TIẾP ĐỘ CHÚNG SANH BẰNG ÁNH SÁNG
VÀ DANH HIỆU
Trong Kinh Vô Lượng Thọ nói: Đức Phật A Di Đà dùng ánh sáng và danh hiệu
của Ngài để nhiếp hoá chúng sanh. Dùng quang minh danh hiệu nhiếp hoá mười
phương chúng sanh. Ngài dùng danh hiệu của mình để nhiếp thọ, dẫn dắt mười phương
chúng sanh. Đây chính là nguyện thứ 18, “Mười phương chúng sanh, xưng niệm danh
hiệu của Tôi để vãng sanh”.
Đức Phật A Di Đà có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp mười phương các cõi nước,
không hề chướng ngại, cho nên hiệu là A Di Đà. Danh hiệu và ánh sáng của Phật
là nhất thể, danh và thể không hai. Danh hiệu của Ngài cũng chính là quang minh
của Ngài. Chúng ta niệm Phật trên thân có Phật quang, chúng ta niệm Phật liền
được nhiếp thủ trong quang minh của Phật. Vì danh hiệu và quang minh của Ngài
không hề tách biệt, cho nên gọi là quang minh danh hiệu. Nhiếp hoá mười phương
nghĩa là nhiếp thọ và giáo hoá chúng sanh khắp mười phương, chỉ cần chúng ta
xưng niệm danh hiệu đức Phật A Di Đà, Ngài liền nhiếp thủ chúng ta. Nhiếp thủ
chính là ý nghĩa cứu độ.
Chúng ta “chỉ cần tín tâm cầu niệm”
rất đơn giản, chỉ cần làm như vậy. Tín tâm tin theo không chút nghi ngờ. “Cầu” là cầu nguyện vãng sanh; “niệm” là niệm danh hiệu
đức Phật A Di Đà. Thông thường hay nói “Tín, nguyện, hạnh” đó chính là “tín tâm
cầu nguyện”. Một ngày niệm nhiều hay niệm ít tuỳ theo căn cơ, như ăn cơm tuỳ bụng
mà ăn, không gấp không hoãn, chẳng nhiều, chẳng nhiều chẳng ít.
Tuy nhiên, vì phàm phu quen theo thói lười biếng, nên cần phải có kỷ
cương. Vì thế có hai cách niệm Phật. Tuỳ duyên niệm Phật và định kỳ niệm Phật,
tức đi, đứng, nằm, ngồi đều niệm Phật, bất luận ở đâu và lúc nào cũng có thể niệm
được. Thứ hai là định kỳ niệm Phật, tức trong 24 giờ mỗi ngày, chúng ta quy định
một hay hai lần, ngồi lại một chỗ niệm Phật, tốt nhất là trước bàn Phật. Ngày
ngày, đêm đêm đều như thế không lui không sụt. Thì sự niệm Phật của chúng ta mới
có năng lượng và có sự kết nối với từ lực và nguyện lực của Phật A Di Đà. Chúng
ta xưng niệm Nam môA Di Đà Phật, thì trong tâm chúng ta, đã kết cái quả vãng
sanh rồi, đã ở trong tâm bồ đề, chính là kết nối với thế giới Cực Lạc, thì sao
chúng ta lại không được vãng sanh. Nhất định vãng sanh.
Niệm Phật có năng lượng thuần thục rồi, như cá cắn câu sớm muộn gì cũng
được vớt ra khỏi nước. Niệm Phật vãng sanh cũng vậy, sớm muộn gì cũng ra khỏi
Ta bà. Chúng ta chính là cá, còn nước tượng trưng cho biển sanh tử. Đức Phật A
Di Đà muốn vớt chúng ta ra khỏi biển sanh tử, đưa lên bờ Niết bàn, Ngài thả lưỡi
câu xuống để kéo chúng ta lên, lưỡi câu này chính là sáu chữ hồng danh Nam mô A
Di Đà Phật.
Có người nói, tôi còn khoẻ còn trẻ mới ba mươi tuổi, tôi không thích vãng
sanh. Nếu có người nói như thế, thì bạn khuyên họ niệm Phật A Di Đà, họ sẽ được
bình an, mạnh khoẻ, hết bịnh, phát tài phát lộc v.v.. nghe nói niệm Phật có lợi như thế là họ tin, tha thiết
niệm Phật. Niệm Nam mô A Di Đà Phật, như vậy cá đã cắn câu rồi đấy, chẳng bao
lâu họ sẽ được vãng sanh. Vì thế người
nào chưa tin niệm Phật cầu vãng sanh, thì ta khuyên họ niệm Phật cầu tài, cầu lộc,
cầu mau mắn, cầu hết bịnh.v..v… Họ niệm đến lúc nào đó năng lực của câu Phật hiệu
sẽ chuyển tâm ý họ hướng về cầu vãng sanh. Vì đức Phật A Di Đà đã phát lời thệ
nguyện sâu rộng: “Khi Tôi thành Phật mười phương chư Phật đều khen ngợi danh hiệu
Tôi”. Khiến mỗi chúng sanh đều nghe được danh hiệu của Tôi. Chỉ nghe danh hiệu
còn có công đức, huống nữa là niệm danh hiệu, lại không có công đức sao? (nhiều
người nghe danh hiệu Phật mà ngủ ngon giấc, hết buồn lo, an tâm v.v…) vì năng lượng công đức danh hiệu
mà có sự mầu nhiệm như thế.
Trong một bữa cơm, người mẹ hỏi các đứa con rằng: Cơm này từ đâu đến, các
con lần lược trả lời: Từ nồi cơm đến, từ bát đến, từ ngoài chợ đem về…không câu
nào trả lời đúng cho câu hỏi của người mẹ. Người mẹ mới nói các con trả lời
chưa đúng, cơm này có ra từ những người
nông dân, chân lấm tay bùn, khó khổ với sức người sức trâu cày kéo mới có hạt
cơm nầy, mới có ra hạt cơm cho chúng ta ăn ngày hôm nay vậy. Cũng thế, câu danh
hiệu Phật Nam mô A Di Đà Phật, có từ sự
huân tu vô lượng kiếp của ngài Pháp Tạng Tỳ kheo, nhiều kiếp tu hành khó khổ mà
nên. Cũng như lời dạy của đức Phật Thích Ca Mâu Ni mà chúng ta hôm nay, được
nghe được học tập, có từ sự rời bỏ hoàng cung của Thái tử Tất Đạt Đa, để đi tầm
đạo. Sáu năm khổ hạnh ở rừng già, bốn
chín ngày đêm tham thiền nhập định chứng
thành đạo quả, để hôm nay chúng ta mới có pháp học pháp tu ra khỏi con đường khổ đau sanh tử. Biết
vậy, chúng ta phải siêng năng tinh tấn và trân quý lời dạy của Phật, tu hành
không lơ là, cho qua ngày đoạn tháng.
Đức Phật Thích Ca dùng âm thanh, lời nói để hoá độ chúng sanh, còn Phật
Di Đà dùng ánh sáng và danh hiệu của mình để nhiếp hoá chúng sanh. Quán Kinh nói, đức Phật A Di Đà có tám vạn bốn
ngàn tướng, mỗi tướng có tám vạn bốn ngàn hảo,
mỗi một hảo tướng có tám vạn bốn ngàn tia sáng. Ánh sáng nhiều như vậy
là để nhiếp thủ chúng sanh, không bỏ sót một chúng sanh nào, xưng danh hiệu của
Ngài. Như vậy chúng sanh nào niệm danh
hiệu của Ngài, Nam mô A Di Đà Phật tức liền nhiếp vào ánh sáng của Phật. Khi đã
nhiếp thủ vào trong ánh sáng thì chúng sanh ấy trước sau gì cũng được vãng
sanh, nên nói niệm Phật chắc chắn được vãng sanh.
{—]–{
0 nhận xét:
Đăng nhận xét