GIÁ TRỊ CƠ BẢN CỦA PHẬT GIÁO
(Phỏng theo báo Hải Triều Âm)
1/
Phật giáo là một tôn giáo như thế nào?
Để giải rõ vấn đề ấy, chúng ta thấy: Phật
giáo không phải như những tôn giáo nói: ''Linh hồn là cái phụ thuộc của vật
không linh hồn''. Nghĩa là ý nói con người có ra bởi những bàn tay của những
bàn tay thần linh sắp đặc. Vậy Phật giáo là gì ? Phật giáo là một đạo giáo tiếp
dẫn con người đến mục đích tối cao của luân lý đạo đức. Và cũng là tôn giáo vận
dụng biết năng lực để hy vọng làm cho con người thấu thiệt nguồn gốc của thế
giới.
2/
Yếu điểm của Phật giáo.
Dựa vào phương pháp suy luận, Phật
giáo nhận thấy sự thật cuộc sống của nhân loại là khổ, rồi thúc đẩy mọi người
nỗ lực tận tâm trừ các khổ ấy.
Với ba tạng kinh điển Phật giáo chỉ
nhắm vào vấn đề ấy để giải quyết và cũng chỉ để giải quyết vấn đề ấy mà thôi.
Vì trọng tâm của Phật giáo là ở đó. Từ nơi trọng tâm ấy Phật giáo nêu lên
thuyết Bốn Đế và được bao quanh có tám Chánh đạo mười hai Nhân duyên và Giới,
Định, Tuệ. Tóm lại, yếu điểm của Phật giáo là làm sáng tỏ cái trọng tâm trừ khổ
cho nhân loại mà thôi.
Đức Phật là một người rất hoàn mỹ. Nếu
theo danh từ của thế gian để nói, vì đức Phật chủ trương thủ tiêu tất cả những
giáo điều không hợp lý và những sự mê tín, dị đoan... Đức Phật xác nhận rằng:
''Con người không phải vật nô lệ của tư tưởng mà con người là chủ nhân của tất
cả''. Phải chăng vì thế mà Ngài đã đề xướng chủ nghĩa tự do tư tưởng?
Là Phật tử chúng ta phải vận dụng tận
lực của trí óc để nhận chân đời Ngài một cáhc sâu sắc chứ không thể lờ mờ được.
Là Phật tử chúng ta nên chú trọng đến
sự sinh hoạt hiện tại, chứ không kéo lại quá khứ đã qua, cũng như không quá mơ
tưởng đến chuyện vị lai chưa tới.
Có như thế mới hy vọng lần bước lên
con đường cao đẹp.
Như trên đã nói, Đức Phật không khác
một nhà đại khoa học.Vậy Ngài quán sát thế gian như thế nào?
Đức Phật không những chỉ là một nhà
đại khoa học mà còn là một nhà tối cao của khoa tâm lý học thật nghiệm nữa. Vì
Ngài đã đem cả thế giới hữu hình và vô hình để phân tích. Kết quả Ngài tuyên
bố:'' Thế gian chỉ là một hiện tượng cấu hợp xê dịch, vì tất cả đề vô thường''.
Với chân lý ấy hiện đại mới hiểu rõ và mới chứng minh được.
Sự vô thường xê dịch nếu đứng trên thế
gian để xét thì xê dịch nhưng không gián đoạn ( thường); nếu đứng trên không
gian để xét thì tuy không gián đoạn nhưng vẫn xê dịch(đoạn). Chúng ta thử lấy
một ví dụ: Cái vòng lửa được tạo thành là bởi cây hương quay tròn không ngớt (
thường) nhưng vẫn sinh diệt luôn (
đoạn). Sự vô thường xê dịch ấy đã làm cho con người phải bất mãn. Bất mãn tức
là khổ. Nếu các bạn xác nhận được lý biến dịch là khổ tự nhiên thấy rõ tất cả
hiện tượng trên thế giới đều không có cá thể cố định, đó là vô ngã. Để rõ ràng
và đầy đủ lý ấy hơn, theo giáo điển thì có ba pháp ấn: vô thường, vô ngã và
khổ. Nhãn quan của các bạn sẽ được mở rộng và sẽ nhìn rõ sự thật ấy của sự vật.
Nếu các bạn chịu khó suy diễn ba chân lý ấy. Khi còn tại thế Đức Phật đã đem
truyền những chân lý ấy cho mọi người lúc bấy giờ. Và không để cho mọi người
sinh bi quan, chán nản, yếm thế khi thấy rõ mặt trái của sự vật, cho nên Ngài
đã thêm vào sau đó một phương pháp cải cách triệt để, mọi người xây dựng một
đời sống an hoà hợp lý. Phương pháp ấy là tám chánh đạo sẽ giải thích ở sau
đây.
3- Chân lý của sinh mạng.
Ai cũng biết con người là một trong
những vũ trụ, đương nhiên con người phải phụ thuộc vào chân lý cơ bản của vũ
trụ: vô thường, vô ngã và khổ. Khổ biểu hiện trên con người có: lo sầu, thất
vọng, tuyệt vọng ... khổ có chia ra thân khổ và tâm khổ, nhưng sự thật đều là
khổ của sinh mạng cả. Đến như cầu mà không được, được rồi lại mất hoặc đụng đầu
với kẻ địch ... tất cả con người đều toàn thấy khổ. Thế là chúng ta chưa kể đến
sự biến hoá mau chóng của thân mạng. Nhưng không luận biến thành tốt hay xấu là
trở về với tro bụi. Phật giáo đều gọi là xê dịch cả. Tóm lại, toàn khổ... ra
toàn khổ và khổ cho nên đức Phật đã trịnh trọng tuyên bố:'' Thật tướng của sinh
mạng là vô thường chuyển hoá''.
Chính vì những lý do trên mà Đức Phật
nói chân lý thứ nhất mệnh danh là Khổ đế. Nếu suy đến nguyên nhân thì thật khổ
không phải có bởi thế giới bên ngoài mà có bởi lòng dục vọng của con người làm
nguyên động lực, căn bản của nguyên nhân ấy là tham, sân, si... Đây là chơn lý
thứ hai mệnh danh là Tập đế.
Đạo Phật không phải là đạo chỉ thấu rõ
nguyên nhân để thất vọng buông xuôi..., ngược lại để xây dựng, cho nên đức Phật
lại đề ra chân lý trừ khổ thứ ba. Nhưng muốn hết khổ là phải tận trừ nguyên
nhân; dục vọng khổ nhân đã toàn diệt cố
nhiên khổ quả không còn. Lúc này mới là lúc an vui hoàn toàn được mệnh danh là
Diệt đế.
Các phương pháp trừ khổ nhân tiến đến
quả diệt đế, ấy là chân lý thứ tư, được mệnh danh là Đạo đế.
Trên đường về diệt đế này có nhiều
ngõ, nhưng chỉ có tám chánh đạo là con đường rất ngắn và dễ tiến nhất.
- Nhận định đúng sự thật các pháp gọi
là Chánh kiến
- Suy tưởng chân chánh gọi là Chánh tư
duy
- Lời nói hợp lẽ gọi là Chánh ngữ
- Hành vi chân chánh gọi là Chánh
nghiệp
- Sinh hoạt chân chánh gọi là Chánh
mạng
- Nỗ lực theo các điều hợp lẽ gọi là
Chánh cần ( chánh tinh tấn )
- Nghĩ nhớ theo Chánh pháp gọi là
Chánh niệm
-Và cuối cùng tâm lực được thống nhất
theo chánh lý gọi là Chánh định
Tám Chánh đạo có thể thu gọn trong ba
thứ : Giới- Định- Huệ. Chánh tri kiến, Chánh tư duy, Chánh niệm thuộc về Huệ.
Chánh định thuộc về Định. Chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng thuộc về Giới.
Riêng Chánh tinh tấn thuộc về Giới- Định- Huệ.
Người thực hành theo tám chánh đạo thì
tâm linh được trong sáng, trí huệ phát sinh. Một khi trí huệ phát sinh cố nhiên
có thể nhập vào Thiền quán, quán sát rõ sự thật các pháp và cuối cùng sẽ bước
lên con đường giải thoát- Niết Bàn.
Niết Bàn là nơi giải thoát tối cao,
giải thoát hết luân hồi khổ não. Đây là địa vị đã hoàn toàn vượt ra ngoài định
luật vô thường chuyển biến, tịnh hoá hết tham sân si vào lâu đài an vui bất
diệt.
4.
Yếu kiện để thành công
Khi đã bắt tay vào việc, chúng ta nhất
định cần phải giữ vững lập trường trong các thời gian và trong mọi trường hợp .
Bởi vì sự thật của thế gian là chuyển động không ngừng, nếu chúng ta không tiến
thì lui, có khác gì chèo thuyền vượt ngược dòng sông. Vả lại sự tiến thối bất
thường không những chỉ chi phối thế giới này
mà nó còn vây khắp cả mười phương thế giới trên đến Chư Thiên, dưới đến
súc sanh, ngạ quỷ địa ngục. Trừ chăng có các vị Thánh nhân, khi đã đạt đến cảnh
giới giải thoát rồi thì thẳng tiến chứ không giật lùi vì bất thối.
Các Thánh quả ấy có bốn : Quả thứ nhất
gọi là Tu đà hoàn hay nhập lưu, nghĩa là nhập vào NiếtBàn. Quả vị này đã đoạn
ba phiền não đầu trong mười phiền não( Tham, sân, si, mạn, nghi, thân kiến,
biên kiến, kiến thủ, giới cấm thủ và tà kiến )
Quả vị thứ hai là Tu Đà Hàm, quả vị
này trừ thêm hai phiền não kế tiếp của ba phiền não vị thứ nhất.
Quả vị thứ ba là A na hàm, quả vị này
đã hàng phục tất cả các phiền não. Nếu đem so sánh với các đấng anh hùng chinh
phục nhân tâm toàn thể thế giới, thì giá trị không những ngang hàng mà lại cao hơn nữa.
Điểm đã trình bày trên đây là yếu kiện
cơ bản trong việc giải quyết những vấn đề nhân sinh đoạ lạc của Phật giáo. Nếu
dựa theo đây để tiến tới, chúng ta nhất định sẽ thành công giải thoát.
5.
Lời cảnh tỉnh cần yếu.
Nhà khoa học tiến bộ bài xích nguyên
lý nghiệp lực , nhưng họ không biết rằng con người có thể ở vào địa vị giàu
sang, nằm trên cung vàng bệ ngọc có thế lực đại phú hào tất cả những thứ đó đều
phản ánh trung thành của nghiệp nhân quá khứ . Hiện tại một khi nghiệp báo ấy
hết họ lại bị một thuần nghiệp khác cũng ở quá khứ để bước vào một thế đắng cay nghèo đói.
Bởi thế, đời sống con người không có
một thần linh nào sắp đặt cuộc sống của ta cả, mà chỉ do nghiệp lực của cá nhân
ấy kiến tạo. Hành vi quá khứ kiến trúc đời sống hiện tại, nghiệp nhân hiện tại
sẽ chi phối cuộc sống tương lai. Lý thuyết này đã hun đúc cho một số tín đồ
Phật giáo có phẩm hạnh cao khiết và cũng nhờ định lý ấy soi sáng mà người Phật
tử suốt đời họ chỉ thực hiện những điều hợp lẽ để hy vọng khỏi đoạ lạc mà thôi.
6.
Phật giáo là tôn giáo vĩ đại
Đức Phật đã từng dạy : Người Phật tử
trước khi bắt tay vào việc phải có một nhận thức rõ ràng, về một con đường tiến
thủ đạo đức của chính mình lựa chọn. Có như thế mới có hy vọng đạt được kết quả
giải thoát.
Câu nói ấy rất hợp với giáo nghĩa thâm
huyền, thích hợp với lý luận thực tế. Vậy lời dạy ấy có thể áp dụng trong tất
cả thời đại và phương sở.
Thêm nữa, câu nói về chơn lý sinh hoạt
ấy có thể thích hợp với sinh hoạt hằng
ngày của nhân loại .Vậy chúng ta phải đựa vào đó để vận dụng lý trí lấy đức
tính đại từ, đại bi làm nòng cốt, để thực hiện tất cả các công tác xã hội, phục
vụ quần sanh.
Nhưng đặc điểm tối cao của lời dạy ấy
là ở chỗ thanh trừng tận gốc vô minh, ngu si, ngã chấp. Do đấy mà Phật giáo là
ngọn đuốc triết lý cao sáng của nhân loại và như thế thì Phật giáo không cần
phải tranh dành tín đồ mà vẫn thành tôn
giáo tối cao vĩ đại của thế giới hiện tại. Vì thiếu nó đời người sẽ tối tăm và
đau khổ .
7.
Nhu cầu của thế giới
- Gọn lại những phương pháp của Phật
giáo
Không làm những việc ác
Thực hiện mọi hạnh lành
Tự thanh tịnh ý chí
Để tịnh hoà thân tâm
Đó chính là nhu cầu của thếgiới hiện
tại. Vậy ai là kẻ chuộng hoà bình và công lý hãy gióng mạnh tiếng hồng chung
Phật giáo.
Minh
Liên
0 nhận xét:
Đăng nhận xét