TRÍCH LỜI KHAI THỊ CỦA ẤN QUANG ĐẠI SƯ
PHÁP MÔN
TỊNH ĐỘ
Trong Phật pháp, có nhiều pháp môn,
không luận Đại thừa hay Tiểu thừa, tất cả pháp môn đều phải dùng Giới - Định
-
Huệ để đoạn trừ tham, sân, si cho hết mới có thể thoát sanh liễu tử. Điều này
khó vô cùng đối với hàng phàm phu chúng ta, đầy dẫy phiền trược làm sao thực
hiện được. Nếu dùng lòng tin chân thật, nguyện thiết tha, cầu sanh Tây phương, thì bất luận công phu cạn
hay sâu, công đức lớn hay nhỏ đều có thể cậy nhờ vào từ lực của Phật mà vãng
sanh Tây phương.
Giống như chiếc tàu to vượt biển qua sông, chỉ cần người chịu
lên tàu thì liền có thể đến được bờ bên kia, ấy là nhờ sức của tàu chứ chẳng phải
là bản lãnh của chính mình. Tín - Nguyện - Niệm Phật cầu sanh Tây phương cũng giống như thế, hoàn
toàn là nhờ Phật lực, chứ không phải do đạo lực của chính mình. Hễ đã sanh về
Tây phương thì không còn sanh tử, phiền não không sanh, an nhiên tự tại.
Tâm tánh chúng sanh vốn bằng với chư Phật, do vì mê nên chịu
luân hồi không ngơi -
Như Lai từ mẫn, tuỳ cơ thuyết pháp, khiến cho khắp hàm thức đều có đường để về
nhà. Hiềm vì căn tánh muôn loài chẳng giống nhau, nếu không phải người lỗi lạc
sẽ khó thoát nạn. Nhân đấy, Phật bèn đặc biệt mở ra một pháp môn Tịnh độ để nhiếp
khắp cả thượng trung hạ căn. Kẻ gây tội ngũ nghịch, thập ác khi mạng chung
tướng địa ngục hiện ra, nếu dốc lòng niệm Phật, một niệm liền được lên bờ kia.
Đẵng Giác Bồ Tát đức bằng với Phật, còn phải vãng sinh mới chứng được đạo Bồ
Đề, phàm phu sát đất, tràn đầy phiền não, nếu chẳng chịu niệm Phật thì làm sao
kết quả được tốt lành? Khuyên nhắn với mọi người hãy cùng sanh tâm Tín -
Nguyện chấp trì Phật hiệu, suốt đời không thay đổi, đến lúc mang chung sẽ được
Phật tiếp dẫn mà mau ra khỏi cảnh năm trược, thẳng lên chín phẩm, thấy Phật
nghe pháp, tự chứng vô sanh, nương đại nguyện của Phật trở về rộng độ hữu tình.
Pháp môn Tinh độ là pháp do tâm bi triệt để của Như Lai phổ
độ chúng sanh, khiến cho những kẻ không có sức đoạn nghiệp hoặc là hàng phàm
phu sát đất chỉ dùng Tín - Nguyện - Trì danh mà liễu thoát ngay trong đời này, cùng làm bầu
bạn với Quán Âm, Thế Chí. Trên đến Đẵng Giác là những vị Bồ Tát địa vị gần bằng
với quả Phật, mà còn phải vãng sanh mới viên thành Chánh Giác. Một pháp môn chí
viên, chí đốn, thông trên thấu dưới, vượt trội các pháp môn đã được Thế Tôn nói
ra trong một đời giáo hoá ở một phương. Vì thế, khi được Phật giảng kinh, sáu
phương chư Phật hiện tướng lưỡi rộng, dài, cùng một lời xưng tán là kinh “công
đức chẳng thể nghĩ bàn, được hết thảy chư Phật hộ niệm.” Lại khen đức Thích Ca
Thế Tôn đã có thể làm được chuyện hy hữu rất khó này. Đức Thế Tôn cũng tự nêu
lên túc nhân rằng : Ta ở trong đời ác năm trược, làm chuyện khó khăn này mà
chứng được đạo Bồ Đề, vì hết thảy thế gian nói pháp khó tin này đích thật là
rất khó, khiến cho người nghe tin nhận phụng hành.
Chúng ta đã luân hồi trong sanh tử bao kiếp dài lâu, đã tạo ác
nghiệp vô lượng, vô biên. Nếu cậy vào tự lực để tu trì mong diệt sạch nghiệp
hoặc phiền não để liễu sanh thoát tử thì còn khó hơn lên trời. Nếu có thể tin
vào pháp môn Tịnh độ do đức Phật nói ra, dùng lòng tin chân thành, nguyện thiết
tha, niệm danh hiệu Phật A Di Đà cầu sanh tây phương thì bất luận nghiệp lực
lớn hay nhỏ, có thể cậy vào từ lực của Phật mà vãng sanh tây phương.
Ví như một hạt cát nhỏ bỏ vào nước liền chìm, nhưng một khối
đá 1000 cân đặt trên một chiếc thuyền thì chẳng những không chìm, mà còn được
chuyển sang bờ bên kia. Đá ví như nghiệp lực sâu nặng của chúng sanh, thuyền ví
như nguyện lực rộng lớn của Phật Di Đà. Nếu không niệm Phật, cậy vào đức tu trì
của chính mình để mong liễu sanh thoát tử thì phải đợi đến cảnh nghiệp tận tình
không mới được. Nếu không, dù cho đoạn được phiền não, nghiệp hoặc chỉ còn lại
một tí cũng chẳng liễu sanh được. Ví như một hạt cát cũng phải chìm trong nước,
quyết chẳng thể tự mình vượt ra ngoài nước được.
Thế giới Cực Lạc do đức Phật A Di Đà lập ra. Ngài đã chứng
ngộ triệt để Phật tánh sẵn có trong tự tâm và tuỳ tâm biến hiện cõi Phật, xứng
tánh trang nghiêm. Vì thế sự vui trong cõi ấy chẳng có cùng tận. Ví như hư
không rộng rãi vô cùng, bao hàm hết thảy vạn vật, dù thế giới nhiều lần thành,
nhiều lần hoại, nhưng hư không rốt ráo chẳng bị tăng giảm.
Phải biết rằng chúng sanh đều có Phật tánh. Vì thế đức Phật
dạy người niệm Phật cầu sanh tây phương để nhờ vào nguyện lực đại từ bi của
Phật Di Đà sẽ cũng được thọ dụng niềm vui bất sanh bất diệt ấy. Do căn thân là
hoa sen hoá sanh nên không có nổi khổ sanh già bệnh chết. Thế giới là do công
đức xứng tánh hoá hiện nên không có biến chuyển thành trụ hoại diệt.
Nếu nương theo Pháp môn niệm Phật, sanh lòng tin phát nguyện niệm
thánh hiệu Phật cầu sanh Tây Phương, bất luận xuất gia hay tại gia, sĩ, nông,
công, thương, già trẻ, sang hèn, trai gái, hiền ngu,…chỉ cần nương theo giáo
pháp này tu trì, đều có thể nương vào từ lực của Phật mà đới nghiệp vãng sanh.
Hễ được vãng sanh thì Định - Huệ, chẳng mong mà tự được, phiền não, nghiệp hoặc
chẳng mong đoạn mà tự trừ. Thân cận Di Đà, Thánh Chúng, vẫy vùng nơi đất vàng,
ao báu. Nương theo duyên thù thắng ấy để trọn thành đạo nghiệp khiến cho những
người đới nghiệp vãng sanh sẽ lên thẳng ngôi Bất thoái, giống như những vị đã
đoạn hoặc vãng sanh, mau chứng quả vô sanh.
Đấy đều nhờ vào đại bi nguyện lực của Phật A Di Đà và sức tín
nguyện niệm Phật của chính người ấy cảm ứng đạo giao mà được lợi ích lớn lao
ấy. So với những kẻ chuyên tu tự lực thì sự khó và dễ khác nhau vời vợi như
Trời với Đất.
Đời có những kẻ nông cạn, ngông cuồng, chẳng tin, chẳng tìm
hiểu kỹ giáo lý Tịnh Độ, thấy kẻ ngu phụ, ngu phu tu được pháp này bèn khinh
rẻ, chê bai họ, cho là pháp tiểu thừa, pháp dành cho bà già, con nít. Chẳng
biết đây chính là pháp môn đệ nhất, một đời thành Phật, trước sau như một.
Cũng có kẻ ngu si với tri kiến kém cỏi, cứ nghĩ mình công phu
cạn mỏng, nghiệp lực sâu dày thì làm sao mà vãng sanh được ngay trong đời này?
Chẳng biết rằng tâm tánh chúng sanh và tâm tánh của Phật chẳng hai. Ngũ nghịch,
thập ác sắp đoạ địa ngục, gặp thiện tri thức dạy cho niệm Phật, niệm được mười
tiếng hoặc cả mấy tiếng rồi liền mạng chung còn được vãng sanh thay. Đó là lời
trong Quán kinh, sao không tin được?
Bọn người tội ác còn được vãng sanh, huống hồ chúng ta. Dù
còn tội nghiệp, dù công phu ít, nhưng so với kẻ thập ác ngũ nghịch kia chỉ niệm
trong thời gian ngắn còn được Phật rước, so ra chúng ta còn may mắn hơn nhiều,
thì có lẽ nào tự vội vàng bỏ hy vọng để đánh mất sự lợi ích vô cùng cao quí
này.
Tại sao Như Lai gọi Pháp môn Tịnh độ là pháp khó tín? Là vì
kẻ hạ thủ công phu ít mà dễ thành công lực cao, dùng công ít mà được hiệu quả
nhanh. Chí viên, chí đốn, thẳng tắt, rộng lớn, giản dị, vượt trội hết thảy giáo
lý thông thường. Nếu xưa vốn chẳng có thiện căn thì nay quyết khó lòng tin nhận
phụng hành. Chúng sanh trong chín cõi, nếu không nương vào pháp tu này mà ra
khỏi sanh tử thì chẳng có pháp nào hơn. Mười phương Chư Phật đều dùng pháp môn
này để độ khắp chúng sanh.
Nếu tin vào pháp môn này thì nhiều kiếp đã trồng sâu căn lành
rồi. Nếu có thể dùng tín nguyện sâu, trì danh hiệu Phật, nhiếp trọn sáu căn, tịnh
niệm nối tiếp thì cái tâm phàm phu biến thành Như Lai Tạng Tánh, như người
nhiễm mùi hương, thân có mùi hương. Hiện tại dã tiếp xúc với khí phần của Phật
thì lúc lâm chung cảm ứng đạo giao, sẽ được Phật tiếp dẫn không sai.
---------—]–-------
0 nhận xét:
Đăng nhận xét