CHÚNG SANH
CỦA ĐỨC PHẬT A DI ĐÀ
Kinh A Di Đà nói: “Từ đây qua Tây phương
trải qua mười vạn ức cõi, có thế giới tên là Cực Lạc. Cõi ấy Phật hiệu là A Di
Đà, hiện nay đang thuyết pháp”. Kinh lại nói: “Cõi ấy vì sao có tên là Cực Lạc?
Vì chúng sanh cõi ấy không có các điều khổ, chỉ hưởng những điều vui, nên được
Cực Lạc”.
Không có các điều khổ, chỉ hưởng các
điều vui là do được trang nghiêm bởi phước đức, trí tuệ, thần thông đạo lực của
Phật A Di Đà.
Thế giới chúng ta đang sống có đủ ba khổ,
tám khổ, vô biên nỗi khổ, hoàn toàn khổ, chẳng vui. Vì thế gọi là Ta Bà. Ta Bà, âm tiếng Phạn, dịch ra nghĩa là kham
nhẫn, ý nói chúng sanh cõi này có thể kham chịu các thứ khổ. Trong thế giới Ta
Bà này, không phải không có điều vui, nhưng những điều được cho là vui ấy lại
là điều khổ. Chúng sanh mê muội lại cho đó là vui, như mê rượu, đắm sắc, cờ
bạc, săn bắn, …có gì là vui? Một khi đắm đuối, mê muội thì không bỏ được, ưa
thích đến quên mệt, thật đáng xót thương.
Những điều đó dù thực sự cho là vui cũng
khó lâu bền. Trong cuộc sống hằng ngày, niềm vui vừa thoáng qua, sự khổ luỵ
buồn phiền liền đến. Sự vui quá ít, sự khổ tràn đầy. Sự khổ trong cõi nhân gian
chẳng thể nói hết. Vì thế nên phải chuyên tu tịnh nghiệp, cầu sanh Cực Lạc,
nương từ lực của Phật vãng sanh Tây phương, sống cảnh an nhàn, không bị khổ
ràng buộc.
Đã được vãng sanh thì liên hoa hoá sanh,
chẳng còn cái khổ, thuần mang tướng nam, không có tướng nữ, thọ mạng lâu dài,
thân không có tai biến, bịnh hoạn, tai nạn. Những danh từ sanh, lão, bệnh, tử, …không còn nghe đến, huống
là thật có. Gần gũi Thánh chúng, hầu cận Di Đà, chim, nước, rừng cây đều diễn
Pháp âm. Tuỳ theo căn tánh, nghe xong liền chứng ngộ, người thân còn chẳng
thấy, huống là oán thù. Muốn áo có áo, muốn ăn liền có ăn, lầu các, đền đài đều
do bảy báu tạo thành, chẳng nhọc sức người, chỉ là hoá hiện. Vậy thì những nỗi
khổ tại Ta Bà biến thành bảy báu và các điều vui. Nơi thân có thần thông, có
đại oai lực, chẳng rời chỗ mình đang ở mà ngay trong một niệm ở khắp các thế
giới của Chư Phật trong mười phương để làm Phật sự. Tâm có đại trí tuệ, có biện
tài nơi một pháp biết thật tướng của hết thảy pháp. Tuỳ cơ thuyết pháp, chẳng
hề lầm lạc. Không có nỗi khổ về thân, hưởng niềm vui thân tâm tịch diệt. Nên
trong kinh nói: “Không có các nỗi khổ, chỉ hưởng các điều vui, nên gọi là Cực
Lạc”.
Ta Bà khổ, khổ chẳng thể nói hết. Cực
Lạc vui, vui chẳng gì sánh nổi. Tin sâu lời Phật, trọn chẳng nghi hoặc mới gọi
là chân tín. Đừng nên dùng tri kiến của ngoại đạo, phàm phu để so lường mà lầm
lạc cho rằng những thứ trang nghiêm thắng diệu chẳng thể nghĩ bàn của cõi Tịnh
độ đều là chuyện ngụ ngôn, là thí dụ, là tâm pháp, chẳng phải cảnh thật. Nếu có
các thứ tà kiến, hiểu biết sai lạc như vậy sẽ đánh mất điều lợi ích thực sự,
nghĩa là không được vãng sanh Tịnh độ. Cái hại ấy rất lớn, chẳng thể không
biết.
Đã biết Ta Bà là khổ, Cực Lạc là vui thì
hãy nên phát thệ nguyện thiết thực, nguyện lìa khổ Ta Bà, nguyện hưởng vui Cực
Lạc. Nguyện ấy phải tha thiết, như bị rớt xuống hầm phân nhơ, mong cầu được gấp
rút thoát ra. Lại ví như bị giam cầm trong lao ngục, đau đáu muốn được ra, nhớ
nghĩ quê nhà, sức mình chẳng thể tự thoát được, ắt phải cầu đến người có đại
thế lực mới cứu thoát ra được.
Hết thảy chúng sanh trong thế giới Ta Bà,
đối với cảnh thuận nghịch thì khởi tâm tham, sân, si tạo ra cảnh giết hại, trộm
cắp, dâm ô, làm uế nhiễm giác tánh sẵn có, đây chính là hầm xí không đáy. Đã
tạo nghiệp ác ắt phải chịu quả báo ác qua nhiều kiếp dài lâu, luân hồi sáu nẻo.
Đấy là chốn lao ngục chẳng hề phóng thích tội nhân. Đức Phật A Di Đà trong
nhiều kiếp quá khứ đã phát bốn mươi tám nguyện độ chúng sanh, trong đó có một
nguyện: “Nếu có chúng sanh nào nghe đến danh hiệu ta, phát tâm tin ưa niệm danh
hiệu ta, cầu sanh về nước ta, dẫu chỉ mười niệm mà nếu chẳng được sanh, ta
chẳng lấy ngôi chánh giác”.
Phật A Di Đà thệ nguyện độ chúng sanh,
nhưng nếu chúng sanh chẳng cầu ngài tiếp dẫn, Phật cũng chẳng biết làm cách nào
khác hơn. Nếu như chí tâm xưng danh, để cầu xuất ly Ta Bà thì không một ai
chẳng được Phật rủ lòng từ nhiếp thọ. A Di Đà Phật có đại thế lực, cứu được
người đang ở trong hầm phân không đáy, trong lao ngục chẳng hề phóng thích,
khiến họ thoát ngay chốn ấy, đưa họ về nơi quê nhà sẵn yên ổn là cõi Cực Lạc,
khiến họ nhập cảnh giới Phật, được thọ dụng giống như Phật.
Phàm phu hữu tình chúng ta hễ nghe nói
Tịnh độ thì phải tin Ta Bà cực khổ, Tây Phương cực vui. Phải tin từ nhiều đời
đến nay tạo nên nghiệp chướng sâu nặng, nếu chẳng cậy vào Phật lực gia trì, khó
thể xuất ly. Phải tin rằng cầu được vãng sanh thì ngay trong đời này sẽ được vãng
sanh. Phải tin niệm Phật thì nhất định được Ngài từ bi nhiếp thọ. Dùng một lòng
kiên định này, nguyện lìa Ta Bà như kẻ tù muốn thoát lao ngục, trọn chẳng có
tâm lưu luyến, nguyện sanh Tây Phương như lữ khách mong quay về cố hương, chẳng
hề có ý niệm do dự. Từ đó, tuỳ phận, tuỳ lực, chí tâm trì niệm Thánh hiệu A Di
Đà, chẳng luận là nói năng, im lặng, động, tịnh, đi, dứng, nằm, ngồi, đón tiếp
khách khứa, mặc áo, ăn cơm, tất cả mọi cử động luôn sao giữ câu Phật hiệu,
chẳng lìa tâm, tâm chẳng lìa Phật.
Mục đích của sự niệm Phật thì quan trọng
nhất là mong liễu sanh thoát tử. Đã vì liễu sanh thoát tử thì hãy tự sanh lòng
nhàm chán đối với nỗi khổ sanh tử, tự sanh lòng ưa thích đối với sự vui Tây
Phương, như thế thì hai pháp Tín-Nguyện sẽ được vẹn toàn ngay trong một niệm. Lại thêm niệm
chí thành, khẩn thiết như con nhớ mẹ thì
Phật lực, Pháp lực, sức công đức tín nguyện nơi tự tâm, ba pháp đều phô bày
trọn vẹn. Ví như mặt trời rạng rỡ giữa hư không, dẫu mây dày, băng đóng tầng
tầng, chẳng mấy chốc liền tiêu tan.
Xem cõi Ta Bà này nhơ xấu, tin cõi Cực
Lạc là vui, chính là quê nhà vốn sẵn có, chẳng cầu phước lạc cõi Trời, cõi
Người trong đời này hay đời sau, chỉ nguyện khi báo chung mạng tận, được Phật
tiếp dẫn vãng sanh. Sáng tối như thế, niệm
đâu chú trọng đó, niệm cực công thuần, cảm ứng đạo giao, lúc lâm chung ắt được thoả
nguyện. Đã sanh về Tịnh Độ sẽ đốn ngộ vô sanh, nhìn lại phú quý vinh hoa ở thế
gian khác nào bèo bọt, ánh dương diệm như hoa đốm trên không, thật đúng là nhà
ngục, biển độc mà thôi (Gia đình Ô Bàn Uẩn ngộ đạo).
Phật pháp không một ai chẳng kham tu, mà
không một ai chẳng thể tu được, chỉ nên trong niệm niệm biết “Chẳng tu Tịnh
nghiệp sanh về Tây Phương thì sẽ bị luân hồi cả kiếp dài lâu, chẳng thể thoát
được”. Do vậy, biết thương mình, lo cho mình, thương ta, thương người, cùng
nhau hô hào người gần, người xa cùng tu pháp này. So sánh với mọi pháp khác,
pháp này ưu việt, cầu sự giải thoát cho mình, lại lợi ích cho người khác. Có
pháp nào khác biệt vời vợi như Trời với Đất ư.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét