NGHE DANH ĐƯỢC PHƯỚC
Nguyện thứ 43. Nếu tôi thành
Phật, chư vị bồ tát ở cõi nước phương khác, nghe danh hiệu tôi, sau khi thọ
chung, sanh vào nhà tôn quý, nếu không được như vậy, không thành chánh giác.
Sanh vào nhà tôn quý là nhà
như thế nào? Có ba loại: Nhà quyến thế-
nhà học vấn- nhà giàu có. Cả ba loại đầy đủ. Bởi vì có đủ ba loại,quyền thế, học
vấn, và giàu sang, nên nhận được sự cung kính, tán thán của người đời.
Báo oán ba đời là gì? Đời thứ
nhất tạo nghiệp, đời thứ hai hưởng thọ quả báo, sanh ra phóng dật, đời thứ ba
đoạ lạc trong ba đường ác.
Phàm tu thiện gọi là “Tính
luân hồi”. Trong thiện có ác, trong ác có thiện. Lúc mình bắt đầu làm thiện, niệm
ác lẫn tạp, mình không nhận biết. Đời thứ hai phước báo hiện tiền, chắc chắn sẽ
phóng dật, kết quả đời thứ ba đoạ lạc vào ba đường ác. Khi thọ khổ trong ba đường
ác, mình lại sanh tâm sám hối, trong ác có thiện, bởi vì khởi tâm sám hối là bắt
đầu tu thiện, lại thoát khỏi ba đường ác. Sau khi ra khỏi ba đường ác, lại bắt
đầu tu thiện, rồi chấp yêu lẫn lộn, trở thành một loại tuần hoàn trong cõi trời, người, ba đường ác. Đây gọi
là “tính luân hồi của thiện nghiệp”. Bởi vì bồ đề tâm của chúng ta không đủ chánh kiến, cho nên tất cả thiện
nghiệp mà phàm phu đã tu thì có nguy cơ
của oán báo ba đời. Đây là phước báo
ràng buộc theo nghiệp lực chúng ta đã tạo thành.
Nhưng phước báo thành tựu do
niệm Phật thì không đồng. Phước báo thành tựu do nhớ Phật, niệm Phật không phải
là tính luân hồi, đây gọi là “tính bồ tát”. Bởi vì, đó là nhiếp thọ của bản
nguyện Phật A Di Đà, phước báo này là thanh tịnh, sẽ không khiến mình phóng dật
sa đoạ.
Nguyện thứ 18. Mười niệm
tất được vãng sanh.
Nếu tôi thành Phật, mười
phương chúng sanh, chí tâm tín lạc, muốn sanh nước tôi, cho đến 10 niệm, nếu
không vãng sanh, không thành chánh giác, chỉ trừ ngũ nghịch và phỉ báng chánh
pháp.
Nguyện thứ 18 trong 48 nguyện
thật sự rất quan trọng. Đại sư Thiện Đạo gọi đó là “Nguyện vương”, vì có nguyện
thứ 18 mới hình thành “ba căn đều gia bị, lợi độn đều thâu”. Công đức của câu
danh hiệu Phật này có thể gia bị phổ biến trên từ bồ tát Văn Thù, Phổ Hiền, dưới
đến ngũ nghịch thập ác. Ngài Thiện Đạo cho rằng đây là tư tưởng trọng tâm của bản
nguyện Phật A Di Đà. Ngài Thiện Đạo chia nguyện văn này thành ba phần: Thứ nhất
căn cơ, thứ nhì pháp môn, thứ ba lợi ích.
“Cho đến 10 niệm” này là chỉ
cho 10 niệm lúc lâm chúng. Nhưng Đại sư Đàm Loan giải thích, 10 niệm lâm chung
này, cũng không nhất định vừa đúng 10 tiếng danh hiệu Phật, chính là loại “xưng
niệm liên tục” cho đến thành tựu tịnh nghiệp.
Tịnh Độ tông không coi trọng
danh hiệu Phật nhiều ít, chúng ta “thấy cho đến 10 niệm”, dù cho chẳng phải 10
câu danh hiệu Phật cũng được vãng sanh. Các tổ sư phân định nguyện này làm tiêu
chuẩn thấp nhất của vãng sanh. Chính là chỉ cần 10 câu danh hiệu Phật. Nhưng trọng
điểm của tiêu chuẩn này nằm ở đâu?. Ở “chí tâm tín lạc”, tư tưởng trọng tâm nằm
ỏ 4 chữ này, sanh ra một loại quy y mãnh liệt, hoàn toàn dựa vào tín nguyện mạnh
mẽ mà vãng sanh. Nghĩa là chúng ta buộc
phải đi ra khỏi vọng tưởng của chính mình, hoàn toàn dựa vào bản nguyện của Phật
A Di Đà 100%. Đây căn cứ chính yếu “mang nghiệp vãng sanh” của tông Tịnh Độ. Tuỳ
niệm vãng sanh là mang theo chủng tử nghiệp.
Nguyện thứ 19 lâm chung
tiếp dẫn:
Nếu tôi thành Phật, 10
phương chúng sanh, phát bồ đề tâm, tu mọi công đức, chí tâm phát nguyện, muốn
sanh về nước tôi, lúc thọ mạng hết, giả sử không cùng đại chúng vây quanh, hiện
ra trước mặt người này, không thành chánh giác.
Nguyện thứ 18 chuyên tu ba
nghiệp, thân lễ Phật, khẩu xưng danh hiệu, ý nhất tâm quán tưởng quy y Phật A
Di Đà. Chuyên tu ba nghiệp vạn người tu vạn người vãng sanh.
Nguyện thứ 19 là trọng tâm
khai triển tư tưởng chánh hạnh và trợ hạnh cùng lấy “một môn mà viên nhiếp trăm
ngàn pháp môn”. Trọng tâm của nguyện thứ
18 là “chí tâm tín lạc”, tại tín tâm. Trọng tâm tư tưởng nguyện thứ 19 ở tại “
chí tâm phát nguyện”, tại nguyện lực. Bất luận nguyện thứ 18 hay nguyện thứ 19
đều là nguyện của Phật A Di Đà đã phát nguyện, đều có thể khởi động được lâm
chung tiếp dẫn của Phật A Di Đà.
Chúng ta cần phân biệt
chuyên tu, vên tu, tạp tu. Tạp tu là hôm nay cái này, ngày mai cái khác, mục
tiêu không rõ ràng. Hôm nay nghe tu Thiền hay thì mình liền theo tu thiền, ngày
mai nghe giảng Mật tông hay thì bèn theo tu Mật tông, tín nguyện đối với Phật A
Di Đà không đầy đủ, điều này gọi là tạp tu, tức không chuyên nhất.
Kinh điển Đại thừa nhắc nhở
các vị bồ tát không được đoạ vào ba đường ác. Lý do ở ba đường ác không những
chịu khổ đau, mà quan trọng ở tại chướng ngại thiện căn, che lấp thiện căn, rất
nghiêm trọng. Khi đoạ vào ba đường ác rồi, lúc ra khỏi, bộ dạng thiện căn của
mình đều huỷ hoại hết. Ở cõi người chịu khổ, còn phát khởi đạo tâm, khởi thiện
căn. Cho nên, khổ của người thế gian đối với thiện căn lại có thêm phần hiệu quả.
Khổ trong ba đường ác thì hoàn toàn khác. Sau khi họ thọ khổ xong, thiện căn của
họ cũng bị chôn vùi luôn. Đức Phật phân
ba đường ác thành 8 nạn, bởi thiện căn của nó đều bị chôn vùi.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét