BỐN THỨ TÂM CỦA PHÁP MÔN NIỆM PHẬT
Dùng tín tâm đối với bản thệ nguyện lực của Đức Phật A Di Đà.
Dùng chí thành tâm miệng niệm tâm nhớ.
Dùng thâm tâm niệm Phật niệm niệm buộc tâm.
Lại dùng hồi hướng phát nguyện tâm, đem công đức niệm Phật hồi hướng cho
tất cả chúng sanh, đều lìa khổ được vui, đều tin Phật học pháp kính Tăng, đều
niệm Phật thành Phật.
1/- Tín tâm :
Ở trong Phật pháp cho dù tu pháp môn nào trước tiên phải có tín tâm, như trong
kinh đã nói : Tín thì có thể vào. Người học Phật lấy tín tâm làm điều kiện
trọng yếu thứ nhất. Đối tượng của tín tâm là tin pháp mà Đức Phật Thích Ca Mâu
Ni đã nói trong kinh, đều là chân ngữ, thật ngữ, câu câu đều hữu dụng, chữ chữ
quý như vàng. Đứng ở lập trường phàm phu dù không đủ sức làm được đều phải nên
tin. Vì đó gọi là Thánh ngôn lượng, đối với lời nói của bậc đại thánh Phật Đà,
lời lời đều chân thật không được hoài nghi, không nên cân nhắc. Đặc biệc là
phương pháp tu hành rất nhiều, có vô lượng pháp môn, mỗi một pháp môn đều tuỳ
căn tánh bất đồng. Người không cùng hoàn cảnh thời đại cũng có căn tánh tương
đồng và căn tánh bất đồng, cần phải đem pháp môn vô lượng để tiếp chúng sanh vô
biên, cho nên lúc chúng ta nhận định chính xác và chấp nhận theo một vị thiện
tri thức nào tu hành, không nên hoài nghi .
Chúng ta tin gì ? Tin trong
kinh điển nói có thế giới Cực lạc Phương Tây, tin bản thệ nguyện lực của Phật A
Di Đà tiếp dẫn chúng sanh hữu duyên đồng đăng chín phẩm sen ở cõi tịnh độ
Phương Tây. Trước hết phải có tín tâm đối với bản nguyện của Phật A Di Đà, có
tâm nguyện cầu sanh tịnh độ, thì mới có thể quyết định được Đức Phật Di Đà tiếp
dẫn vãng sanh về thế giới Cực lạc Phương Tây.
Phương pháp tu hành trong ba
kinh tịnh độ đã giới thiệu cũng có khác biệt. Kinh Quán Vô Lượng Thọ chủ trương
tu 16 phép quán tưởng, tu trì theo phép quán tưởng tam muội và niệm Phật tam
muội để đạt thành mục đích vãng sanh ba bậc chín phẩm.
Kinh Vô Lượng Thọ chủ trương
tín ngưỡng 48 lời nguyện của Phật A Di Đà, y nguyện tu hành, dù cho phàm phu
còn hoặc nghiệp cũng nhất định được vãng sanh.
Kinh A Di Đà chủ trương Tín,
Hạnh, Nguyện chấp trì danh hiệu Phật A Di Đà, cầu nguyện vãng sanh.
Kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật
cũng yêu cầu phải trì giới, tu phước, phát tâm Bồ đề.
Kinh A Di Đà, thì yêu cầu phải trì danh đến chổ
nhất tâm bất loạn.
Kinh Vô Lượng Thọ chủ trương
nếu chỉ có thể tin vui không sanh tâm nghi, từ 10 niệm đến một niệm, người cầu
nguyện vãng sanh cũng được như nguyện.
Tin vào bản nguyện tha lực
của Phật A Di Đà, tức là nương nhờ sức Phật mà được cứu, tư tưởng này cũng
giống như niềm tin thượng đế của Cơ Đốc giáo. Nhưng trên thực tế thì chẳng
đồng. Bởi vì tín đồ Cơ đốc Giáo tin Chúa, tự mình không thể thành chúa được,
còn tín đồ Phật giáo niệm Phật kết quả sẽ thành Phật.
Trong ba kinh. Kinh Quán Vô Lượng Thọ thì so ra phiền phức khó tu hơn,
chia làm ba điểm để tiến tu.
1/ Tu ba phước, bao gồm,
luân lý thế gian, quy giới, thập thiện, phát tâm Bồ đề, tụng kinh đại thừa.
2/Tu 16 phép quán tưởng.
3/ Tu pháp chín phẩm vãng
sanh.
Ở Trung Quốc và Nhật Bản ít người tu pháp này, chỉ có kinh Vô Lượng Thọ
và kinh A Di Đà được chú trọng. Hiện nay kinh A Di Đà được nhiều người chú
trọng. Cứu cánh của pháp môn Tịnh độ ở chổ chữ TÍN, có tin bản nguyện của Đức
Phật A Di Đà, mới có thể niệm Phật vãng sanh.
Pháp môn tịnh độ, sở dĩ được nhiều người sùng tín, là ở chổ bản nguyện
tha lực của Đức Phật A Di Đà ban cho người ta tín tâm tuyệt đối an ổn, không
phải suy nghĩ công đức của mình đã làm nhiều hay ít, không cần quan tâm đến
công đức lớn hay nhỏ mà mình tu chứng. Chỉ cần tin tưởng bản nguyện của Phật A
Di Đà, lập thệ vãng sanh là được, sau đó có thể an tâm gánh vác những việc tự
lợi lợi tha. Cho dù trì giới không nghiêm, phiền não chưa đoạn hết, cũng được
Đức Phật A Di Đà y theo bản thệ nguyện lực của Ngài đến tiếp dẫn. Hành giả tịnh
độ có thể an tâm tu tập.
Cho nên cần phải tin bản thệ
nguyện lực của Đức Phật A Di Đà, tin người niệm Phật lúc lâm chung quyết định
thấy được Phật A Di Đà từ bi tiếp dẫn. Cho nên tu niệm có thể được nhất tâm
niệm Phật rất tốt, nên cần phải mỗi niệm dùng tâm niệm. Nếu niệm mà tâm cứ tán
loạn, không được nhất tâm, không đạt hiệu quả cũng không nên lo, như trong kinh
Quán Vô Lượng Thọ Phật đã nói, dù là người phạm tội ngũ nghịch, thập ác nếu đến
lúc lâm chung gặp được bậc tri thức dạy cho niệm Phật A Di Đà, niệm được 10
niệm thì thấp nhất cũng được vãng sanh hạ phẩm hạ sanh nơi Cực lạc.
2- Chí thành tâm: Là Tâm khẩn thiết, tâm tha thiết, không phải
lòng này ý nọ, tính khí bất đồng, làm lấy lệ cho xong. Lúc niệm Phật phải miệng
niệm tâm nhớ, như Đức Phật A Di Đà đang ở trước mặt mình, tiếng từ miệng xuất,
lại từ tai vào, tiếng tiếng in vào ruộng tâm, câu câu đều từ tâm xuất. Niệm
niệm đều là danh hiệu Phật, chổ chổ đều là cõi Phật. Nếu như không có cách gì
chuyên tâm niệm Phật thì nên quán tưởng : Bạn là khách trên chiếc thuyền, gặp
phải nạn biển thuyền bị bể, trồi hụp
trong cơn sóng dữ, rất may lúc ấy bạn với được tấm ván thuyền bể, tất phải nắm
chắc ôm chặt, không được sơ suất, ngược lại sẽ bị sóng to nhận chìm. Chỉ cần sơ
ý lỏng tay một chút là tấm ván vuột ra khỏi tay trôi đi biền biệt, khi đó muốn
nắm giữ cũng không còn kịp nữa. Lúc ấy thân bạn ở trong biển cả mênh mông, chỉ
còn có con đường chết mà thôi. Lúc chúng ta niệm Phật một câu danh hiệu Phật,
cũng giống như người ở trong biển cả mênh mông sắp bị chết chìm ôm được tấm ván
thuyền kia, ôm giữ danh hiệu Phật để niệm cũng vậy, lúc niệm phải đem danh hiệu
Phật làm chiếc ván nổi cứu mạng trong biển, không thể đem tâm lơ là mà niệm
Phật. Đem toàn bộ ba nghiệp thân khẩu ý chăm chú vào từng câu niệm Phật.
3/
Thâm Tâm : Phẩm
Phật quốc trong Kinh Duy Ma có nói : “ Thâm tâm tức là tịnh độ ”. Còn trong
phẩm Bồ Tát của kinh này thì lại nói “ Thâm tâm là đạo tràng hay tăng trưởng
công đức”. Tín tâm kiên cố không lay chuyển là do chổ kinh nghiệm tu chứng và
sự ứng nghiệm niệm Phật mà có. Khởi tâm niệm niệm , buộc tâm niệm niệm Phật,
khi thành thói quen rồi thì tự nhiên lúc nào cũng niệm Phật, đó chính là thâm
tâm niệm Phật. Nếu lúc niệm lúc không, ngày có ngày không, một ngày nóng 10
ngày lạnh thì đó là thiển tâm niệm Phật. Nếu vừa niệm Phật lại vừa khởi vọng
tưởng, vừa niệm Phật lại vừa hôn trầm ngủ gục thì đó là thiển tâm niệm Phật.
Ngài Vĩnh Minh ở vào đời
nhà Tống cuối đời nhà Đường, đề xướng thiền tịnh song tu, nhưng lại lấy tịnh độ
làm chổ quy thú, mỗi ngày Ngài trì niệm danh hiệu Phật A Di Đà 100.000 câu. Đây
là tấm gương của sự thâm tâm niệm Phật, phải niệm liên tục, cả lúc ăn cơm, làm
công việc, đi vệ sinh . . .không lúc nào lìa câu niệm Phật, mới có thể một ngày
niệm đủ 100.000 câu. Nếu có thể thâm tâm niệm Phật như vậy thì phiền não vọng
tưởng không có cách gì sinh khởi được.
Đủ chứng tỏ thâm tâm tức
là tâm vi tế miên mật, là định tâm thật sự, là huệ tâm sáng suốt. Nếu có thể
dùng thâm tâm niệm Phật, thì chính là nhất tâm niệm Phật, như vậy không chỉ
thông đạt sự nhất tâm, cũng có thể tương ưng với lý nhất tâm. Không chỉ nhất
định được vãng sanh tịnh độ phương Tây, còn có thể tự mình thể nghiệm được tịnh
độ tự tánh và tịnh độ tự tâm. Vì thế Ngài Vĩnh Minh chủ trương thiền tịnh song
tu, khác đường nhưng chung mục đích đến. Nếu có thể thâm tâm niệm Phật cho đắc
pháp đắc lực thì đã thông cả cửa ngộ của người tu thiền rồi.
4/ Hồi hướng tâm : Ý cạn của sự hồi hướng là đem mục đích niệm Phật mà
cầu vãng sanh tịnh độ phương Tây, là đem tất cả công đức tu hành hồi hướng vãng
sanh thế giới Cực lạc. Ý sâu của hồi hướng là phát tâm Bồ đề rộng độ chúng
sanh, nghĩa là nguyện đem công đức niệm Phật của mình hồi hướng cho tất cả
chúng sinh, đều lìa khổ được vui, đều tin Phật học pháp, kính Tăng, đều niệm
Phật thành Phật. Cùng đem công đức niệm Phật hồi hướng cải biến chúng sinh có
tâm cang cường, khiến họ khởi tâm tín ngưỡng Phật giáo, tu học Phật pháp, sớm
được vãng sanh thế giới Cực lạc, sớm thành tựu vô thượng Bồ đề. Đủ biết mục
đích niệm Phật hồi hướng có hai : Cầu nguyện mình được vãng sanh, cầu phước cho
tất cả chúng sanh đều được vãng sanh.
Không nên chỉ vì tự mình
cầu vãng sanh tịnh độ mà niệm Phật, còn phải vì tổ tiên cha mẹ những người quá
cố được vãng sanh Tây phương mà niệm Phật, cũng nguyện cho tất cả chúng sanh
nhờ sự niệm Phật của chúng ta mà được vãng sanh, cho nên ý của hồi hướng phát
nguyện tâm và phát đại Bồ đề tâm tương ưng tương thông.
Thông thường người ta phát tâm niệm Phật là chỉ mong
cầu tự thân được tiêu tai giải nạn gặp nhiều may mắn. Khi chúng ta biết sự lợi
ích và tầm quan trọng của pháp môn niệm Phật rồi, thì ngoài việc cầu cho tự
thân phước tăng, tiêu tai khỏi nạn, chúng ta niệm Phật lễ Phật, làm các công
đức, nên vì phát tâm Bồ đề rộng độ chúng sanh. Xưa nay oán thân trái chủ của
chúng ta, nhờ đem công đức tu hành này hồi hướng cho họ, họ sẽ thay tâm đổi
tánh trở thành kẻ hiền lương đạo đức, trở lại thành kẻ hộ trì, tăng thượng
duyên cho chúng ta, giúp chúng ta tiêu tai khỏi nạn. Thế nhưng chẳng thể nói
nhờ bạn, niệm một vài câu danh hiệu Phật mà có thể tiêu tai được, mà là do oán
thân trái chủ thấy bạn phát tâm Bồ đề đại nguyện, tương lai bạn sẽ thành Bồ
Tát, Phật, thì oán thân bình đẳng, cho nên không quấy rầy bạn nữa, họ cũng nhờ
sự tu hành niệm Phật của bạn mà được lợi ích, đủ thấy niệm Phật rất tốt. Như
vậy điều tốt từ đâu đến ? Là từ trong phát nguyện hồi hướng mà đến, là từ trong
sự phát Bồ đề nguyện rộng kết thiện duyên mà đến .
0 nhận xét:
Đăng nhận xét