Thứ Sáu, 11 tháng 10, 2024

TỔNG KẾT CÁC Ý CHÍNH

 

TỔNG KẾT CÁC Ý CHÍNH

 Đứng trên Tướng mà nhìn, chúng ta thấy có Đề-bà-đạt-đa là người vô ơn bội nghĩa, tình thầy trò, người phá đạo. Còn A-xà-thế là người con bất hiếu, người con ngỗ nghịch. Xét về nhân quả, thì ta thấy có vay nên phải có trả, có bạn có thù thì việc đó là việc bình thường. Còn đứng về Tánh thì các pháp không sanh không diệt, không sạch không dơ, không thường, không đoạn…Nên không có tội báo, không có người chịu quả báo.

Vã lại, nếu không có nghịch duyên, làm sao có thuận duyên. Nhân cảnh nghịch duyên của Đề-bà-đạt-đa, phản Phật và xúi giục A- xà-thế nghe theo mà có thảm kịch trong triều chính. Từ cơ duyên đó Phật giới thiệu cõi Cực lạc Tây phương của Phật A Di Đà cho bà Vi-đề-hy xem và chọn pháp môn tu tập.

Sau đây các ý xưa nay nhiều người nghi ngờ niệm Phật rất khó vãng sanh, nên cần phải hiểu thêm cho việc niệm Phật không bị phân tâm.

1-Trong Kinh A-Di-Đà nói niệm Phật phải được “Nhất tâm bất loạn  mới được vãng sanh.

Việc niệm Phật cho được nhất tâm rất khó, ngàn người không có một. Vậy pháp niệm Phật là pháp dễ hành trở thành pháp khó hành, hiểu như vậy trái với bản nguyện của Phật A-di-đà. Nên phải hiểu từ “nhất tâm” thành từ “chuyên tâm”, từ  bất loạn” thành từ “không tạp”. Như vậy, người chuyên tâm niệm Phật không tạp, thì ai cũng làm được. Vì thế việc vãng sanh không thấy khó.

  Nhất tâm khó được, còn chuyên tâm ai cũng làm được. Bất loạn khó làm, còn tạp hạnh dễ trừ. Vì thế niệm Phật cầu vãng sanh ai cũng có phần, đừng e ngại mà thối thất mất phần, mất cơ hội vãng sanh trong đời này.

2- Người niệm Phật cầu vãng sanh do sức của mình và sức của Phật.

  Đây là quan điểm sai lầm. Người có niệm Phật được cũng do lực của Phật mới niệm được, chứ không phải do mình. Nếu phân làm hai lực để được vãng sanh, thì không còn ý nghĩa của tha lực. Ví như chúng ta ngồi trên xe, trên tàu sức của xe tàu đưa ta đi, ta có dùng sức gì cũng vô dụng.

3- Niệm Phật nếu không được vãng sanh, thì vạn nhứt cũng được sanh lại làm thân người, khỏi đoạ vào ba đường ác, như thế cũng đủ rồi.

Quan niệm nầy lại sai lầm lớn nữa đấy!.  Đem cái pháp tha lực chung với pháp tự lực, đem cái dễ ghép vào cái khó. Xem việc vãng sanh khó hơn việc làm thân người. Kỳ thật, làm lại được thân người khó hơn trăm ngàn lần việc được vãng sanh.

4- Quan niệm người quá nhiều tội chướng, phiền não, nghiệp báo sâu nặng  không đủ tư cách để được vãng sanh.

Đây là tâm lý tự ty, mặc cảm với tội lỗi, xem mình là yếu kém không đủ tiêu chuẩn để được vãng sanh. Nếu hiểu như vậy, thì chưa thông hết bản nguyện của Phật Di-Đà. Bản nguyện của Phật Di Đà là nguyện độ tận chúng sanh không phân biệt, chúng ta lại sanh tâm phân biệt, nên biến dễ thành khó.

Ví như bác sĩ ở bệnh viện, không phân biệt bệnh nặng hay bệnh nhẹ đều gia tâm cứu chữa, hàng phàm phu còn thế, huống nữa tâm đại từ đại bi của Phật.

5- Sự tiếp độ của Phật A-Di-Đà  bằng danh hiệu và ánh sáng.

Vì thế chúng sanh không cần phải trang bị nhiều phước đức và trí tuệ, công phu sâu hay cạn, đều được sự tiếp độ của Phật bằng ánh sáng và danh hiệu. Nói như thế để chúng ta thấy sức từ bi của Phật rộng lớn, mà phấn tấn tu tập. Chứ không phải thấy dễ mà lười, mà làm ác thì mất phần đấy.

6- Sáu chữ Hồng danh là một tài sản vô giá cho chúng sanh thời mạt pháp, không có thứ tài sản nào trên đời nầy sánh bằng. Vì thế phải trân trọng đừng xem thường bỏ mất.

7- Có quan niệm vừa tu thiền vừa tu niệm Phật, sẽ chắc chắn hơn, sẽ thành công mau hơn.

Quan niệm này mới nghe thì hay, nhưng chưa đúng. Vì pháp tu niệm Phật đã bao gồm các pháp tu khác, trong đó có tu thiền định, nên không cần phải vừa tu thiền, vừa tu niệm Phật. Tu một lần hai pháp thành ra tạp tu chứ không phải chuyên tu, Pháp niệm Phật gọi “nhất hướng chuyên niệm”, duy nhất chỉ một câu Phật hiệu mà thôi. Pháp niệm Phật bao gồm tất cả pháp “Nhất pháp bao hàm nhất thiết pháp”.

8- Dùng câu Phật hiệu, chuyên niệm để lấn áp vọng niệm, vọng niệm được khống chế, tâm được thanh tịnh, tâm đã tịnh Tự tánh sẽ hiển bày.

Cách tu dùng danh hiệu Phật để khống chế vọng niệm, là cách tu của thiền, cách tu chuyên về tự lực, cách tu để tịnh tâm tỏ tánh, chứ không phải cách tu cầu vãng sanh. Nên cách tu nầy không phải thuộc về pháp tu Tịnh độ. Một bên cầu thấy Tánh khác với một bên cầu vãng sanh. Bên thấy Tánh cần phải khởi tu nhiều đời nhiều kiếp mới thoát khỏi sanh tử. Còn tu niệm Phật một đời vãng sanh, tức liền ra khỏi sanh tử.

9- Vì sao, đức Phật Thích Ca nói pháp tu niệm Phật nói khó tin, khó nói?

Vì pháp tu niệm Phật cầu vãng sanh quá dễ không khó, một đời thành công. Vì quá dễ quá mau so với các pháp khác, nên khiến cho chúng sanh  khó tin, khó thực hành.

10- Cõi nước Cực lạc Tây phương quá xa, cách ta mười muôn vạn ức cõi Phật, Đức Phật Di Đà thành Phật đến nay đã mười kiếp rồi. Với thời gian quá xa, không gian quá dài. Phàm phu chúng sanh không thể tin nổi là thế.

11- Cả đời không tu, đến cuối đời lúc gần chết, nhất tâm tin tưởng niệm danh hiệu Phật 10 niệm, cầu vãng sanh. Sẽ được Phật Di Đà tiếp độ. Cả đời không tu đạo cuối đời niệm 10 niệm được vãng sanh quá dễ như vậy làm sao ai tin nổi?

Chúng ta đem tâm phàm phu hẹp hòi để so sánh với lòng từ bi vô lượng của Phật thì chúng ta không thể tin nổi. Ví như người nghèo khó, cả đời không đủ ăn, đủ mặc, đủ ở. Bất thình lình có người giàu lòng hảo tâm, kêu cho nhà cửa, ruộng vườn xe cộ, người nghèo kia không thể tin nổi.

Vì thế sáu chữ hồng danh chính là tài sản vô giá cho những kẻ phàm phu tục tử trong thời mạt pháp.

12- Phật nói ra nhiều pháp môn, pháp nào cũng diệu dụng, vã lại căn cơ chúng sanh nhiều loại. Căn cơ sai khác, pháp tu đa dạng khiến cho trí huệ kém yếu phàm phu khó phân biệt, khó lựa chọn. Vì thế khó tin khó tu. Cho nên những ai có lòng tin nơi pháp niệm Phật, là hạng người có “Thiện căn phước đức” như trong Kinh Di Đà  đã nói.

13- Có hai quan điểm: Một chuyên niệm Phật cầu vãng sanh hai tu các pháp khác rồi hồi hướng vãng sanh. Vậy quan điểm nào chính xác?

Có thể trả lời rằng cả hai đều đúng, đều là phương pháp thực hành thuộc về Tịnh độ môn. Đối với các pháp tu khác, như tu thiền cảm thấy khó khai ngộ. Bạn muốn vãng sanh, nhưng chưa thể hoàn toàn buông bỏ được thói quen tu thiền, bạn có thể hồi hướng vãng sanh Cực lạc, như vậy vẫn thuận tiện bước vào cửa Tịnh độ.

14- Pháp môn niệm Phật dễ cầu vãng sanh, tại sao có người lại nói khó vãng sanh là như thế nào?

Pháp môn niệm Phật lấy Tín làm trọng tâm, lấy tha lực làm tông chỉ, vì thế đối với người này họ không đủ lòng tin, và tâm lý có hoài nghi nên họ nói niệm Phật không dễ vãng sanh là vậy.

Muốn vãng sanh phải có đủ ba yếu tố: Tín, Nguyện, Hạnh, một trong ba yếu tố này thiếu thì không thể vãng sanh là vậy.

15- Thế nào là định thiện và tán thiện? Định thiện và tán thiện có thể vãng sanh không?

Định thiện và tán thiện đều được vãng sanh, và định thiện, tán thiện vãng sanh phẩm vị có sai khác.

Định thiện là “bặt ý ngưng tâm” tức tâm không còn tán loạn. Định là thiền định, vọng tưởng tạp niệm đã dừng lắng, tâm liền an định, giống như mặt  nước đóng băng, không còn gợi sóng. Gọi là “bặt ý ngưng tâm”, đây là pháp môn “định”.

Tán thiện: “tán” là tán loạn, ngay trong tâm tán loạn mà “bỏ ác tu thiện” gọi là môn  “tán thiện”. Trong Quán Kinh, môn tán thiện chính là tam phước. Tam phước không đòi hỏi phải toạ thiền, ngưng định tâm ý.

Trong Kinh nói, tất cả phàm phu thiện ác đều được vãng sanh, đều nương nơi đại nguyện lực của Phật A Di Đà, để làm duyên tăng thượng.  Tất cả phàm phu thiện ác, nếu căn cứ theo hoằng nguyện, thì không hạn cuộc trong định thiện hay tán thiện dều được vãng sanh. Hoằng nguyện bao quát cả phàm phu thiện ác và không thiện ác đều vãng sanh.

16- Chúng sanh, hoá sanh vào hoa sen gọi là vãng sanh. Hoa sen có chín phẩm Thượng, Trung và Hạ, để tương ứng với ba căn cơ Thượng, trung và hạ, tức định thiện, tán thiện và thành phần không định không tán.

17- Pháp môn Tịnh Độ có ba đặc điểm và năm thù thắng mà các pháp khác không có đó là:

 Ba đặc điểm:Dễ tu dễ thành; Bất thối và đới nghiệp vãng sanh.

Năm thù thắng: Nhất thiết thời, nhất thiết xứ, nhất thiết nhơn, nhất thiết pháp và nhất thiết nghi.  Tức thời gian, không gian, con người, các pháp và 4 nghi là đi, đứng, nằm, ngồi, đều tu được hết.

18- Người niệm Phật còn vọng tưởng, còn nhiều tham sân, nhưng với tâm chuyên niệm danh hiệu Phật A Di Đà. Không vì thế mà không được vãng sanh. Đến lúc lâm chung nương nhờ nguyện lực Phật Di Đà nhiếp thọ trong ánh hào quang, người đó được vãng sanh, gọi là đới nghiệp vãng sanh hay tiêu nghiệp vãng sanh.

  Pháp môn Tịnh độ thâu nhiếp từ thượng căn cho đến hạ căn đều được vãng sanh. Ví như tảng đá lớn, viên sỏi nhỏ nếu thả xuống nước đều chìm tận đáy. Nhưng được đặt trên thuyền thì đá lớn đá nhỏ có thể qua bên kia bờ sông mà không bị chìm dưới nước.

TỔNG KẾT CÁC Ý CHÍNH Rating: 4.5 Diposkan Oleh: CHÙA TAM BẢO TAM KỲ

0 nhận xét:

Đăng nhận xét