NGÀY TỰ TỨ
Định
nghĩa : Tiếng Phạn : Pravarana , phiên âm là Bát Hoà La
,dịch là Tự Tứ, thỉnh hay tuỳ ý. Nghĩa là cầu người khác chỉ những lỗi lầm cho
mình trên ba phương diện thấy, nghe, nghi. Nếu tự mình thấy lỗi sẽ thành tâm
sám hối để được thanh tịnh. Mục đích của Tự Tứ giống như thuyết giới, là biểu
hiện sự thanh tịnh và hoà hợp của tăng già. Thế nên có thể nói Tự Tứ là một
hình thức thuyết giới không đọc giới bổn .
Túc
số tăng : Thuyết giới tối thiểu phải là 4 thầy Tỳ kheo, nhưng
Tự Tứ thì túc số tăng tối thiểu phải từ 5 thầy Tỳ kheo trở lên. Nếu trú xứ chỉ
có 4 thầy Tỳ kheo hoặc chỉ có 3 vị 2 vị thì phải đọc đối thú Tự Tứ Còn chỉ có một vị thì cho phép tâm niệm Tự Tứ
.
Trong khi Tự Tứ, thầy Tỳ kheo nào có duyên sự vì Tam
Bảo thì được phép gởi dục, nói như thế này : “ gởi dục và tự tứ ”. Còn thuyết
giới thì nói : “ gởi dục và thanh tịnh ”. Như vậy Tự Tứ và thuyết giới khác
nhau về gởi dục .
Khi chúng Tăng an cư ba tháng xong, lo việc Tự Tứ.
Những Tỳ kheo hậu an cư cũng được Tự Tứ chung với Tỳ kheo tiền an cư ( nhưng
phải ở lại đủ 90 ngày mới được ra khỏi đại giới ) .
Bên Ni chúng, trước ngày Tự Tứ phải cử người đến Đại
Tăng cầu xin ba việc : thấy, nghe, nghi. Đây là một trong tám pháp cung kính
của Tỳ kheo Ni phải gìn giữ .
Yết
Ma Tự Tứ : Yết Ma Tự Tứ tổng quát gồm hai thể thức chủ yếu :
- Bạch nhị , sai người nhận Tự Tứ .
- Đơn bạch , chánh thức Tự Tứ .
Căn cứ trong
các bộ Quảng luật, vị thầy được sai làm người nhận Tự Tứ phải có 5 đức : 1 -
Không ái nhiểm . 2- Không hờn ghét . 3- Không sợ sệt . 4-Không ngu đần . 5-
Người tự tứ rồi hay chưa đều biết .
Thời gian Tự Tứ có 4 trường hợp :
1- Định kỳ tự
tứ . 2 -Tăng ích tự tứ .
3- Giảm nhật
tự tứ . 4-Tăng thượng tự tứ .
Định kỳ tự tứ ( Chánh kỳ tự tứ ) là an cư đủ 90 ngày, làm lễ tự tứ.
Tăng ích tự tứ ; Chúng tăng trong ba tháng tu học có
tiến bộ lợi ích của trong việc dụng công nên tiếp tục ở thêm một tháng nữa rồi
mới làm lễ tự tứ .
-Giảm nhật tự tứ và tăng thượng tự tứ : Trong chúng
sắp đến ngày tự tứ, bất ngờ có sự tranh chấp hay nghe tin những Tỳ kheo khách
sắp đến có thể gây ra bất hoà, vị thiền chủ có thể tuyên bố tự tứ trước một
ngày đã định hay triển hạn đến một kỳ hay hai kỳ Bố tát. Triển hạn tối đa là
một tháng mà Tăng vẫn chưa hoà hợp hay Tỳ kheo khách vẫn chưa đi phải cưởng bức
các Tỳ kheo hiếu sự ấy hoà hợp tự tứ. Nếu cưởng bức không được, các Tỳ kheo
thanh tịnh phải ra ngoài cương giới kết tiểu giới tự tứ .
Trong đạo Phật, ngày tự tứ có thể nói là “ngày Tết ”
của chư Tăng .
Mùa an cư mỗi năm bắt đầu từ ngày 16 tháng 4 âm lịch
đến 15 tháng 7 là mản hạ đủ 90 ngày đó là thời gian tiền an cư . Còn hậu an cư
từ 17 tháng 4 đến 16 tháng 5. Dù tiền hay hậu cũng phải giải hạ vào ngày 15
tháng 7.
Theo Nam truyền, kết hạ ngày 16 tháng 6 và giải hạ
vào 16 tháng 9 âm lịch .
Tiền an cư gọi là “ Tiền tam ngoạt hạ an cư ,” hạ an
cư gọi là “ hậu tam ngoạt hạ an cư ”. Tất cả chư Tăng các nơi đều tụ hội về một
trú xứ thuận tiện để kiết hạ an cư. Chổ tăng chúng an cư gọi là trường hạ .
Sau 3 tháng tinh tấn tu hành, Giới Định Huệ, thúc
liểm thân tâm, trau giồi đức hạnh, đến ngày 15 tháng 7 gọi là ngày mãn hạ, chư
tăng đều được tăng thêm một tuổi đạo gọi là tuổi hạ “ Hạ lạp ” .
Vì muốn công đức viên mản nơi giới thể thanh tịnh bằng cách rửa sạch hành vi lầm
lỗi , tư tưởng xấu xa, chư tăng cùng nhau Tự Tứ .
Tự tứ có ý nghĩa cầu thỉnh người khác chỉ cho mình
những cái lỗi lầm mà mgười khác có thể thấy , nghe, hoặc nghi mà chính bản thân
mình không thấy,để biết mà sửa. Âm tiếng Phạn là Bát Lặc Ba Noa (Pravarana) xưa
dịch là Tự tứ, gần đây dịch là Tuỳ ý. Nghĩa là tự hiến mình để tuỳ ý người khác
phê bình kiểm thảo, chỉ ra những chổ sai lầm của mình, không chút ngần ngại.
Nói một cách phổ thông như ngày nay gọi là kiểm
thảo. Tinh thần tự tứ này có thể áp dụng cho mỗi đoàn thể, mỗi người có thể tuỳ
ý kiểm thảo với nhau trong mọi việc sai lầm về lời nói, ý nghĩ và hành động.
Nhờ vậy phương pháp tu hành tự tứ có thể hoán cải được những con người hung ác,
xấu xa trở thành hiền lương tốt đẹp, phàm mê trở thành thánh trí. Mỗi người ai ai cũng thực hiện tinh thần tự
tứ này có thể làm cho cả thế giới hoà bình an lạc, nếu tất cả mọi người đều
biết áp dụng phương pháp này vào đời sống của mình .
Riêng về hàng xuất gia, nghi lễ đặc biệt long trọng
hơn. Chư Ni cũng như chư Tăng, sáng ngày 15 tháng 7 nhóm họp xong, trước tiên
cử một vị đại đức ra để nhận tự tứ (tự tứ nhơn ). Vị nầy không luận già hay
trẻ, lạp cao hay lạp thấp , chỉ cần đủ 5 đức :
1- Không có tâm thiên vị
2- Không có lòng giận ghét
3-Không sợ người thù oán
4-Có trí tuệ sáng suốt
5-Biết người tự tứ rồi hay chưa .
Sau khi lễ Phật xong, toàn thể đại chúng tề tựu
trước chánh điện, đại chúng từng người lần lượt đến đối diện với vị tự tứ nhơn
bạch ba lần rằng : “ Đại đức nhất tâm niệm, kim nhật chúng tăng tự tứ, ngã Tỳ
kheo. . . . diệc tự tứ, nhược hữu kiến, văn, nghi tội, nguyện Đại đức ai mẫn cố
ngứ ngã , ngã nhược kiến tội đương như
pháp sám hối ”( xin Đại đức từ bi thương
xót , ngày nay chúng tăng tự tứ, tôi Tỳ kheo . . .cũng tự tứ , đối với trong ba điều thấy, nghe ,
nghi tôi có tội mong Đại đức chỉ giáo
cho , nếu tôi xét có tội, xin thành tâm y pháp sám hối)
Khi xét không thấy lỗi gì, thì vị nhận tự tứ đáp lại
“ tốt lắm ”. Người bạch thưa :
'' A Di Đà Phật xin vâng .''
Không chút rụt rè, hoặc che dấu tội lỗi, trái lại
rất vui mừng nhận lấy lỗi lầm trước sự chỉ bảo của đại đức tăng, đó là tinh
thần và ý nghĩa lễ tự tứ. Ta thử xét, đây là một phương pháp sám tội rất cao,
một tư cách cao cả của người sống đúng với chánh pháp .
Bởi vậy, những gương mẫu trong sáng đó là những mô
phạm cao quý cho nhơn thiên, có được như thế ánh đạo vàng được buông toả muôn
phương phá tan nghiệp vô minh đen tối của chúng sanh, vơi cạn nổi khổ đau của
muôn loài, thế giới hoà bình, nhơn dân an lạc, âm dương lưỡng giới đồng triêm
công đức, đâu không phải nhờ công đức hoá độ của chư Tăng biết sứ mạng của mình
.
Nhưng
nhiệm vụ của Tăng sĩ là thay Phật tuyên dương , truyền bá chánh pháp , cứu độ
quần sanh .Nhiệm vụ ấy , thường được xây dựng trong những mùa an cư và viên
thành ở những ngày tự tứ .
Bởi thế, trong ngày tự tứ , chư Phật lấy làm vui
lòng vì thấy các hàng đệ tử của mình đã tiến thêm một bước dài trên con đường
giải thoát giác ngộ và đạo vàng sẽ bất diệt, chúng sanh sẽ an vui. Ngày ấy,
không những chư Phật vui mừng mà tăng già cư sĩ các giới thảy đều chan chứa một
niềm hoan lạc .
Từ địa vị một phàm Tăng tiến lên thành vị sơ quả,
nhị quả cho đến tứ quả v.v phần nhiều đều được thành tựu từ khoảng đầu hạ cho
đến ngày tự tứ .
Kinh Lăng Nghiêm là một pháp bảo quý nhất trên đời,
chỉ rõ nguồn chơn bến giác và đường lối tu hành để đến quả vị Phật Đà, cũng
phát nguyên từ ngày tự tứ .
Đức Mục Kiền Liên vang danh hiếu tử, nhờ công đức
lực của chư Tăng trong mùa hạ nhân ngày tự tứ mà muôn vạn khổ đau của mẹ Ngài
nơi đường ác thú được thoát khỏi cũng bắt nguồn từ ngày tự tứ. Vì thế ngày tự
tứ cũng là ngày “xá tội vong nhân ” còn
gọi là “cứu đảo huyền ” (cứu cái khổ treo ngược ) .
Trong ngày tự tứ , các hàng thiện nam tín nữ rất
thoả nguyện trong việc cầu nguyện báo hiếu cho ông bà cha mẹ đã quá vãng, cũng
như trên việc gieo trồng cội phước, và cũng là phương pháp gián tiếp truyền bá
và duy trì chánh pháp bằng cách ủng hộ cúng dường đại đức Tăng trọn vẹn một mùa
kiết hạ an cư .
Như thế, chúng ta thấy rõ ngày tự tứ là một ngày rất
quan trọng và đầy ý nghĩa trong lịch sử Phật giáo. Nó đem lại vô cùng lợi ích
cho thánh phàm u hiển, tất cả những đặc điểm tiến hoá, giải thoát thanh tịnh
trên tinh thần sống chung hoà hiệp, cùng phương tiện báo hiếu, gương mẩu độ
sinh của phật tử đều được nâng cao ở ngày ấy ./.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét