BỐN LOẠI TỊNH ĐỘ TUỲ BẠN THÍCH
Người có trí tuệ biết
rằng phàm sự việc gì đều có nguyên nhân của nó, không nên oán trời trách người, vì có oán trách cũng không bổ
ích gì, tuy sinh nơi ác thế ngũ trược của thế giới Ta bà, nhưng vẫn có thể
hưởng được sự tự tại vô ngại của Tịnh độ nước Phật.
Tổng hợp trong các kinh
luận nói về các cõi Tịnh độ, có thể chia ra làm bốn loại: Tịnh độ nhân gian,
Tịnh độ thiên quốc, Tịnh độ Phật quốc và Tịnh độ tự tâm .
1/ Tịnh độ nhơn gian : Ý của Tịnh
độ nhơn gian là chỉ cho hoàn cảnh sinh hoạt hiện thực của chúng ta, chính là
Tịnh độ. Nơi chúng ta đang ở trong kinh Phật gọi là thế giới Ta bà đầy dẫy khổ
nạn. Kinh A Di Đà hình dung là Kiếp trược, Kiến trược, phiền não trược, chúng
sanh trược, mạng trược là “ ngũ trược ác thế ” có nghĩa là không sạch. Thế nhưng lúc ta nghe pháp Phật, tu hành giới
định huệ, thậm chí chỉ cần có một người tu hành người ấy liền thấy tịnh độ, nếu
hai người tu hành, hai người ấy có thể thấy tịnh độ, nhiều người tu hành thì
nhiều người đều có thể thấy được tịnh độ nhân gian. Nếu do tu hành mà thể
nghiệm được sự thanh tịnh của thân tâm thì tịnh độ hiển hiện trước mặt bạn.
Hay trì tịnh giới thì
không tạo ác nghiệp, ba nghiệp thân khẩu ý dần dần thanh tịnh tuy ở tại nhân
gian nhưng trong tâm không còn lo sợ cảm thọ khổ báo, đã không lo sợ, không có
ưu sầu, thì không có nghỉ đến việc trốn thoát, cõi đời này há chẳng phải là
Tịnh độ ư ?
Hay tu thiền định, nội
tâm tự nhiên bình an. Bình an là không bị hoàn cảnh quấy rối mà khởi phiền não,
không vì sự động loạn của hoàn cảnh mà nội tâm nổi sóng gió không yên. Tâm định
như nước lặng yên, như gương trong sáng, như khoảng trời xanh biết vạn dặm
không mây, thì thân thể tuy trụ cõi đời xấu ác năm trược cũng không khiến chúng
ta cảm thấy phiền não bất an, có thể xem thế giới uế trược nầy là Tịnh độ nhơn
gian.
Nếu hay tu trí tuệ thì
không khởi phiền não. Trí tuệ vô ngã có thể từ chổ nghe Phật pháp, thể nghiệm
Phật lý, phản quan tự ngã, nhìn thấu nhân sinh mà có được. Cũng có thể từ tu
hành bố thí, rộng kết thiện duyên, thường biết hổ thẹn, và từ trong chổ tu
thiền định mà có được. Người có trí tuệ thì không dùng tâm phiền não để xử lý
việc của chính mình, lại khéo dùng tâm bình thường để đối diện với hoàn cảnh
trước mắt. Đã chấp nhận xem nhân gian là hoàn cảnh tu hành đạo Bồ tát, thì việc
thiện ác, được mất phải trái, lợi hại xem như những hiện tượng do nhân duyên
giả sanh giả diệt, không vì vui quá mà phát cuồng, cũng không vì quá đau khổ mà
muốn chết.
Người có trí tuệ biết rõ
sự phát sinh của tất cả hiện tượng trên thế gian này, đều có nguyên nhân của
nó, nếu có thể nổ lực đem sự việc trước bổ cứu cho sự việc sau thêm hoàn thiện
thì rất tốt, oán trời trách người thì vô ích, việc gì phải si mê phiền não cho
mệt.
Cho nên người có trí tuệ
tuy sống ở đời ác năm trược của cõi Ta bà này, nhưng vẫn có thể hưởng thọ được
sự tự tại vô ngại của Tịnh độ Phật quốc.
2- Tịnh độ thiên quốc : Tu hành thập thiện thì sinh lên cõi trời (thiên quốc
). Cõi trời vẫn còn nằm trong phạm vi tam giới, vẫn còn hữu lậu hữu hạn. Do nhờ
tích phước mà hưởng thọ dục lạc ở cõi trời Dục giới, hoặc nhờ tu thiền định mà
hưởng thọ định lạc ở các cõi trời thiền. Song lúc hưởng thọ hết phước báo ở cõi
trời Dục, lúc định lực thối thất ở cõi trời thiền lại phải từ cõi trời rớt
xuống nhân gian, hoặc có thể đoạ nơi tam đồ ác đạo. Cho nên dù cõi trời đáng ưa
nhưng một ngày nào đó lại trở thành khói mây qua mắt. Chẳng qua sinh lên cõi
trời hưởng thọ phước trời một thời gian nào thôi, so với các hiện tượng tai
nạn, những khổ ách nơi nhân gian thì cõi trời đã là một mãng Tịnh độ rồi. Trong
cõi trời dục giới không có loạn lạc, không có tội phạm, không có tai biến,
không có bệnh tật, muốn ăn có ăn, muốn mặc có mặc, bay đi tự tại, đến đi tuỳ ý,
thân nhẹ như không, sở cầu như ý, kỷ nhạc tuỳ thân, tuyệt không tối tăm. Cho
nên có nhiều tôn giáo khuyến khích tín đồ cầu nguyện sinh lên thiên quốc. Chỉ
có điều họ không biết khi được sinh lên trời rồi một ngày nào đó cũng hưởng hết
phước, lúc đó có năm tướng suy hiện ta trước mắt, cho dù có cao quý như vua
trời Đao Lợi cũng phải chung một số phận. Kinh Niết bàn nói, Thích Đề Hoàn
Nhân, mạng sống sắp hết có 5 tướng suy hiện ra 1/ y phục dơ bẩn, 2/ Hoa trên
đầu khô héo, 3/Thân thể hôi hám, 4/ Nách ra mồ hôi, 5/ Không ưa chổ ngồi. Cho
nên đối với người thông thường cõi trời là Tịnh độ, còn đối với tín đồ Phật
giáo thì cho rằng thà sinh tại nhân gian tu học Phật pháp, còn hơn là sanh về
thiên quốc để hưởng phước trời.
Kinh Phật nói. Cõi trời
có hai loại, một loại là chổ ở của hàng phàm phu hửu lậu, hai là chổ ở của hàng
Bồ Tát bổ xứ. Như Đức Phật Thích Ca trước khi thành Phật thân sau cùng của Bồ
Tát ở trên cõi trời Đâu Suất, đồng thời Ngài cũng giới thiệu đức Bồ Tát Di Lặc
sẽ đến nhân gian thành Phật, hiện nay cũng đang ở cõi trời Đâu Suất tầng thứ tư
của cõi trời Dục giới. Cõi trời này chia thành hai viện nội ngoại, ngoại viện
là nơi ở của hàng phàm phu dục lạc, nội viện là nơi giáo hoá của Đức Di Lặc,
thật là tịnh độ thiên quốc thanh tịnh. Ở đây khác với phàm phu cõi trời Dục
giới là thấy được pháp tướng của Đức Di Lặc, thân nghe Ngài thuyết pháp, không
chỉ hưởng thọ phước trời mà còn tu hành Phật pháp. Cho nên nếu đại chúng muốn
sinh về cõi trời thì nên chọn nội viện Đâu Suất của Bồ Tát Di Lặc thì tốt hơn.
Đến lúc Ngài Di Lặc hạ sanh nhân gian thành Phật, chúng sanh ở nội viện Đâu
Suất đều theo Đức Di Lặc giáng sanh nhân gian, đều trở thành đệ tử của Phật,
cùng chung tu hành tịnh hoá nhân gian. Long hoa tam hội mọi người ở trong hội
đều được giải thoát. Trong ba hội độ thoát tất cả chúng sanh hữu duyên, cho nên
Phật giáo sử Trung Hoa từ các vị pháp sư như Đạo An, Huyền Trang, Đại Sư Khuy
Cơ cho đến cận đại như Đại sư Thái Hư, Từ Hàng các ngài đều phát nguyện vãng
sanh tịnh độ thiên quốc nội viện Đâu Suất.
3- Tịnh độ Phật quốc : Phật quốc
tại đâu ? là chỉ cho quốc độ do phước đức
trí tuệ và bản thệ nguyện lực của chư Phật tạo thành. Tịnh độ này có hai
tác dụng: Một là thị hiện công đức quả báo của Phật, hai là tiếp dẫn hoá độ tất
cả chúng sanh hữu duyên, tu học Phật pháp đồng thành Phật đạo, cho nên gọi là
Tịnh độ Phật quốc.
Đức Thích Ca tại thế giới uế độ này thành Phật, nhưng trong kinh Đại
Niết Bàn nói: “ Chớ nói chư Phật xuất hiện nơi thế giới bất tịnh ”. Kinh Pháp
Hoa nói: “ Núi Linh Thứu ở Ấn Độ nằm trong cõi Tịnh độ ”. Đủ chứng tỏ rằng, hể
chổ nào có Phật nơi đó có Tịnh độ Phật quốc. Song tổng hợp trong các kinh luận
thì Tịnh độ Phật quốc chia làm ba, chổ ở
Pháp thân Phật tự tánh, chổ ở Báo thân tự tha thọ dụng, chổ ở Ứng hóa thân
Phật.
Lại như các ngài Pháp Thường,
Trí Nghiễm, Đạo Tuyên, có thuyết bốn loại tịnh độ . Ngài Thiên Thai Trí Khải
thì chủ trương : 1/ Phàm thánh đồng cư độ, như thế giới Cực lạc phương Tây, 2/
Phương tiện hữu dư độ, là chổ ở của Bồ Tát địa tiền và hàng thánh nhân nhị
thừa, 3/ Thật báo vô chướng ngại độ, là chổ ở của pháp thân Bồ Tát từ sơ địa
trở lên, 4/ Thường Tịch quang độ là chổ ở
qua lại của chư Phật Như Lai. Bốn độ phối hợp với ba thân là lấy Ứng hoá
thân Phật trụ ở Đồng cư độ và phương tiện hữu dư độ. Báo thân Phật trụ ở Thật
báo độ, Pháp thân Phật vĩnh trụ ở Tịch quang độ.
Từ kinh A Di Đà có thể thấy
được Tịnh độ chư Phật sáu phương, cho đến quốc độ Cực Lạc của Phật A Di Đà.
Trên thực tế có Tịnh độ chư Phật mười phương vô lượng vô số, và chúng ta có
nhân duyên rất lớn với cõi Tịnh độ của Phật A Di Đà ở thế giới Cực Lạc ở phương
Tây. Nương bản nguyện của Phật, phàm phu có thể vãng sanh Phật quốc. Các Phật tử chúng ta, thường lúc sống hay cầu
xin Đức Phật Dược Sư gia hộ cho được tiêu tai giải nạn, khỏi tật bịnh trường
thọ bất tử, nhưng lại không nghỉ cầu về cõi Tịnh độ Lưu Ly Quang ở phương Đông.
Lúc sắp chết chỉ mong cầu vãng sanh về thế giới Cực lạc phương Tây của Phật A
Di Đà.
Phật và Tịnh độ là sư phạm, là
thế giới lý tưởng của chúng ta, nhưng đồng thời chẳng phải chổ hướng ngoại tìm
cầu mà là thể hiện đức hạnh ở bên trong. Nếu chúng ta giác ngộ được pháp tánh thanh
tịnh viên mãn rốt ráo, đó là Lưu Ly Quang Phật, cho nên tu pháp môn Dược Sư
cũng có thể tương thông với Tịnh độ phương Tây của Phật A Di Đà. Kẻ phàm phu
công cạn chướng sâu, tu Tịnh độ phương Đông và Tịnh độ phương Tây đều được vãng
sanh Phật quốc. Nếu là chúng sanh công sâu chướng ít, dù chuyên tu pháp môn
tịnh độ nào cũng sẽ tự thân thấy được A Di Đà Như Lai tự tánh, Phật Lưu Ly
Quang pháp thân.
Song mục đích tịnh độ Phật
Dược Sư, ở chổ khích lệ nhân gian, tịnh hoá nhân gian, đó là sự thật, vậy mà
trong kinh Dược Sư cũng vẫn tán thán Tịnh độ phương Tây. Vì Tịnh độ của Phật A
Di Đà là ba căn thượng trung hạ đều độ tận. Bất luận thượng trí hạ ngu chỉ cần
tin vào nguyện lực của Phật A Di Đà, nguyện sanh về Tịnh độ phương Tây liền
được Đức Phật từ bi nhiếp thọ, tiếp dẫn vãng sanh. Do đó, trong các kinh điển
Đức Phật Thích Ca đều hết sức tán thán nguyện lực rộng sâu của Phật A Di Đà.
Nhất là khiến cho rất nhiều chúng sanh nghị lực yếu kém, không đủ tự tin đều có
thể nhờ nguyện lực này mà được bảo đảm vãng sanh Phật quốc. Nhờ nguyện lực này
mà lòng người được an định, tín tâm được tăng trưởng, được công đức lớn. Cho dù
trình độ tu hành của mình như thế nào đi nữa, chỉ cần đầy đủ đức tin vào bản
nguyện lực của Phật A Di Đà, cho đến niệm Phật mười tiếng thì có thể vãng sanh
cõi nước Cực lạc. Đủ chứng tỏ pháp môn Tịnh độ của Phật A Di Đà có chổ thù
thắng độc đáo như thế .
4- Tịnh độ tự tâm : Tịnh độ tự tâm tức là nói ở trong tâm của mỗi người,
dù phàm hay thánh vốn đầy đủ Phật tính, cũng tức từ xưa đến nay chưa từng xa
lìa Tịnh độ Phật quốc. Tâm chúng sanh và tâm Phật tương đồng, thế giới chúng
sanh và cõi Phật không khác. Chẳng qua tâm chúng sanh bị phiền não ngăn che,
không cách gì thấy được bản tâm thanh tịnh bất động, cũng không cách gì thể hội
được sinh hoạt ở tịnh độ Phật quốc. Nếu có thể soi thấu phiền não lưới trần,
xét rõ chổ sâu xa của tâm thì sẽ phát hiện tâm Phật tức là tâm mình, thế giới
này với cõi Phật giống nhau. Bởi vì nếu tâm thanh tịnh nhìn thế giới này cũng
thanh tịnh, nếu tâm không thanh tịnh thì hoàn cảnh sinh hoạt sẽ là khổ hải vô
biên.
Kinh Hoa Nghiêm, kinh Duy
Ma, kinh Phạm Võng đều nói : “ Tuỳ tâm mình tịnh thì quốc độ tịnh ” đều là chỉ
cho Tịnh độ tự tâm. Làm thế nào để tự
tịnh tâm của mình ? . Người thông thường dễ gì thể hội được, đương nhiên cũng
không làm được. Nếu người tu pháp môn niệm Phật, ngay lúc niệm Phật đem tất cả
tạp niệm trong tâm buông bỏ hết, chỉ chuyên tâm niệm Phật, tâm này với Phật
tương đồng, trong tâm lúc ấy không có tạp niệm như lo sợ, hoài nghi, tham, sân,
kiêu ngạo v.v . Nếu có thể tiến thêm một bước trong khoảng nhất thời toàn bộ
tạp niệm lìa bạn mà đi, lúc ấy cùng với Tịnh độ của Phật tương ưng. Một niệm tương
ưng một niệm thấy Tịnh độ, hai niệm tương ưng hai niệm là Tịnh độ, niệm niệm
tương ưng niệm niệm trụ nơi Tịnh độ.
Tuy ở giai đoạn phàm phu
không thể niệm niệm tương ưng với Phật, không thể niệm niệm trụ nơi Tịnh độ.
Nhưng nếu bạn niệm niệm Phật, niệm niệm đều đặt nền tảng ở tín tâm, thâm tâm,
chí thành tâm, hồi hướng phát nguyện tâm thì sẽ dần nhập cảnh diệu. Thiên hạ
vốn vô sự, vọng tưởng từ đâu khởi. Niệm niệm đều ghi nhớ danh hiệu Phật, giữ
cho thường hằng thời gian không lâu có thể tu thành niệm Phật tam muội, Tịnh độ
tự tâm hiện bày rõ ràng. Người công phu cạn có thể cảm ứng được Tịnh độ Tây
phương, người công phu sâu thì thấy được phương tiện độ và thật báo độ, cho đến
Thường quang tịnh độ, chỉ có Phật với Phật mới qua lại thấy được.
Những thanh âm sắc tướng
bên ngoài nếu bạn chuyển chúng thành tiếng niệm Phật, niệm pháp, niệm Tăng,
cũng giống như nghe âm thanh của thế giới Cực lạc phương Tây. Quán tưởng như
thế phiền não sẽ vắng lặng âm thanh không còn nữa, lúc ấy không bị hoàn cảnh
làm cho dao động trong tâm mình chính là tịnh độ. Tịnh độ tự tâm không ở ngoài
tâm, song hoàn cảnh bên ngoài tuỳ theo tâm bạn mà chuyển. Đây là điều rất thiết
thực, cứ làm rồi sẽ thấy. Niệm Phật liền
thấy Phật, tâm tịnh quốc độ tịnh.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét