an vui nên gọi là giải thoát .
    e. Tổng hợp :  Tóm lại, đạo lý luân hồi chứng minh được sinh mạng là không thật và chuyển biến, chuyển biến theo định luật nhân quả, giai đoạn sanh mạng trước và giai đoạn sanh mạng sau có liên quan mật thiết với nhau, tuỳ theo tính chất của nghiệp lực thiện hay ác mà sự chuyển biến của sanh mạng hướng theo hai chiều: luân hồi hay giác ngộ.
   Như thế, đạo lý luân hồi không những diễn đạt được sự biến chuyển của sanh mạng để được sống trong giác ngộ và giải thoát .
    B. NỘI DUNG CỦA ĐẠO LÝ LUÂN HỒI .
   Người hiểu đạo lý luân hồi là người nhận thức:
    1. Giá trị con người qua thời gian vì giòng sống là vô tận, chết không phải là hết, cũng không  là kết quả của cuộc sống  trong mấy mươi năm , mà cố gắng tu dưỡng cải tạo xây dựng cho cuộc sống lâu dài ra ngoài hai lãnh vực cực đoan : đắm theo vật dục và không tưởng huyển hoặc.
     2. Hiện tại là nền tảng tiến bộ nên phải xây dựng cho cuộc sống hiện tại, nhưng tương lai là kết quả nên không thể không lưu tâm .
     3. Nghiệp lực là điều kiện chính yếu chi phối cuộc sống, cuộc sống hiện tại có ảnh hưởng đến cuộc sống trong tương lai, nên phải triệt để cải đổi nghiệp lực tốt, tiến bộ trong hiện tại thì cuộc sống trong tương lai sẽ an lạc và hạnh phúc hơn.
     4. Biết mình có thể tiến hoá hay thối hoá tuỳ theo tâm trí và hành động của mình, niềm tự độ sẽ phát triển mạnh
     5. Tất  cả mọi người mọi vật đã là hoặc sẽ là con của chúng ta, nên không bóc lột tàn sát lẫn nhau mà đem lòng thương yêu giúp đỡ cứu khổ cho nhau, thì tâm từ sẽ được triển khai cùng tận.
       V.  KẾT LUẬN :  Đọc qua những giòng chữ trên, chắc quí vị cũng như chúng tôi, chúng ta đều có khái niệm như sau :
      - Trong sự biến chuyển vô cùng của sinh mạng, người Phật tử phủ nhận quan niệm chết là mất hẳn hay còn mãi trong sự cố định và biết rằng sau khi chết chúng ta sẽ còn những sanh mạng khác nữa. Vì thế nên  chúng ta cần phải cải thiện và xây đắp cuộc sống tương lai cho được thiện mỹ và vĩnh viễn trong giòng sống vô tận của chúng ta.
      Chân trời bao la rực rỡ muôn vẻ đẹp tươi chỉ hiện ra với những người có đôi mắt sáng thì cuộc đời vô tận chứa đầy '' nghĩa sống '' chỉ có với những người hiểu lý luân hồi .
Thích Thiện Châu
Liên Hoa số 11

SAU KHI CHẾT CÒN HAY MẤT VÀ ĐI ĐÂU ? Rating: 4.5 Diposkan Oleh: CHÙA TAM BẢO TAM KỲ

0 nhận xét:

Đăng nhận xét