CÂU 7: HỎI
1-Tôi tin Phật, tôi thờ Phật, nhưng nhìn vào cách tin Phật của mọi người
làm tôi phải phân vân, không biết quyết định bởi lẽ nào? Vì nói “ăn cơm có
canh, tu hành có bạn. Phần đông những người tu tại gia hoặc ở chùa, tôi thấy,
ngoài bàn thờ Phật ra và bàn thờ gia tộc, họ còn thờ thêm ông Táo, ông Thổ Địa,
ông Thần Tài, ông Quan Thánh, Quan Công,.v..v…
2- Có người nói rằng: Tôi đến chùa cúng dường, thăm viếng quí thầy ở
chùa, mỗi tháng một hai lần hoặc trong
các dịp lễ, ý muốn của tôi là lúc chết được quí thầy đông đủ tụng kinh, niệm Phật
cho tôi, như thế có được không?
Có người chọn một vị thầy mà mình cảm tình nhất và hết sức cung phụng đủ
mọi nhu cầu để thầy dùng, hầu mong có những ngày giỗ kỵ cầu an cầu siêu mời thầy
đảm đương và ngày chết được thầy lo tụng kinh niệm Phật đưa đám hoặc lo tuần thất.
Người Phật tử như vậy có được không?
3- Có người đạo hữu đến chùa lại chọn lựa một vị thầy nào mình khả kính
nhất, thì cúng dường hoặc lo giúp đỡ mọi mặt, ca tụng và tôn xưng, dù cho vị đó
có điểm yếu nhưng vẫn tôn sùng, còn ra các vị khác thì chê bai huỷ báng. Như vậy
người đạo hữu ấy có toàn trách nhiệm đúng tư cách của người tin đạo không?
4- Có những đạo hữu cúng dường sau những lúc hoặc trước những lúc mà họ mời
thầy đến nhà hoặc ở chùa cầu an hoặc cầu siêu cho gia quyến họ. Cúng dường mà
có tính cách đối lưu như vậy có được không?
ĐÁP
1- Có người thờ Phật, thờ ông bà, ngoài ra còn thờ thêm những vị thần
thánh khác, như vậy thì không được. Phật là đấng chí tôn vô thượng giác, là bậc
thầy dẫn đường cho chúng ta tu học. Đức Phật là đấng toàn năng toàn giác, các lời
dạy của Ngài là cao xa u huyền rốt ráo trong sạch, thật sự đưa ta đến chỗ giải
thoát, ngoài ra không có một ai mà có đủ tư cách và khả năng như Phật để tôn thờ.
Vậy, thử hỏi tại sao ta không tôn thờ Phật mà lại tôn thờ thần quyền khác, dù
các vị thần quyền khác, có uy thế bao nhiêu đi nữa cũng còn lẩn quẩn trong vòng
sanh tử, dù các vị đó có hiền và giỏi cũng không qua Đức Phật, trên đời này có
ai lại tôn thờ hai chúa bao giờ? Nhiệm vụ của
người phật tử chỉ tôn thờ đức Phật là bậc chỉ đườngcho ta nương theo tu
học để đến bờ giải thoát. Cha mẹ ông bà là đấng sinh thành ra ta, bao nhiêu
công khó nhọc cần phải nhớ và báo hiếu, chỉ thế thôi.
2- Có người mong rằng đến chùa cúng dường, thăm viếng quí thầy thân tình,
ý muốn đặng ngày sắp chết, lúc đưa đi, momg nhờ quí thầy đáp lễ bằng cách tụng
kinh, niệm phật, cầu siêu. Nếu những người đạo hữu mà có tâm niệm như vậy thì
chưa đúng với cái chính thống với đường lối tu hành, chuyện đó quá mơ hồm chưa
chắc được như ý mình muốn, và nếu có được như ý mình muốn thì mình chưa chắc nhờ
vào sức tụng niệm của quí thầy mà được vãng sanh. Vì sao? Xét ra việc thực tế hằng
ngày cho ta thấy, bụng ta đói, mà có thể nhờ ai ăn giúp mà lòng ta no được
chăng? Ta không ra sức khó nhọc làm việc mà đợi chờ vật chất của cải nó sẵn đến
đầy nhà ta chăng? Thật là mơ hồ, không thể có.
Việc tu hành cũng vậy, chính ta không thực lực tu hành, làm lành lánh dữ,
mà hầu đem của cải vật chất mượn người ta tu dùm, để mong cho mình được giải
thoát thì khó có. Như vậy thì phải tu như thế nào cho đạt được kết quả? Ta nên
biết cần phải thực tâm dũng mãnh cải đổi tà trở thành chính, tránh dữ làm lành,
siêng năng bố thí, tất cả những việc ấy thực hành cho đúng với ý nghĩa của nó,
nghĩa là làm việc đạo không vụ lợi, không cầu danh, vì sự lợi ích chúng sanh,
vì đạo vô thượng Bồ đề mà làm việc, mà tu hành. Trong ta có cái thực lực như thế,
bên ngoài có cái sức hỗ trợ của ngôi Tam bảo (quí thầy) thì phước nào cũng có,
tội gì cũng không diệt, đức nào cũng không sanh, đạo nào mà không đến, giải
thoát sẽ gần bên không mong cầu mà có? Được như thế, thì đúng với đường lối
chính thống, nói rộng ra, ta thấy rằng có nhiều vấn đề trở ngại và cái ý mong
muốn trở thành mơ hồ. Nếu người không lo tu cho bản thân mình mà chờ đợi sự bên
ngoài đưa đến, ta thấy có sự trở ngại như thế này: Một là lúc chết nghiệp ta
quá nặng nề, mê man bất tĩnh, hỏi thử giữa lúc đó dù có hàng trăm thầy tụng,
hàng ngàn câu niệm Phật, đọc nhiều bộ kinh, người chết vẫn khó nghe, khó thấy,
đó là một cái hại của người không lo tu mà ngồi chờ đợi. Trở ngại thứ hai, là
lúc chết chưa chắc quí thầy đến đủ, hoặc đến kịp lúc ta hấp hối, hoặc quí thầy
bận việc chùa. Hỏi thử trong trường hợp này làm sao toại nguyện? Đó là sự trở
ngại của ngồi chờ đợi. Trở ngại thứ ba, là thường những người gần chết, tứ đại
sắp phân tán, thân thể bị đau đớn vô cùng không thể nào chống cự nỗi, không thể
nào mà an vui được, nên không thể nào mà nhận định được câu kinh tiếng kệ, vã lại
lúc đó là lúc phân định của nghiệp, nếu nghiệp thiện thì chết an vui, an vui
quên mất chánh niệm về Phật pháp nên sanh về cõi Trời, sống vui ở cõi Trời hết
phước rồi cũng trở lại làm người. Còn nghiệp ác, thì chết đau khổ, vì đau khổ
nên bị trầm luân.
3- Và muốn rõ hết bổn phận người tu tại gia, nên xem kinh Thiện Sinh (hay
lễ bái lục phương).
Điều cần yếu là người Phật tử tại gia phải có bổn phận khuyến hoá mọi người
trong gia đình trở nên những người con Phật tử như mình.
4- Người Phật tử cúng dường vào ngôi Tam bảo những gì đáng cúng dường để
thích hợp với nhu cầu trong những trường hợp nào?
Người Phật tử cúng dường vào ngôi Tam bảo, trước tiên ta phải nhìn xét
trong những trường hợp nào cần những nhu cầu gì tuỳ theo đó mà phát tâm như thế
khỏi rơi vào tình trạng tiêu pha lãng phí. Cúng dường được nằm trong “Tứ sự
cúng dường”. Bốn việc cúng dường là: 1- Nhà ở, 2- Thuốc men, 3- Cơm ăn, 4- Áo mặc.
Trong bốn việc ấy, ta phải phân định cách sử dụng của nó. Nhà ở cốt để che nắng
mưa, để thân thể khỏi bị nóng lạnh chi phối, thì tinh thần không bận rộn, chỉ
lo chuyện về đạo. Thuốc men trừ sự đau yếu mỏi mệt, để thân được tịnh, tinh thần
mới thoả mái lo việc tu hành. Cơm ăn cốt để nuôi thân, Áo mặc cốt để che nắng
ngăn lạnh và để cho thân thể khỏi lộ bày. Bốn việc trên cần phải giản dị sạch sẽ,
không được tráng lệ, kiêu sa và màu mè quá mức. Làm thế nào nhìn vào ta không
thấy quá tồi tệ, hoang vu, mà cũng không quá cao sang loè lặc, mà chỉ có tính
cách trang nghiêm hoà nhã mà thôi. Trong bốn việc đó, nhờ nó mà sống, chứ không
phải sống để hưởng thụ nó. Cho nên ta phải biết đối với thức ăn thì cho đúng bữa,
không nên dùng những thứ rượu bia, năm chất cay nồng (ngũ vị tân), những thức
ăn mặn, tất cả tuỳ thời, tuỳ lúc mà cúng vào ngôi Tam bảo, có như thế ngôi Tam
bảo dễ hưng thịnh. Vì chúng ta tu theo phái Đại thừa, khác với phái Nguyên thuỷ
và Tiểu thừa ở một vài nơi hoặc các nước khác.
{—]–{
0 nhận xét:
Đăng nhận xét